Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Những nhân tố tác động đến FDI của EU vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.46 KB, 22 trang )

Nhóm K55 - KTĐN

1






ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐHQGHN


Tên đề tài

Những nhân tố tác động đến dòng FDI của
EU vào Việt Nam

Nhóm thuyết trình
1. Đỗ Mai Hương
2. Nguyễn Thị Thanh Thanh
3. Nguyễn Thị Hoàng Yến
4. Nguyễn Hà Quyên
Nhóm K55 - KTĐN

2


Mục Lục
. Lý do chọn đề tài 3
I. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của liên minh Châu Âu vào Việt
Nam 4


1. Sơ lược về liên minh Châu Âu (EU) 4
2. Quy mô và tốc độ tăng FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 1987 – 2012 4
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến dòng vốn FDI của EU chảy vào Việt Nam 7
1. Cạnh tranh toàn cầu 7
1.2. Khái niệm 7
1.3. Tác động của cạnh tranh toàn cầu đến dòng vốn FDI 7
2. Tác động của cạnh tranh toàn cầu đến dòng FDI của EU vào Việt Nam 9
2.1. Thể chế 9
2.2. Cơ sở hạ tầng 10
2.3. Ổn định kinh tế vĩ mô 11
2.4. Đào tạo và giáo dục bậc cao hơn 12
2.5. Một số nhân tố khác 14
III. Giải pháp 18
Kết luận 21
Tài liệu tham khảo 22






Nhóm K55 - KTĐN

3

Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng
thể hiện được vai trò đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Không chỉ
đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghiệp – chiểm tới 36,4%; góp
phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế mà FDI còn bổ sung vào nguồn vốn

đầu tư phát triển, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán. Nhận thấy
tầm quan trọng này của FDI, Việt Nam đã tập trung tăng cường năng lực cạnh
tranh quốc gia và có những chính sách xúc tiến đầu tư đối với các nước và khu
vực kinh tế phát triển, trong đó phải kể đến liên minh Châu Âu EU.
Liên minh châu Âu là một trong những trung tâm kinh tế lớn nằm trong
tam giác kinh tế Mỹ - EU - Nhật Bản, trong đó lớn nhất là thị trường EU với
27 thành viên ( 15 quốc gia ở Tây Âu rất phát triển). Hơn nữa EU có thế mạnh
về công nghệ kỹ thuật cao, có công nghệ nguồn hiện đại. Tạo dựng vốn đầu tư
từ EU là Việt Nam đã tận dụng được công nghệ, kỹ thuật hiện đại cùng nguồn
vốn lớn cho sự phát triển kinh tế.
Năm 2008, mặc dù đầu tư từ châu Âu bắt đầu sụt giảm do suy thoái kinh
tế song FDI đăng kí sang Việt Nam vẫn tăng. Nhưng từ năm 2009 trở lại đây,
trong khi FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tiếp tục tăng thì dòng FDI này của
EU lại không ổn định: tỷ trọng vốn của các nước EU đầu tư vào Việt Nam
giảm năm 2009, tăng đột ngột vào năm 2010 và có xu hướng chuyển dịch cơ
cấu từ ngành công nghiệp sang dịch vụ. Trước thực tế này, việc tìm hiểu những
nhân tố tác động đến dòng vốn FDI từ EU chảy vào Việt Nam là điều thực sự
cần thiết đối với sự phát triển kinh tế để chủ động tranh thủ các nguồn lực quốc
tế nhằm đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy,
nhóm quyết định lựa chọn tên đề tài là : “Những nhân tố tác động đến FDI của
EU vào Việt Nam”.
Nhóm K55 - KTĐN

