Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng Tài sản lưu động tại công ty cổ phần Tập đoàn Hưng Hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 66 trang )

Chuyên   t t nghip 1 GVHD: TS Phan Hu Ngh
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam vô
cùng mạnh mẽ. Đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập WTO đã đưa nước ta hội
nhập toàn diện và sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Điều đó đã tạo ra nhiều
thời cơ và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Để tồn tại và phát triển
trong một môi trường năng động và cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ đòi hỏi các
doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện mình để có đủ khả năng tự chủ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Có nhiều mảng, nhiều khía cạnh mà một
doanh nghiệp cần phải quan tâm khi muốn đạt được hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao nhất. Một trong các vấn đề đó là việc quản lý và sử dụng tài sản của
doanh nghiệp. Bởi lẽ, tài sản của doanh nghiệp tham gia vào từng hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó, dù là trực tiếp hay gián tiếp.
Tài sản của doanh nghiệp gồm hai loại là TSCĐ và TSLĐ. TSLĐ đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra thường
xuyên, liên tục. Từ đó có thể thấy việc tổ chức quản lý và sử dụng TSLĐ có
hiệu quả hay không sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý tài chính nói
chung của doanh nghiệp.
Sau một thời gian thực tập có điều kiện đi sâu tìm hiểu thực tế tại công ty
cổ phần Tập đoàn Hưng Hải, nhận thấy được những ưu điểm cũng như những
khó khăn còn gặp phải trong công tác quản lý và sử dụng TSLĐ của công ty,
em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ tại
công ty cổ phần Tập đoàn Hưng Hải”. Nội dung chính của đề tài gồm có 3
chương chính:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng tài lưu động
của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại công ty
cổ phần Tập đoàn Hưng Hải.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại
công ty cổ phần Tập đoàn Hưng Hải.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547


Chuyên   t t nghip 2 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Do thời gian nghiên cứu và trình độ có hạn nên bài viết không thể tránh
khỏi những thiếu sót, yếu kém. Em kính mong nhận được sự chỉ bảo cũng như
những ý kiến đóng góp của thầy cô và các ban đồng nghiệp để bài viết của em
được hoàn thiện hơn và đạt hiệu quả thực tiễn cao hơn.
Trong quá trình nghiên cứu em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của TS.
Phan Hữu Nghị trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu logic cũng như sự giúp đỡ của các anh chị phòng kế toán của công ty cổ
phần Tập đoàn Hưng Hải trong việc lựa chọn số liệu phù hợp cho bài viết. Em
xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 3 GVHD: TS Phan Hu Ngh
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP.
1.1. Tổng quan về tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Đối với một quốc gia, sự phát triển kinh tế là một trong những mục tiêu
quan trọng hàng đầu. Sự phát triển kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá tiềm lực của một quốc gia trên trường quốc tế. Để quá trình
vận hành nền kinh tế đạt được hiệu quả cần có sự phối hợp hài hòa giữa các
thành viên bên trong nó. Trong đó, doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng quyết
định sự tồn tại và phát triển chung của bất kỳ nền kinh tế nào. Các doanh
nghiệp được hình thành, đi vào hoạt động và phát triển với nhiều hình thức
kinh doanh khác nhau. Có doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi
nhuận, cũng có doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu công ích xã hội. Và xét cho
đến cùng thì mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn là nhằm đạt đến tối đa hóa
giá trị của chủ sở hữu. Bởi lẽ, mỗi doanh nghiệp thuộc về các chủ sở hữu nhất
định. Họ chỉ quyết định tiếp tục phát triển khi nhận thấy giá trị đầu tư của mình
tăng lên. Quản lý tài chính doanh nghiệp chính là nhằm thực hiện mục tiêu đó.
Trong giới hạn của khoá luận này xin chỉ xét đến hoạt động của doanh nghiệp

hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận.
Doanh nghiệp hoạt động không tách rời với các mối quan hệ với môi
trường xung quanh. Nền kinh tế thị trường càng phát triển đặt ra những điều
kiện về chất lượng, mẫu mã, giá cả của hàng hóa, chất lượng của dịch vụ ngày
càng cao hơn, tinh tế hơn. Do đó, để có đủ sức cạnh tranh các doanh nghiệp
buộc phải không ngừng cải tiến sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có
hiệu quả và chất lượng cao. Trong sự vận động của thị trường, các mối quan hệ
tài chính của doanh nghiệp được thể hiện rất đa dạng trong toàn bộ quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất - kinh
doanh, các nhà tài chính doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ tài chính thông
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 4 GVHD: TS Phan Hu Ngh
qua phương thức giải quyết ba vấn đề cơ bản quan trọng của tài chính doanh
nghiệp. Đó là:
Một là, nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại
hình sản xuất kinh doanh đã lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn
của doanh nghiệp và là cơ sở để sự toán vốn đầu tư.
Hai là, nguồn vốn đầu tư doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào?
Ba là, doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế
nào? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng có liên quan chặt chẽ
tới quản lý TSLĐ của doanh nghiệp.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả các vấn đề của tài chính doanh
nghiệp, nhưng là các vấn đề lớn nhất, quan trọng nhất mà mỗi quyết định về
các vấn đề đó đều có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi vấn đề đó bao gồm nhiều nội dung, nhiều khía cạnh khác nhau.
Trong phạm vi khoá luận này sẽ chỉ phân tích tới những nội dung cơ bản của
công tác quản lý TSLĐ trong doanh nghiệp.
Trước hết là những lý luận chung về TSLĐ cũng như công tác quản lý
TSLĐ của doanh nghiệp.
1.1.1 Khái niệm về TSLĐ của doanh nghiệp.

Trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản là khoản mục nằm
bên trái được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản
cao, các khoản phải thu và dự trữ. Có nhiều cách phân loại tài sản trong các
doanh nghiệp. Xét về mặt giá trị và tính chất luân chuyển của tài sản, toàn bộ
tài sản của doanh nghiệp có thể được chia làm hai loại: TSLĐ và TSCĐ. Mỗi
một loại tài sản đó có những hình thái vật chất và vai trò riêng nhưng đều nhằm
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo cách phân loại này,
TSLĐ có thể được hiểu là toàn bộ những tài sản ngắn hạn và thường xuyên
luân chuyển trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2 Phân loại TSLĐ của doanh nghiệp.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 5 GVHD: TS Phan Hu Ngh
TSLĐ gồm nhiều loại với tính chất và công dụng khác nhau. Vì vậy, để
tạo điều kiện cho việc quản lý đạt hiệu quả nhất, TSLĐ cần được phân loại cho
phù hợp với mục tiêu quản lý.
Xét theo lĩnh vực tham gia luân chuyển, TSLĐ có thể được phân thành
ba loại: TSLĐ sản xuất, TSLĐ lưu thông và TSLĐ tài chính.
• TSLĐ sản xuất là những tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất
(trong đó gồm các nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ… đang dự trữ
trong kho) và tài sản dùng trong sản xuất (là các giá trị sản phẩm dở dang).
• TSLĐ lưu thông bao gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông
(như các thành phẩm, hàng hóa dự trữ trong kho, hàng đang gửi bán), và tài sản
trong quá trình lưu thông (gồm vốn bằng tiền và các khoản phải thu).
• TSLĐ tài chính là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với mục
tiêu kiếm lời (đầu tư liên doanh, liên kết, đầu tư vào chứng khoán…).
Xét theo mức độ thanh khoản, tức dựa vào khả năng huy động cho việc
thanh toán, người ta chia TSLĐ thành các loại khác nhau. Bao gồm:
• Ngân quỹ: bao gồm tiền mặt tại két của doanh nghiệp, tiền gửi tại
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tiền đang chuyển. Đây là khoản mục có tính
thanh khoản cao nhất trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.

• Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn bao gồm đầu tư chứng khoán
ngắn hạn có khả năng thanh khoản cao, đầu tư ngắn hạn khác, các khoản dự
phòng đầu tư ngắn hạn… Đây là những tài sản có tính thanh khoản cao nhưng
thêm vào đó chúng còn có khả năng sinh lời cho doanh nghiệp. Khi có nhu cầu
thanh toán, doanh nghiệp có thể bán các chứng khoán này để chi trả.
• Các khoản phải thu, còn được gọi là các khoản tín dụng thương
mại, bao gồm: các khoản phải thu khách hàng, các khoản trả trước cho người
bán, các khoản VAT được khấu trừ, các khoản phải thu nội bộ và các khoản
phải thu khác. Các khoản phải thu này có thể được hình thành qua các mối
quan hệ kinh doanh với khách hàng, với các nhà cung cấp hay với chính cán bộ
công nhân viên của doanh nghiệp.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 6 GVHD: TS Phan Hu Ngh
• Dự trữ, tồn kho: đó là các nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, các sản phẩm dở dang hay bán
thành phẩm, thành phẩm lưu kho. Khoản mục này ở các doanh nghiệp khác
nhau là khác nhau tùy thuộc vào hoạt động của doanh nghiệp đó.
• TSLĐ khác: bao gồm các khoản tạm ứng chưa thanh toán, chi phí
trả trước, chi phí dở dang, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý, các
khoản thế chấp, kí cược, kí quỹ…
Tuy vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ các khoản mục đó
trong TSLĐ của mình. Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp khác nhau mà các
khoản mục đó có thể thay đổi khác nhau nhưng thông thường bao gồm: tiền
mặt và chứng khoán thanh khoản cao, các khoản phải thu, dự trữ.
1.1.3 Cơ cấu TSLĐ của doanh nghiệp.
Theo cách phân loại dựa vào tính thanh khoản của các loại tài sản, TSLĐ
bao gồm 4 khoản mục chính: ngân quỹ, chứng khoán có khả năng thanh khoản
cao, các khoản phải thu và dự trữ. Cơ cấu TSLĐ có thể được hiểu là tỷ trọng
của từng loại TSLĐ trong tổng số TSLĐ của doanh nghiệp. Đối với mỗi loại tài
sản đó, doanh nghiệp luôn đứng trước sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Các

loại TSLĐ đều cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc nắm giữ
TSLĐ càng nhiều, nguy cơ mất khả năng thanh khoản càng thấp, nghĩa là rủi ro
kinh doanh càng thấp. Tuy nhiên, việc nắm giữ TSLĐ là có chi phí. Do đó, sức
ép của việc duy trì cơ cấu TSLĐ ở mức hợp lý sao cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp không bị gián đoạn là rất lớn. Việc lựa chọn cơ cấu
TSLĐ tối ưu sẽ được phân tích kỹ hơn trong các phần sau của khoá luận này.
1.1.4 Tầm quan trọng của TSLĐ đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi muốn tiến hành hoạt động sản xuất -
kinh doanh đều cần phải có tài sản. Tài sản là một tiềm lực kinh tế của doanh
nghiệp, biểu thị cho những lợi ích mà doanh nghiệp có được trong tương lai
hoặc những tiềm năng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
TSLĐ là một trong hai bộ phận của tài sản trong doanh nghiệp. TSLĐ tham gia
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 7 GVHD: TS Phan Hu Ngh
vào tất cả các quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, để hoạt động
kinh doanh được tiến hành liên tục thì doanh nghiệp cần phải có đủ TSLĐ. Nhu
cầu về TSLĐ giữa các doanh nghiệp khác nhau không chỉ về quy mô mà còn cả
về cơ cấu, tùy thuộc vào đặc điểm và loại hình hoạt động kinh doanh. Một cơ
cấu hợp lý sẽ đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu kinh doanh của đơn vị giúp
giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Không những thế, thông qua cơ
cấu TSLĐ ta có thể biết được tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp về
khả năng thanh toán và các rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Vì vậy, một chính sách quản lý và sử dụng TSLĐ khoa học là rất cần
thiết, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
1.2 Công tác quản lý TSLĐ của doanh nghiệp.
TSLĐ tồn tại ở tất cả các khâu, các lĩnh vực trong suốt quá trình sản
xuất, tái sản xuất của doanh nghiệp. Việc quản lý và sử dụng hợp lý các loại
TSLĐ có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc hoàn thành các chỉ tiêu mà doanh