4

I. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của liên
minh Châu Âu vào Việt Nam
1. Sơ lược về liên minh Châu Âu (EU)
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (tiếng Anh: European Union),
viết tắt là EU, là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành

viên thuộc Châu Âu. Liên minh được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào
ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC).Với hơn 500 triệu
dân, Liên minh châu Âu chiếm 30% (18,4 nghìn tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP
danh nghĩa và khoảng 22% (15,2 nghìn tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua
tương đương của thế giới.
2. Quy mô và tốc độ tăng FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 1987 – 2012
Chính sách mở cửa kinh tế kể từ năm 1987 đã có tác động nhanh chóng
lên FDI nói chung cũng như FDI từ Liên minh châu Âu nói riêng vào Việt Nam.
FDI từ EU cũng có những giai đoạn biến động tăng kể từ năm 1988 đến 1996,
giảm mạnh trong những năm 1996-1998, duy trì ở mức thấp cho đến năm 2004
trước khi tăng mạnh trở lại kể từ năm 2005.
Từ năm 2002, vốn FDI từ châu Âu tăng mạnh từ 190,6 triệu USD năm 2002 lên
mức 5,41 tỷ USD vào năm 2007. Tính đến hết năm 2007, các nước EU đã có
816 dự án được cấp phép ở Việt Nam với tổng số vốn đăng ký 10805.1 triệu
USD, trung bình mỗi năm EU đầu tư 40,8 dự án với mức vốn đăng ký 540,255
triệu USD. Nhìn chung các dự án đều có quy mô vừa và nhỏ, vốn trung bình
cho một dự án đạt mức 13,24 triệu USD. Tuy nhiên cũng có nhiều dự án có quy
mô lớn (trên 40 triệu USD): Hợp đồng dầu khí Nam Côn Sơn (607 triệu USD),
công ty amata power (110 triệu USD), công ty Frudential (60 triệu USD).
Năm 2008, mặc dù đầu tư từ châu Âu bắt đầu sụt giảm do suy thoái kinh
tế song FDI đăng kí sang Việt Nam vẫn tăng 93,89% lên 10,49 tỷ USD trước
khi sụt giảm mạnh năm 2009 và tăng nhanh trở lại trong năm 2010.Bên cạnh đó,
Nhóm K55 - KTĐN

5

vị thế nước đầu tư chính của khối EU đối với Việt Nam đã giảm mạnh cho đến
2009. Trong khi FDI đăng kí của EU sang Việt Nam giảm sút (38,68%) trong
các năm 2006 và chỉ tăng nhẹ 27,36% vào năm 2007 thì vốn đăng kí của các
nước châu Âu ngoài EU lại tăng trưởng nhanh chóng với tốc độ lần lượt là

265,24% và 306,47%. Đến 2009, tỷ trọng vốn của các nước EU trong đầu tư từ
châu Âu vào Việt Nam chỉ còn 19,27%, trước khi đột ngột tăng lên 56,18% năm
2010.
Trong khi lượng vốn đăng ký cấp mới hoàn toàn cũng như tổng giá trị
vốn đăng ký cấp mới và gia tăng của khu vực châu Âu vào Việt Nam dao động
mạnh qua các năm như đã đề cập, số dự án lại có xu hướng tăng (trừ giai đoạn
1995-1997 và 2004). Với lượng vốn chỉ chiếm cao nhất khoảng 40% trong tổng
FDI đăng ký những năm 2000-2004, song số dự án ổn định và tương đối cao,
khoảng từ 50-70% tổng số dự án, quy mô các dự án đầu tư từ khu vực châu Âu
nói chung và từ các nước EU nói riêng vào Việt Nam so với các nước khác là
tương đối nhỏ.
Trong giai đoạn từ 2002 đến 2012, FDI châu Âu tại Việt Nam thể hiện rõ
nhiều khác biệt với cơ cấu chung của các nước, nếu như đầu tư FDI nói chung
vào Việt Nam vẫn chủ yếu vào các ngành công nghiệp thì vốn FDI từ khu vực
châu Âu đã dịch chuyển mạnh sang các ngành dịch vụ. Tỷ trọng vốn thực hiện
trong ngành khai thác mỏ và công nghiệp chế biến giảm lần lượt từ 26% và 51%
năm 2002 xuống 11,46% và 38,84% năm 2009 trong khi tỷ trọng vốn đầu tư
vào khu vực dịch vụ từ mức xấp xỉ 23% năm 2002 đã lên tới gần 50% năm
2009 và tiếp tục tăng trong năm 2012. Tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành dịch vụ
tăng lên chủ yếu vào các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ
tư vấn và giáo dục,…(những ngành thâm dụng tri thức). Xu hướng này có tác
động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo định hướng
giảm dần tỷ trọng đầu tư vào ngành công nghiệp thâm dụng lao động trình độ
thấp và chuyển dần sang các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức ở chuỗi giá trị
Nhóm K55 - KTĐN

6

cao hơn trong giai đoạn này. Trong khi đó đầu tư vào ngành nông, lâm, ngư
nghiệp không có nhiều thay đổi.


Biểu đồ: Vốn FDI của EU đăng kí và được cấp phép giai đoạn 2001-2012
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Với tình hình FDI đầu tư vào Việt Nam, chúng ta thấy có sự chênh lệch
giữa tổng số vốn FDI đăng kí và vốn FDI thực hiện.Số liệu FDI nhóm tiến hành
thu thập để nghiên cứu nằm trong giai đoạn 2005-2012, trong đó giai đoạn
2006-2008 tỷ lệ giải ngân chỉ đạt 40,1%, năm 2009 tỷ lệ giải ngân đạt 43,29%,
tỷ lệ giải ngân có dâu hiệu tích cực hơn những năm sau, cụ thể vào năm 2010 là
55,55%, năm 2011 là 75,3% và 2012 đạt 80%. Tuy nhiên để tăng tính chính xác
trong quá trình nghiên cứu, nhóm quyết định sử dụng số liệu là vốn đăng kí đã
được cấp phép và thực thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.





0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
2001
2002
2003
2004
2005
2006

2007
2008
2009
2010
2011
2012
Nhóm K55 - KTĐN

7

II. Các nhân tố ảnh hưởng đến dòng vốn FDI của EU
chảy vào Việt Nam
1. Cạnh tranh toàn cầu
1.1. Khái niệm
Cạnh tranh toàn cầu được hiểu là toàn bộ các thể chế, các chính sách và
các nhân tố xác định mức độ hiệu năng của một đất nước. Mức độ hiệu năng,
đến lượt nó, thiết lập mức độ phồn thịnh bền vững có thể có được do nền kinh tế
tạo ra. Nói cách khác, các nền kinh tế cạnh tranh hơn có xu hướng có thể đem
lại các mức thu nhập cao hơn cho công dân của mình. Mức độ hiệu năng cũng
xác định tỷ lệ hoàn trả có được từ các đầu tư vào nền kinh tế. Vì tỷ lệ hoàn trả là
yếu tô dẫn dắt cơ bản tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, cho nên một nềnkinh
tế cạnh tranh hơn là một nền kinh tế có khả năng phát triển nhanh hơn trong
trung hạn cho tới dài hạn.
Cạnh tranh toàn cầu được đo lường bằng chỉ số cạnh tranh toàn cầu GCI
( Global Competitiveness Index). Chỉ số này là một số trung bình có quyền số
của nhiều thành tố khác nhau, mà tất cả các thành tố này được nhóm vào 12 trụ
cột cạnh tranh. 12 trụ cột đó là: (1) thể chế, (2) cơ sở hạ tầng, (3) sự ổn định
kinh tế vĩ mô, (4) y tế và giáo dục tiểu học, (5) giáo dục và đào tạo trình độ cao
hơn, (6) hiệu quả thị trường hàng hóa, (7) hiệu quả thị trường lao động, (8) sự
tinh vi của thị trường tài chính, (9) sự sẵn sàng của công nghệ, (10) quy mô thị