nghiệp đặt ra. Hơn nữa, thông qua việc quản lý TSLĐ giúp các chủ sở hữu, các
nhà đầu tư và đối tác có thể biết được thực trạng sử dụng TSLĐ trong doanh
nghiệp, thông qua đó thể hiện một phần năng lực của nhà quản lý. Công tác
quản lý TSLĐ bao gồm: quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao,
các khoản phải thu và dự trữ
1.2.1 Quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao.
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp tại ngân hàng. Nó được sử dụng để trang trải các khoản chi tiêu
trong doanh nghiệp như: mua nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, trả
lương cho công nhân viên, mua sắm TSCĐ, trả tiền thuế… Bản thân tiền mặt là
tài sản không sinh lãi hoặc có tỷ suất sinh lời thấp. Nhưng nếu doanh nghiệp
giữ một lượng tiền mặt dư thừa sẽ làm giảm hiệu suất sinh lời của vốn chủ sở
hữu và do vậy sẽ ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc giữ
một lượng tiền mặt trong kinh doanh là vấn đề hết sức cần thiết, bởi:
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 8 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Thứ nhất, đảm bảo cho các giao dịch hàng ngày. Những giao dịch
thường xuyên diễn ra trong ngày có thể là: thanh toán cho khách hàng, thanh
toán cho nhà cung cấp, thu tiền từ khách hàng… Từ những giao dịch đó mà tạo
ra các số dư giao dịch.
Thứ hai, bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ
cho doanh nghiệp, chẳng hạn chuyển khoản thanh toán cho nhà cung cấp hay
khách hàng, cho vay để sản xuất… Số dư tiền mặt này được gọi là số dư bù
đắp.
Thứ ba, đáp ứng nhu cầu dự phòng cho các biến động bất thường liên
quan đến các dòng tiền vào và ra trong doanh nghiệp. Loại tiền này tạo nên số
dư dự phòng.
Thứ tư, duy trì số dư nhằm mục đích đầu cơ để cho phép doanh nghiệp
tận dụng các cơ hội kiếm lời.
Bên cạnh đó việc giữ tiền mặt cũng có những lợi thế nhất định:

• Trong các giao dịch với nhà cung cấp, khi doanh nghiệp có đủ tiền
mặt sẽ tận dụng được những lợi thế chiết khấu thương mại.
• Việc giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt các chỉ số về khả năng thanh toán
ngắn hạn giúp doanh nghiệp duy trì tín nhiệm với nhà cung cấp hay với ngân
hàng. Từ đó có thể được mua hàng với những điều kiện ưu đãi, được hưởng
mức tín dụng ưu đãi.
• Giữ đủ tiền mặt còn giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội
thuận lợi trong kinh doanh vì chủ động được trong các hoạt động chi trả.
• Khi có đủ tiền mặt, doanh nghiệp có thể đối phó kịp thời trong các
trường họp khẩn cấp, các chi tiêu đột xuất như rủi ro từ những biến động của
thị trường, khó khăn do yếu tố thời vụ
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng.
Sự quản lý này có mối liên quan chặt chẽ với việc quản lý các loại tài sản gắn
liền với tiền mặt như các loại chứng khoán thanh khoản cao. Các loại chứng
khoán thanh khoản cao giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt vì trong
trường hợp cần thiết có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 9 GVHD: TS Phan Hu Ngh
và tốn ít chi phí để có thể đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp không bị
gián đoạn. Đó là lý do trong quản trị tài chính, các nhà quản trị sử dụng chứng
khoán thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở một mức độ mong muốn. Điều này
có thể được biểu hiện rõ qua sơ đồ luân chuyển sau:
Các chứng khoán thanh khoản cao
Đầu tư tạm thời bằng cách
mua chứng khoán thanh
khoản cao
Bán những chứng khoán
thanh khoản cao để bổ sung
cho tiền mặt
Dòng thu tiền mặt Tiền mặt Dòng chi tiền mặt

Hình 1.1: Sơ đồ luân chuyển giữa tiền mặt và chứng khoán thanh khoản cao.
Một trong các chính sách quản lý TSLĐ quan trọng chính là việc xây
dựng một mức dự trữ tiền mặt hợp lý. Mức dự trữ tối ưu liên quan đến việc
đánh đổi chi phí cơ hội của việc giữ tiền và chi phí giao dịch do thiếu hụt quỹ
tiền mặt. Để xác định được mức tiền mặt tối ưu, có hai mô hình đã được phát
triển nhằm hỗ trợ cho các nhà quản trị tài chính.
1.2.1.1 Mô hình Baumol.
Mô hình này được ứng dụng nhằm thiết lập một mức dự trữ tiền mặt tối
ưu. Cũng giống như các mô hình khác, mô hình này được xây dựng dựa trên
những giả định:
• Doanh nghiệp áp dụng tỷ lệ bù đắp tiền mặt không đổi.
• Không có số thu tiền mặt trong kỳ hoạch định.
• Không có dự trữ tiền mặt cho mục đích an toàn.
• Dòng tiền rời rạc chứ không liên tục.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 10 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Hình 1.2: Mô hình Baumol.
Theo mô hình này, lượng dự trữ tiền mặt tối ưu được xác định là:
M
*
= (2Mⁿ × C
b
/i)
1/2
Trong đó:
M
*
: tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm.
C
b

: chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản.
i: lãi suất.
Từ công thức trên cho thấy: nếu lãi suất càng cao thì người ta càng ít giữ
tiền mặt và ngược lại, nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao họ lại
càng giữ nhiều tiền mặt.
Tuy nhiên những giả định của mô hình này là không đúng với thực tế.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp rất hiếm khi có lượng tiền vào, ra
của doanh nghiệp lại đều đặn và dự kiến trước được, do đó làm cho mức dự trữ
cũng khó có thể đều đặn như giả định. Một số hạn chế của mô hình này đã
được khắc phục nhờ mô hình Miller - Orr.
1.2.1.2 Mô hình Miller - Orr
Khác với mô hình Baumol, mô hình Miller - Orr xây dựng mức dự trữ tối
ưu dựa trên dòng thu và chi tiền mặt diễn ra ngẫu nhiên trong ngày. Mô hình
Miller - Orr liên quan đến cả dòng thu và dòng chi với giả định dòng tiền mặt
ròng có phân phối chuẩn. Dòng tiền hàng ngày có thể dao động trong một
khoảng, tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất đến giới hạn cao
nhất. Nếu lượng tiền mặt ở dưới mức thấp nhất thì doanh nghiệp phải bán
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Tin mt   u k = C
Tin mt bình quân = C/2
Tin mt cui k C = 0
Tun
Chuyên   t t nghip 11 GVHD: TS Phan Hu Ngh
chứng khoán để có lượng tiền mặt ở mức dự kiến. Ngược lại, tại giới hạn trên,
doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền vượt quá mức giới hạn mua chứng khoán
để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến.
Khoảng dao động lượng tiền mặt dự kiến phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản:
Một là, mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự
dao động này được thể hiện ở phương sai của thu chi ngân quỹ. Phương sai của
thu chi ngân quỹ là tổng các bình phương của thu chi ngân quỹ thực tế càng có

xu hướng khác biệt nhiều so với thu chi bình quân.
Hai là, chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán.
Ba là, lãi suất càng cao thì các doanh nghiệp sẽ giữ lại ít tiền và do vậy
khoảng dao động tiền mặt sẽ giảm xuống.
Hình 1.3: Mô hình Miller – Orr.
Khoảng dao động tiền mặt được xác định bằng công thức:
d = 3(¾ × C
b
× V
b
/i)
1/2
Trong đó:
d: khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của lượng tiền mặt dự trữ.
C
b
: chi phí cho mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán.
V
b
: phương sai của thu chi ngân quỹ.
i: lãi suất.
Đây là mô hình được rất nhiều doanh nghiệp áp dụng trên thực tế. Khi áp
dụng mô hình này, mức tiền mặt ở giới hạn dưới thường được lấy là mức tiền
mặt tối thiểu. Phương sai của thu chi ngân quỹ được xác định bằng cách dựa
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 12 GVHD: TS Phan Hu Ngh
vào số liệu thực tế của một quỹ trước đó để tính toán. Khi doanh nghiệp hoàn
toàn dự kiến được luồng tiền vào và tiền ra một cách chắc chắn thì hầu như
doanh nghiệp chỉ cần giữ lại một lượng tiền không đáng kể, còn lại sẽ đầu tư
vào chứng khoán ngắn hạn để kiếm lời.

1.2.2 Quản lý dự trữ, tồn kho.
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh
doanh, việc tồn tại hàng hóa tồn kho là cần thiết cho hoạt động bình thường của
doanh nghiệp. Hàng hóa tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho
quá trình sản xuất - kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Nguyên vật
liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp nhưng nó đóng
vai trò rất lớn góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh được tiến
hành bình thường. Việc dự trữ quá nhiều hay quá ít có thể ảnh hưởng đến
doanh nghiệp. Nếu thiếu sẽ làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, ảnh hưởng đến năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh. Nhưng nếu
quá dư thừa sẽ gây tốn kém chi phí, ứ đọng vốn. Do vậy các doanh nghiệp cần
có chiến lược dữ trữ tối ưu nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thông thường trong
quản lý, vấn đề chủ yếu được đề cập đến là nguyên vật liệu dữ trữ cho sản xuất
kinh doanh.
Hàng tồn kho chịu ảnh hưởng chủ yếu của doanh số bán. Quản lý tồn
kho đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận bán hàng, mua hàng, sản xuất
và tài chính. Sự hợp tác thiếu chặt chẽ giữa các bộ phận, dự báo doanh số
không chính xác sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Mục tiêu quản lý tồn
kho là đảm bảo lượng hàng tồn kho cần thiết để duy trì hoạt động sản xuất kinh
doanh bình thường với chi phí tối thiểu.
Có nhiều phương pháp quản lý hàng tồn kho. Ở đây có thể đề cập đến
một vài phương pháp chủ yếu hay được áp dụng:
1.2.2.1 Mô hình EOQ - quản lý tồn kho theo phương pháp cổ điển.
Giả định mà mô hình này đưa ra là những lần cung cấp hàng hóa là bằng
nhau. Khi doanh nghiệp tiến hành dự trữ hàng hóa sẽ dẫn theo là hàng loạt các
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 13 GVHD: TS Phan Hu Ngh
chi phí khác phát sinh kèm như: chi phí bốc xếp hàng hóa, chi phí bảo quản, chi
phí lắp đặt… Tuy vậy có thể tựu chung lại thành hai loại chính:
• Chi phí lưu kho: là những chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hóa.

Chi phí này bao gồm:
+ Chi phí hoạt động như chi phí bốc xếp hàng hóa, chi phí do giảm
giá hàng hóa…
+ Chi phí tài chính: chi phí sử dụng vốn như lãi tiền vay, chi phí về
thuế, khấu hao…
Gọi số lượng mỗi lần cung cấp hàng hóa là Q, lượng dự trữ trung bình sẽ
là .
Gọi C
1
là chi phí lưu kho đơn vị hàng hóa. Tổng chi phí lưu kho của
doanh nghiệp là C
1
× .
Nếu số lượng hàng mỗi lần cung ứng tăng sẽ làm tổng chi phí lưu kho
tăng.
• Chi phí đặt hàng: bao gồm chi phí giao dịch và vận chuyển hàng hóa.
Loại chi phí này thường ổn định, không phụ thuộc vào số lượng hàng hóa được
mua.
Gọi D là toàn bộ lượng hàng hóa cần sử dụng trong một đơn vị thời gian
thì số lượng lần cung ứng hàng hóa sẽ là D/Q.
Gọi C
2
là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là C
2
×D/Q
Nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm thì tổng chi phí đặt hàng tăng.
Gọi TC là tổng chi phí tồn kho, ta có:
TC = C
1
×


+ C
2
× D/Q
Công thức trên có thể biểu diễn qua đồ thị như sau:
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 14 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Q
*
Lượng hàng cung ứng
Như vậy, nếu khối lượng hàng cung ứng mỗi lần là Q
*
tổng chi phí dự
trữ là thấp nhất. Ta có thể dễ dàng tìm thấy giá trị của Q
*
bằng cách lấy vi phân
TC theo Q:
Q
*
= (2DC
2
/ C
1
)
1/2
Điểm đặt hàng mới: Trong thực tế, không có doanh nghiệp nào lại để đến
khi hết nguyên vật liệu rồi mới đặt hàng vì trong nhiều trường hợp doanh
nghiệp có thể gặp phải những rủi ro trong quá trình mua hàng (ví dụ như hàng
về chậm hoặc không có đủ hàng, hàng không đảm bảo chất lượng…) làm gián
đoạn quá trình sản xuất. Điều đó có thể dẫn đến sự giảm sút về doanh số bán

hàng, và gây mất lòng tin đối với khách hàng. Nhưng nếu đặt hàng quá sớm sẽ
làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải xác
định điểm đặt hàng mới kịp thời và kinh tế nhất.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chi phí
0
Chuyên   t t nghip 15 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Thời điểm đặt hàng mới được xác định bằng số lượng nguyên liệu sử
dụng mỗi lần × độ dài thời gian giao hàng.
Lượng dự trữ an toàn: Nguyên vật liệu được sử dụng mỗi ngày không
phải là một số cố định mà biến động không ngừng, nhất là đối với những doanh
nghiệp sản xuất mang tính thời vụ hoặc sản xuất những chủng loại hàng hóa
nhạy cảm với thị trường. Nếu đơn hàng đến trễ hay nhu cầu vật liệu lớn hơn
mong đợi trong khi chúng ta đang chờ hàng về, việc hết tồn kho có thể xảy ra,
có nghĩa là tồn kho không hữu hiệu. Vì vậy, để đảm bảo cho sự ổn định của sản
xuất, doanh nghiệp cần phải duy trì một lượng hàng tồn kho ở mức an toàn.
Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hóa dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
1.2.2.2 Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0.
Tư tưởng cơ bản của phương pháp này là các doanh nghiệp trong một số
ngành nghề có liên quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ,
khi có đơn đặt hàng nào đó họ sẽ tiến hành thu gom trực tiếp những hàng hóa
và sản phẩm dở dang của doanh nghiệp khác mà không cần dự trữ.
Phương pháp này nếu được sử dụng sẽ giúp cho doanh nghiệp có thề
giảm tới mức tối đa chi phí cho dự trữ vì lúc đó dự trữ của doanh nghiệp gần
như bằng 0. Tuy vậy, phương pháp này chỉ nên được áp dụng cho một số loại
dự trữ nào đó của doanh nghiệp và phải kết hợp với các phương pháp quản lý
khác để đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.3 Quản lý các khoản phải thu.
Để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp có thể sử
dụng nhiều chiến lược khác nhau về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, về phương

thức tiếp thị sản phẩm, về các dịch vụ hậu mãi… Trong điều kiện nền kinh tế
cạnh tranh như hiện nay, việc mua bán chịu là không thể thiếu. Các khoản phải
thu được hình thành thông qua quá trình mua bán chịu đó của doanh nghiệp với
khánh hàng hay nhà cung cấp của mình. Chính sách mua bán chịu (chính sách
tín dụng thương mại) này là cần thiết đối với các doanh nghiệp song cũng tạo ra
cho các nhà quản trị nhiều vấn đề. Khi cấp tín dụng thương mại cho khách
hàng, doanh nghiệp có thể phải gánh chịu những khoản tăng lên của chi phí
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 16 GVHD: TS Phan Hu Ngh
hoạt động. Do khách hàng được trả chậm nên doanh nghiệp phải chịu thêm chi
phí cho việc đòi nợ, chi phí bù đắp cho sự thiếu hụt ngân quỹ Thời hạn cấp
tín dụng càng dài thì các khoản chi phí càng tăng lên. Trong trường hợp khách
hàng không trả tiền hoặc chậm trả tiền thì rủi ro đối với doanh nghiệp càng lớn.
Vì vậy, các nhà quản trị cần so sánh giữa khoản tăng lên của thu nhập và chi
phí phải bỏ ra cũng như những rủi ro tiềm ẩn từ đó đưa ra các quyết định về
chính sách tín dụng thương mại mang lại hiệu quả nhất. Khi cân nhắc có sử
dụng chính sách tín dụng thương mại, cần chú ý một số nội dung:
* Phân tích khả năng tín dụng của khách hang: Trước hết, doanh
nghiệp cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn tín dụng hợp lý. Sau đó, dựa trên
cơ sở của hệ thống tiêu chuẩn đã xây dựng, các khách hàng sẽ được xác minh
phẩm chất tín dụng của khách hàng. Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống
tiêu chuẩn tín dụng đạt được sự cân bằng thích hợp là không đơn giản. Nếu tiêu
chuẩn đặt ra quá cao có thể làm mất đi nhiều khách hàng tiềm năng, làm giảm
lợi nhuận. Nhưng nếu tiêu chuẩn đặt ra quá thấp thì sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro có
thể gây những thiệt hại về kinh tế.
* Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị. Cũng giống như
nhiều sự phân tích lựa chọn khác, việc phân tích các khoản tín dụng thương mại
được đề nghị sử dụng chỉ tiêu NPV của dòng tiền. Doanh nghiệp sẽ cân nhắc
giá trị của NPV để ra quyết định có cấp tín dụng hay không.
* Theo dõi các khoản phải thu. Sau khi cấp tín dụng cho khách hàng,