trường, (11) sự tinh vi của kinh doanh, (12) và sự đổi mới.
1.2. Tác động của cạnh tranh toàn cầu đến dòng vốn FDI
Tác động của cạnh tranh toàn cầu đến dòng vốn FDI là những ứng dụng
dựa trên 3 lý thuyết chu kỳ sản phẩm của Raymon và lý thuyết chu kỳ sản phẩm
bắt kịp của Koijima, lý thuyết đàn nhạn bay của Akamatsu.
Theo đó, trong giai đoạn đầu, nền kinh tế các nước cạnh tranh nhau dựa
vào những yếu tố lợi thế của họ, chủ yếu là lao động phổ thông không có kỹ
Nhóm K55 - KTĐN

8

năng và tài nguyên thiên nhiên. Các công ty cạnh tranh nhau trên cơ sở giá cả và
bán các sản phẩm hay hàng hóa cơ bản, với năng suất lao động thấp của họ phản
ánh ở tiền công thấp. Việc duy trì sức cạnh tranh ở giai đoạn phát triển này tùy
thuộc chủ yếu vào các thể chế công và tư (trụ cột 1) vận hành tốt, hạ tầng thích
hợp (trụ cột 2), khuôn khổ kinh tế vĩ mô ổn định (trụ cột 3), và một lực lượng
lao động mạnh khỏe và có học (trụ cột 4). Trong giai đoạn này, thì dòng vốn
FDI sẽ chảy vào các lĩnh vực thâm dụng lao động để tận dụng nguồn nhân công
dồi dào, công nghệ thấp hoặc ở mức trung bình như công nghiệp chế biến, dệt
may, da giày…
Trong giai đoạn tiếp theo, do tiền công tăng lên cùng với sự phát triển
tiến bộ, các nước sẽ bước sang giai đoạn phát triển dựa trên hiệu quả, khi đó họ
phải bắt đầu phát triển các quy trình sản xuất hiệu quả hơn và tăng chất lượng
sản phẩm. Tại thời điểm này, sức cạnh tranh tăng lên dựa vào giáo dục và đào
tạo cao hơn (trụ cột 5), thị trường hàng hóa hiệu quả (trụ cột 6), các thị trường
lao động vận hành tốt (trụ cột 7) các thị trường tài chính tinh thông (trụ cột 8),
thị trường quốc tế hay nội địa lớn (trụ cột 9), và khả năng khai thác lợi ích của
những công nghệ hiện có (trụ cột 10). Điều này tác động đến cơ cấu chuyển
dịch dòng vốn FDI sang những ngành công nghệ cao, đòi hỏi những lao động có
trình độ và tay nghề như ngành công nghiệp ô tô, đóng tàu…

Cuối cùng, khi các nước phát triển lên giai đoạn dựa vào đổi mới, họ có
thể duy trì mức tiền công cao và các tiêu chuẩn sống ở mức cao chỉ khi các
doanh nghiệp của họ có thể cạnh tranh bằng các sản phẩm mới và độc đáo. Ở
giai đoạn này, các công ty phải cạnh tranh nhau thông qua đổi mới (trụ cột 12),
sản xuất ra hàng hóa mới và phong phú bằng cách sử dụng các quy trình sản
xuất tinh xảo nhất (trụ cột 11). Ở giai đoạn đổi mới này, các nước sản xuất ra
các sản phẩm mới và sản xuất với khối lượng lớn nhờ kỹ thuật tiên tiến và nhiều
vốn. Để tránh tình trạng bão hòa và suy thoái thì những nước này lại chuyển
Nhóm K55 - KTĐN

9

sang sản xuất ở những nước kém phát triển hơn và hình thành nên dòng FDI
mới.
2. Tác động của cạnh tranh toàn cầu đến dòng FDI của EU vào Việt
Nam
Trên thực tế, nhóm đã sử dụng mô hình kinh tế lượng và lượng hóa được
mối quan hệ giữa chỉ số GCI và FDI của EU vào Việt Nam. Cụ thể khi GCI
tăng thêm 1 điểm thì FDI sẽ tăng lên 4.218%.
Tuy nhiên không phải tất cả các thành tố trong chỉ số cạnh tranh toàn cầu
đều tác động đáng kể đến dòng FDI này. Khi nói về động lực và nhân tố chủ
yếu tác động đến FDI vào Việt Nam thì TS. Nguyễn Thị Kim Nhã đã nêu ra 5
nhân tố và động lực chính: Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật
pháp đầu tư, sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư
nước ngoài, sự phát triển của cơ sở hạ tầng. sự phát triển của đội ngũ lao động,
của trình độ khoa học và công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước và
trên địa bàn, Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự
án FDI đã triển khai. 5 nhân tố tổng quát được thể hiện cụ thể trong 4 trụ cột :
thể chế , cơ sở hạ tầng, sự ổn định kinh tế vĩ mô và giáo dục đào tạo bậc cao.
2.1. Thể chế

Chất lượng của thể chế công lập cũng như thể chế tư nhân đóng vai trò
then chốt trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và luồng FDI
từ EU vào Việt Nam nói riêng.
Một nước kém trong việc bảo vệ quyền sở hữu đối với vốn hoặc lợi
nhuận có thể là một trở ngại lớn cho các khoản đầu tư. Một mức tham nhũng và
quan liêu cao có thể trì hoãn việc phân phối các giấy phép, làm chậm quá trình
đầu tư vào một quốc gia.
Hối lộ và tham nhũng cũng cản trở hoạt động đầu tư của EU vào Việt
Nam và làm xói mòn sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể,
Nhóm K55 - KTĐN

10

tham nhũng làm chệch hướng khiến cho các nguồn vốn không đến được với
những hoạt động kinh tế phù hợp. Chỉ số cảm nhận tham nhũng năm 2011 của
Tổ chức minh bạch quốc tế cho thấy có tới gần 3/4 trong tổng số 183 quốc gia
được thống kê có chỉ số dưới 5 trong thang điểm từ 10 (rất minh bạch) đến
(tham nhũng cao). Đáng tiếc, Việt Nam bị cho là một trong số quốc gia tham
nhũng nhất thế giới, xếp hạng 112/183 quốc gia. Điều này đã ảnh hưởng trực
tiếp đến môi trường đầu tư tại Việt Nam, khiến các doanh nghiệp nản lòng.
Hiệp hội doanh nghiệp Úc tại Việt Nam cũng cho rằng sự thiếu minh bạch, quan
liêu, tham nhũng là một trong những lo ngại lớn khi đề cập đến việc kinh doanh
tại Việt Nam. Quá trình đăng ký cấp giấy phép kinh doanh mất nhiều thời gian,
thường xuyên chậm trễ cũng là nguyên nhân khiến môi trường đầu tư tại Việt
Nam kém hấp dẫn. Các yếu tố pháp luật thể chế của Việt Nam hiện nay còn
chắp vá, thiếu hoàn chỉnh. Đó là một trong những nguyên nhân hạn chế cạnh
tranh lành mạnh và nuôi dưỡng độc quyền trong kinh doanh Chỉ số Năng lực
cạnh tranh về thể chế của Việt Nam do WEF đánh giá hầu như không có cải
thiện trong suốt giai đoạn từ 2006– 2012. Thể chể yếu kém là một rào cản lớn
của Việt Nam tiếp cận với nguồn FDI.