doanh nghiệp cần theo dõi chặt chẽ các khoản phải thu của khách hàng để có
thể có những thay đổi kịp thời phù hợp với tình hình thực tế.
Một chính sách tín dụng thương mại bao gồm: kỳ hạn tín dụng, tiêu
chuẩn tín dụng, chính sách thu tiền, chiết khấu.
• Kỳ hạn tín dụng là độ dài thời gian mà khoản tín dụng được cấp.
Việc tăng kỳ hạn tín dụng thường gây ra hiệu ứng kích thích doanh số, tuy
nhiên kèm theo đó là các khoản chi phí phát sinh liên quan tới các khoản gia
tăng doanh thu.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 17 GVHD: TS Phan Hu Ngh
• Tiêu chuẩn tín dụng đề cập đến điểm mạnh và uy tín mà khách
hàng phải chứng minh để có thể nhận được tín dụng.
• Chính sách thu tiền đề cập tới các thủ tục mà doanh nghiệp tuân
thủ để thu tiền từ các khoản thu đến hạn. Quá trình thu tiền có thể tốn kém về
mặt chi phí xét trên phương diện chi phí trực tiếp và danh tiếng bị tổn thất. Tuy
nhiên ít nhất phải có tính kiên định cần thiết để tránh tình trạng kéo dài thời
gian thu tiền quá mức và để tối thiểu hóa tổn thất hiện hữu.
• Chính sách chiết khấu. Chiết khấu có thể thu hút sự chú ý của
khách hàng và khuyến khích khách hàng thanh toán sớm để được hưởng chiết
khấu. Song chiết khấu vì thế cũng sẽ làm giảm thu nhập trên mỗi đơn vị hàng
bán cho doanh nghiệp. Do đó, các nhà quản trị cần cân nhắc kỹ các điểu khoản
của chính sách chiết khấu đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng và doanh nghiệp.
1.3 Hiệu quả sử dụng TSLĐ.
1.3.1 Khái niệm về hiệu quả sử dụng TSLĐ.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào, hiệu quả luôn là tiêu chí được xem xét hàng
đầu. Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là khái niệm phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với mục tiêu xác
định do con người đặt ra. Như vậy, có thể hiểu hiệu quả sử dụng tài sản trong
doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và
sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục

đích tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí.
Quản lý tài sản trong doanh nghiệp nói chung và TSLĐ nói riêng đạt
hiệu quả là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì thế nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ là hết sức
cần thiết và quan trọng đối với các doanh nghiệp hiện nay.
1.3.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp.
Có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau được sử dụng nhưng khi tiến hành phân
tích các nhà quản trị chủ yếu vẫn thường sử dụng một vài chỉ tiêu cơ bản sau:
1.3.2.1 Chỉ tiêu về khả năng hoạt động.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 18 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Để đánh giá khả năng hoạt động của các khoản mục trong TSLĐ ta có
thể sử dụng một số các chỉ tiêu:
* Số vòng quay hàng tồn kho: Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để
đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được
xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ bình quân.
Doanh thu
K
1
= ─────────────────
Tồn kho bình quân trong kỳ
Tỷ số này cho biết số lần hàng tồn kho được luân chuyển trong kỳ. Chỉ
tiêu này càng lớn có nghĩa là hàng tồn kho được luân chuyển nhanh, làm giảm
các loại chi phí lưu kho cũng như chứng tỏ sự lưu thông hàng hóa của doanh
nghiệp là rất tốt. Dựa vào chỉ tiêu này mà các nhà quản trị có thể đánh giá được
tình hình tồn kho của doanh nghiệp từ đó có thể đưa ra các biện pháp xử lý
nhằm đẩy nhanh quá trình lưu thông, đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp.
* Số ngày tồn kho bình quân.
Tỷ số này cho biết một lần luân chuyển của hàng tồn kho trung bình hết
bao nhiêu ngày. Tỷ số này được xác định bằng công thức:

Thời gian bình quân kỳ kinh doanh
K
2
= ────────────────────

Số vòng quay hàng tồn kho
∗ Kỳ thu tiền bình quân hay thời gian thu tiền là số ngày của một vòng
quay các khoản phải thu. Tỷ số này cho biết, cứ trung bình K
2
ngày thì doanh
thu từ bán chịu hàng hóa cho khách hàng được thanh toán. Tỷ số này càng nhỏ
chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSLĐ càng cao.
Tổng số ngày trong kỳ
K
3
= ─────────────────────

Số vòng quay khoản phải thu trong kỳ
Trong đó, số vòng quay các khoản phải thu trong kỳ được xác định bằng:
Doanh thu bán chịu trong kỳ
Số vòng quay khoản phải thu trong kỳ

= ─────────────────
Các khoản phải thu bình quân
Do đó, công thức xác định kỳ thu tiền bình quân có thể được viết lại:
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 19 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Khoản phải thu
K
3

= ─────────────────────
Doanh thu bán chịu bình quân ngày
∗ Vòng quay tiền: tỷ số này được xác định bằng cách lấy doanh thu
trong năm chia cho tổng số tiền và các loại TS tương đương tiền bình quân.
Doanh thu
K
4
= ─────────────────────

Tiền + chứng khoán thanh khoản cao
Tỷ số này cho biết số vòng quay tiền trong năm. Tỷ số này càng lớn
chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng TSLĐ càng hiệu quả.
* Thời gian vòng quay tiền: tỷ số này cho biết số ngày cần thiết để tiền
chu chuyển được một vòng. Thời gian vòng quay tiền càng thấp chứng tỏ hiệu
quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Số ngày trong kỳ
K
5
= ─────────────

Số vòng quay tiền
∗ Số ngày bán hàng để tạo quỹ tiền mặt:
Tiền + chứng khoán thanh khoản cao
K
6
= ─────────────────────

Doanh thu bình quân ngày
Việc xác định tỷ số này bao nhiêu cho hợp lý đối với một doanh nghiệp
cụ thể là không dễ. Lý do vì các doanh nghiệp luôn cần một lượng tiền mặt để

đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày với khách hàng, các nhà cung cấp, các
đối tác kinh doanh cũng như với ngân hàng. Lượng tiền đó thay đổi từng ngày.
Hơn thế nữa, các chứng khoán thanh khoản cao là nguồn thanh khoản quan
trọng đối với doanh nghiệp trong những trường hợp khẩn cấp. Do đó, việc xác
định lượng tiền tồn quỹ tối thiểu là bao nhiêu liên quan đến nhiều vấn đề khác,
trong đó có việc đảm bảo tính thanh khoản tốt nhất cho doanh nghiệp.
* Vòng quay TSLĐ
Doanh thu thuần trong kỳ
K
7
= ───────────────
TSLĐ bình quân trong kỳ
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 20 GVHD: TS Phan Hu Ngh
Chỉ tiêu này cho biết, mỗi đơn vị TSLĐ sử dụng trong kỳ đem lại bao
nhiêu đơn vị doanh thu thuần. TSLĐ bình quân là bình quân số học của TSLĐ
ở đầu kỳ và cuối kỳ. Thông thường kỳ sử dụng để tính là 1 năm. Do vậy, TSLĐ
sử dụng bình quân trong kỳ được tính theo công thức:
Tổng TSLĐ bình quân các quý trong năm
TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ = ───────────────────────