Kết quả mô hình lượng: chỉ số thể chế tăng, đồng nghĩa với chất lượng
thể chế Việt Nam được cải thiện sẽ kích thích các nhà đầu tư EU đầu tư nhiều
hơn vào Việt Nam. Cụ thể là 0,404938% với mỗi mức tăng INS 1 điểm

2.2. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng bao gồm thông tin liên lạc, đường xá, giao thông vận tải,
đường cao tốc và các cảng. Cơ sở hạ tầng được coi là một đầu vào công cộng
giảm chi phí kinh doanh và vẫn là một yếu tố thống trị cho thu hút FDI. Các
công ty đa quốc gia (MNCs) tìm kiếm thị trường có cơ sở hạ tầng tốt, nơi họ có
thể đạt được giảm chi phí và tối đa hóa lợi nhuận.
Nhóm K55 - KTĐN

11

Việt Nam, trong suốt giai đoạn từ 2006-2012, Chỉ số đánh giá năng lực
cạnh tranh về cơ sở hạ tầng của Việt Nam luôn ở mức thấp (2.79/7 điểm năm
2006, tăng cao nhất vào năm 2011 với 3.63 điểm và giảm nhẹ còn 3.61 điểm
năm 2012). Mặc dù trong những năm trở lại đây, Việt Nam đã có những cố
gắng trong việc hoàn thiện hệ thống cảng biển, đường sắt, đường bộ, đường
hàng không; đa dạng hóa các loại hình dịch vụ truyền tin; xây dựng thêm các
nhà máy điện hỗ trợ rất lớn các ngành sản xuất, kinh doanh nhưng trên thực tế
vẫn còn rất hiều bất cập. Hệ thống giao thông Việt Nam chưa có sự đồng bộ
gây nên nhiều chậm trễ, tắc nghẽn. Hệ thống thông tin chưa đáp ứng kịp thời,
còn thiếu sự thống nhất, độ chính xác thấp. Việc sử dụng nguồn vốn đầu tư
cho cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập. Việc thiếu hụt nguồn điện ổn định tại các
khu công nghiệp và tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng cho tấy nhu cầu cấp
bách trong việc nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng được nâng cao hơn sẽ giúp cho việc đầu tư có hiệu quả hơn
từ đó FDI vào Việt Nam sẽ tăng. Cụ thể 3,17868% với mỗi mức tăng INF lên 1
điểm.

2.3. Ổn định kinh tế vĩ mô
Theo WEF, môi trường kinh tế vĩ mô của một quốc gia gồm có cân đối
ngân sách nhà nước, tiết kiệm quốc dân, lạm phát, nợ công và xếp hạng tín dụng
quốc gia. Sự bất ổn trong kinh tế vĩ mô, lạm phát leo thang, tỷ giá biến động…
đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư, trong đó
có nhà đầu tư nước ngoài, làm các nhà đầu tư khó khăn trong hoạch định kế
hoạch kinh doanh
Nhóm K55 - KTĐN

12


Biểu đồ: Các rủi ro chính mà nhà đầu tư nước ngoài gặp phải tại Việt Nam
Chỉ có 33% doanh nghiệp FDI có dự định mở rộng hoạt động kinh doanh
trong vòng hai năm tới. Lợi nhuận, vốn và mức tăng trưởng quy mô lao động
cũng thấp hơn so với những năm trước. Có thể nói ổn định kinh tế vĩ mô là
nhân tố tác động mạnh nhất đến việc luồng vốn đầu tư trực tiếp của EU khi đầu
tư vào Việt Nam.
Kinh tế ổn định giúp cho các nhà đầu tư tránh được nhiểu rủi ro trong
kinh doanh từ đó mang lại lợi nhuận chắc chắn hơn. Khi chỉ số ổn định kinh tế
tăng lên 1 điểm sẽ thu hút đầu tư vào Việt Nam lên 1,883589%

2.4. Đào tạo và giáo dục bậc cao hơn
Người lao động có học vấn cao rất cần thiết để giúp doanh nghiệp có mức
lợi tức đầu tư cao nhất. Lợi ích tiềm năng mỗi doanh nghiệp FDI xuất phát từ
việc áp dụng rộng rãi các công nghệ sản xuất mới trong các hoạt động gia tăng
giá trị phụ thuộc vào một lực lượng lao động có tay nghề cao. Hơn nữa, việc áp
dụng công nghệ mới thường yêu cầu một lực lượng có khả năng tốt hơn để điều
hành, xử lý. Bản thân các cơ sở giáo dục cao hơn rõ ràng đóng vai trò quan
trọng trong việc trang bị cho con người những kỹ năng cần thiết cho công việc.

Nhưng những nhu cầu của doanh nghiệp thường thay đổi một cách nhanh
chóng, còn các cơ sở giáo dục thì thường chậm trễ hơn trong việc thích nghi với
Nhóm K55 - KTĐN

13

sự thay đổi đó. Để khắc phục vấn đề này cần có các liên lết mạnh mẽ hơn giữa
các trường đại học, cá doanh nghiệp và các bên liên quan khác, giúp định hình
lại cá khóa đào tạo phù hợp chặt chẽ với nhu cầu phát triển các kỹ năng cụ thể.
Hợp tác cũng có thể mang lại một số lợi ích khác cho môi trường đầu tư. Ví dụ,
nó nuôi dưỡng một môi trường thuận lợi cho sự sáng tạo và truyền bá tri thức
nhanh hơn.

Bảng 1: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn kỹ
thuật của Việt Nam, năm 2011 (Đơn vị tính: %).
Trình độ
chuyên môn kỹ
thuật
Tổng số
Chung
Nam
Nữ
Tổng số
100,0
100,0
100,0
Không có trình
độ chuyên môn
kỹ thuật
84,6

82,8
86,5
Dạy nghề
4,0
5,9
1,8
Trung cấp
chuyên nghiệp
3,7
3,3
4,0
Cao đẳng
1,7
1,2
2,2
Đại học trở lên
6,1
6,7
5,4
(Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)
Đa số lao động Việt Nam đều chưa qua đào tạo. Hơn nữa hệ thống giáo
dục và đào tạo của Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều vấn đề lớn: thừa thầy thiếu
thợ, lý thuyết nhiều hơn thực hành ứng dụng… Điều này dẫn đến chất lượng lao
Nhóm K55 - KTĐN

14

động không đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư, khó khăn trong việc tiếp thu khoa học
kỹ thuật công nghệ, từ đó kìm hãm việc thu hút đầu tư vào đất nước.
Yếu tố này có tác động lớn đến FDI của EU vào Việt Nam, với mỗi điểm

tăng của chỉ số này sẽ làm cho FDI tăng lên 3,677001%. Do hầu hết đầu tư của
EU vào Việt Nam đều mang theo trình độ công nghệ cao, nên nguồn lao động
trình độ cao để đáp ứng được nhu cầu về công nghệ này sẽ là một điểm mạnh.
2.5. Một số nhân tố khác
2.5.1. Y tế và giáo dục tiểu học
Chất lượng y tế của nước chủ nhà có tác động đến các hoạt động kinh tế
theo các cơ chế trực tiếp và gián tiếp. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất
của người lao động vì những nhân viên khỏe mạnh nói chung về thể chất và tinh
thần đêu tốt hơn so với những người bị bệnh hoặc khuyết tật, và ít nghỉ việc vì
bệnh tật của cá nhân hoặc người thân.
Y tế được xem như là một nhân tố có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) thông qua một số cơ chế. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm
2001 đã cho rằng một lực lượng lao động khỏe mạnh đóng vai trò quan trọng
khi thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do ảnh hưởng của sức khỏe lên năng
suất lao động. Ngoài ra, vì sợ gây hại cho sức khỏe của họ và nhân viên của họ,
nhà đầu tư nước ngoài thường tránh xa khu vực nơi có bệnh dịch hoặc nơi khó
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Ngoài y tế ra, tiếp cận giáo dục cơ bản là quyền lợi của con người và là
điều kiện tối thiểu cần thiết cho sự phát triển. Thành tựu trong phổ cấp giáo dục
củng cố môi trường đầu tư lành mạnh. Giáo dục cơ bản làm tăng năng suất mỗi
người lao động. Hơn nữa, những người lao ít được giáo dục chỉ có thể thực hiện
những việc đơn giản và khó khăn để thích ứng với quy trình sản xuất tiên tiến,
do đó đóng góp ít hơn trong công cuộc đổi mới kinh tế. Nói cách khác, thiếu sự
giáo dục cơ bản có thể trở thành một hạn chế để phát triển của các hãng khi
Nhóm K55 - KTĐN