Số quý trong năm
∗ Kỳ luân chuyển TSLĐ: là số ngày bình quân cần thiết để TSLĐ thực
hiện một vòng quay trong kỳ. Thời gian của một vòng luân chuyển càng ngắn
thì tốc độ lưu chuyển càng nhanh, hiệu quả sử dụng TSLĐ càng cao. Chỉ tiêu
này phản ánh sự phát triển của trình độ quản lý và sử dụng TS trong doanh
nghiệp.
Thời gian của kỳ phân tích
K
8

= ───────────────────

Số vòng quay của TSLĐ trong kỳ
1.3.2.2 Chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán.
Các chỉ số thanh khoản được sử dụng để đo lường năng lực của doanh
nghiệp trong việc đáp ứng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi chúng đến
hạn. Các chỉ số thường được sử dụng là:
* Tỷ trọng các khoản phải thu trong TSLĐ:
Các khoản phải thu
K
9
= ─────────────

× 100
Tổng TS
Tùy vào từng doanh nghiệp mà tỷ số này có thể lớn hay nhỏ. Tuy nhiên
nếu tỷ số này quá lớn thì tính thanh khoản của TS không cao vì có thể do các
khoản phải thu khó đòi như vậy sẽ đe dọa đến khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
* Tỷ lệ cân đối các khoản phải thu khách hang so với các khoản phải trả
người bán.
Phải thu khách hàng
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 21 GVHD: TS Phan Hu Ngh
K
10
= ─────────────

× 100
Phải trả người bán

Thông thường K
10
≤ 100 là tốt nhất do sự tương xứng giữa các khoản
phải thu của khách hàng với các khoản phải trả nhà cung cấp. Nếu K
10
> 100 thì
doanh nghiệp cần hết sức chú ý vì điều đó chứng tỏ tình hình tài chính của
doanh nghiệp đang có vấn đề. Các khoản phải thu của khách hàng vượt quá các
khoản phải trả cho nhà cung cấp đe dọa khả năng thanh toán của doanh nghiệp
khi có các khoản nợ đến hạn phải trả do TSLĐ lúc này chủ yếu từ các khoản
phải thu.
* Tỷ số về khả năng thanh toán hiện hành.
Tổng TSLĐ
K
11
= ─────────────

× 100
Nợ ngắn hạn
Tỷ số về khả năng thanh toán hiện hành của doanh nghiệp là thước đo
khẳ năng thanh toán trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Nó cho biết mức độ các
khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể
chuyển thành tiền trong thời gian tương ứng với các khoản nợ đó.
* Tỷ số khả năng thanh toán nhanh: là tỷ số giữa các TS quay vòng
nhanh và nợ ngắn hạn. TS quay vòng nhanh là những TS có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền với chi phí thấp, bao gồm: tiền mặt, chứng khoán thanh
khoản cao, các khoản phải thu. TS tồn kho là các TS khó chuyển thành tiền hơn
trong tổng TSLĐ và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Tỷ số này được xác định bằng
công thức:
TS quay vòng nhanh

K
12
= ───────────────── × 100
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ
thuộc vào việc bán TS dự trữ. Thông thường duy trì tỷ số K
12
= 1 là tốt nhất.
* Khả năng thanh toán tức thời. Trong TSLĐ, tiền mặt và chứng khoán
thanh khoản cao là các khoản đảm bảo an toàn và nhanh nhất cho các khoản nợ
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 22 GVHD: TS Phan Hu Ngh
của doanh nghiệp. Tỷ số này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn một cách nhanh nhất.
Tiền + chứng khoán thanh khoản cao
K
13
= ──────────────────────

× 100
Nợ ngắn hạn
1.3.2.3 Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng TSLĐ.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp có một số chỉ tiêu
thường được sử dụng:
* Khả năng sinh lời của TSLĐ.
Lợi nhuận sau thuế
K
14
= ───────────────
TSLĐ bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của TSLĐ. Nó cho biết mỗi đơn
vị TSLĐ sử dụng đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
* Mức đảm nhiệm TSLĐ
TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
K
15
= ────────────────────
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết, để đạt được mỗi đơn vị doanh thu, doanh nghiệp
phải sử dụng bao nhiêu phần trăm đơn vị TSLĐ.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng TSLĐ.
Tại các doanh nghiệp khác nhau tình hình sử dụng TSLĐ có sự khác
nhau do chịu tác động của nhiều yếu tố. Có thể xem xét các nhân tố tác động
đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp theo hai nhóm chủ yếu:
1.4.1 Các nhân tố chủ quan.
Đây là nhóm các nhân tố thuộc về phía doanh nghiệp. Một số các nhân tố
chính có thể kể đến như:
 Sự tương ứng giữa TSLĐ và TSCĐ trong cơ cấu tài sản của doanh
nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều có một cơ cấu TS riêng phù hợp với đặc điểm
của doanh nghiệp mình. Sự cân đối trong cơ cấu TS có tác động lớn đến hiệu
quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Nếu TSLĐ quá nhiều sẽ làm tăng chi phí
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 23 GVHD: TS Phan Hu Ngh
cho việc lưu trữ TSLĐ trong khi TSCĐ không đủ đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh. Nhưng nếu quá ít sẽ làm gián đoạn quá trình sản xuất trong khi chi phí
khấu hao cho TSCĐ lại cao hơn. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bị ứ
đọng, sử dụng thiếu hiệu quả, làm giảm lợi nhuận của chủ doanh nghiệp cũng
như của các nhà đầu tư. Do đó, xây dựng một cơ cấu TS hợp lý đảm bảo sử
dụng có hiệu quả đem lại lợi nhuận cao là rất cần thiết.
 Các nhân tố thuộc về trình độ quản lý của doanh nghiệp. Việc quản lý

và sử dụng TSLĐ đòi hỏi các nhà quản trị có trình độ chuyên môn cao. Việc
thiết lập cơ cấu TS hợp lý, các chính sách sử dụng phải được thực hiện một
cách đồng bộ, khoa học, phù hợp với tình hình của doanh nghiệp và môi trường
kinh doanh. Có thể nói, quản trị viên là người đóng vai trò quyết định đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy có thể nói trình độ quản lý
của các nhà quản trị đóng vai trò rất quan trọng đối với hiệu quả sử dụng TSLĐ
của doanh nghiệp.
 Các yếu tố thuộc về trình độ của nhân viên. Không chỉ chịu sự ảnh
hưởng về trình độ của các cấp quản lý, hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh
nghiệp còn chịu tác động trực tiếp từ đội ngũ nhân viên trong doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng chính của bất cứ doanh nghiệp nào. Họ
là những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nên là
người trực tiếp sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Chính vì thế trình độ của
nhân viên sẽ có tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng TSLĐ. Một đội ngũ
nhân viên có trình độ sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ trong doanh nghiệp.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần có các chính sách nhằm nâng cao trình độ của đội
ngũ nhân viên góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng TS, phát triển hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
 Trình độ khoa học công nghệ. Sự phát triển của khoa học công nghệ
đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có đủ sức cạnh tranh trên thị trường, muốn phát
triển phải thường xuyên thay đổi cả về trang thiết bị, trình độ quản lý cũng như
chất lượng nguồn nhân lực theo kịp với sự phát triển của thị trường trong nước
và quốc tế.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 24 GVHD: TS Phan Hu Ngh
 Ảnh hưởng của ngành nghề kinh doanh. Ngành nghề kinh doanh cũng
có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Mỗi doanh
nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau có nhu cầu về tài sản khác nhau,
do đó hoạt động quản lý sử dụng tài sản cũng khác nhau. Đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp nặng thì nhu cầu về TSLĐ chỉ

chiếm khoảng 20 – 30% ∑TS. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các
ngành công nghiệp nhẹ thì nhu cầu về TSLĐ trung bình chiếm khoảng 50%
∑TS. Còn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch
vụ thì nhu cầu này chiếm đến khoảng 70 – 80% ∑TS. Do vậy các doanh nghiệp
cần có một chế độ quản lý, sử dụng riêng cho phù hợp với hoạt động của doanh
nghiệp mình.
1.4.2 Các nhân tố khách quan.
Đây là các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh
nghiệp mà doanh nghiệp không thể tự kiểm soát, thay đổi được. Các nhân tố ấy
có thể là:
 Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế. Nền kinh tế trong quá trình
vận hành luôn mang trong đó sự biến động. Sự biến động thường xuyên của
môi trường luôn đặt doanh nghiệp trước những nguy cơ phá sản nếu không có
sự thay đổi thích ứng kịp thời. Đó có thể là tác động của:
− Lạm phát: khi tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế tăng cao sẽ gây ra nhiều
thiệt hại không chỉ cho bản thân doanh nghiệp mà còn cả của toàn nền kinh tế.
Lạm phát làm cho giá cả nguyên vật liệu tăng cao kéo theo giá của sản phẩm
hàng hóa dịch vụ cũng tăng theo và biến động không theo dự tính. Khi đó các
doanh nghiệp cần phải có các chính sách đối phó, các biện pháp phối hợp với
Chính Phủ để đưa lạm phát vào tầm kiểm soát, tránh gây ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và hiệu quả của cả nền kinh tế nói
chung.
− Sự thay đổi của lãi suất trên thị trường: bất cứ sự thay đổi nào về lãi
suất cũng có thể gây ảnh hưởng đến hiệu quả hiệu quả của doanh nghiệp. Khi
lãi suất tăng, chi phí sử dụng các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng tăng. Do
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547
Chuyên   t t nghip 25 GVHD: TS Phan Hu Ngh
đó, các doanh nghiệp cần xem xét đến các nguồn tài trợ đó nhằm có biện pháp
thay đổi hợp lý mang lại hiệu quả tốt nhất cho doanh nghiệp.
− Biến động về cung – cầu hàng hóa trên thị trường: thị hiếu của khách

hàng thay đổi, chính sách của các nhà cung cấp thay đổi cũng gây ảnh hưởng
đến doanh nghiệp. Các nhà quản trị doanh nghiệp cần có những dự báo về tình
hình thị trường để có những đối sách kịp thời tránh gây ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động chung của doanh nghiệp.
− Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế của Chính Phủ: để điều hành
nền kinh tế hoạt động suôn sẻ, Chính Phủ đưa ra rất nhiều chính sách nhằm đưa
hoạt động của các doanh nghiệp vào khuôn khổ của pháp luật, ổn định hoạt
động của toàn bộ thị trường. Như vậy, các doanh nghiệp cần phải có các chính
sách vừa đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh của đơn vị mình, vừa
đảm bảo tính đồng bộ tương ứng không vượt ra khỏi phạm vi cho phép của
pháp luật.
 Sự phát triển của khoa học công nghệ: sự phát triển của khoa học
công nghệ có ảnh hưởng đến tất cả các mặt của nền kinh tế xã hội. Sự phát triển
của doanh nghiệp cũng không nằm ngoài những tác động ấy. Để có thể bắt kịp
với thị trường, các doanh nghiệp phải chủ động thay đổi, cải tiến kỹ thuật theo
sự phát triển của nền khoa học công nghệ thế giới.
 Sự biến động của tự nhiên: TSLĐ chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các
yếu tố tự nhiên. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chú ý đến những biến động đó
tránh gây ảnh hưởng đến chất lượng của TSLĐ, chất lượng của hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TSLĐ TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN HƯNG HẢI.
2.1 Những nét khái quát về công ty CP Tập đoàn Hưng Hải.
H Th Thu Hà – 1909 Mã SV: BH190547

×