15

chính họ còn cảm thấy khó khăn để sản xuất các sản phẩm phức tạp hơn với các
nguồn lực hiện có của con người.

2.5.2. Hiệu quả của thị trường hàng hóa
Theo WEF, thị trường hàng hoá hiệu quả là thị trường mà các sản phẩm
và dịch vụ được cung cấp đúng và đầy đủ theo nhu cầu thị trường, cũng như
đảm bảo các hàng hóa này có thể được giao dịch trong nền kinh tế một cách
hiệu quả nhất. Theo WEF, thị trường hàng hoá hiệu quả được đánh giá bằng các
tiêu chí khác nhau như mức độ cạnh tranh địa phương, mức độ thống nhất thị
trường, hiệu quả của chính sách chống độc quyền, mức độ và ảnh hưởng của
thuế, rào cản thương mại,…
Trong báo cáo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu của WEF, chỉ số Hiệu quả thị
trường hàng hóa của Việt Nam không có biến động nhiều trong giai đoạn 2006-
2012 (dao động trong khoảng 4.1- 4.2 điểm).
2.5.3. Hiệu quả của thị trường lao động
Hiện tại Việt Nam có khá nhiều yếu tố của mô hình thị trường lao động
linh hoạt. Cụ thể, Việt Nam đã có luật lao động, dịch vụ tuyển dụng và hệ thống
thông tin thị trường lao động (nhằm cung cấp thông tin tuyển dụng) và hệ thống
hỗ trợ thất nghiệp mới được đưa ra.
Về giá cả lao động, các doanh nghiệp FDI của Eu sản xuất và kinh doanh
tại Việt Nam thường tận dụng lợi thế về nguồn nhân lực địa phương giá rẻ. Cụ
thể, sau đợt tăng lương từ ngày 01/01/2010, lương tháng tối thiểu của lao động
làm việc tại doanh nghiệp FDI tương ứng với 4 vùng lần lượt là: 1.340.000 đồng
(tăng 140.000 đồng so với hiện nay); 1.190.000 đồng (tăng 110.000); 1.040.000
(tăng 90.000) và 1.000.000 (tăng 80.000). Và các doanh nghiệp FDI tại Việt
Nam cũng chỉ trả cho người lao động tương ứng với mức lương tối thiểu của
Nhà nước. Như vậy, mức lương này khá cạnh tranh so với thế giới. Sự biến
động về tiền lương không nhiều qua những đợt tăng lương là một trong những
Nhóm K55 - KTĐN

16

yếu tố thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư FDI vào Việt Nam tuy nhiên tình trạng

đình công tại Việt Nam đang dần gia tăng trong những năm gần đây, đặc biệt là
khu vực FDI (chiếm 81.1% tổng số vụ đình công năm 2008). Phần lớn các vụ
đình công xảy ra đều do tranh chấp về lương và hầu hết đều là tự phát, không có
Công đoàn lãnh đạo. Và xu hướng gia tăng các vụ đình công của công nhân,
nhất là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đang được coi là một
nguyên nhân làm ảnh hưởng tới môi trường đầu tư của Việt Nam. Điều này dẫn
đến sự e ngại trong các nhà đầu tư EU mặc dù thị trường lao động Việt Nam có
sự linh hoạt, nhanh chóng trong việc chuyển đổi lao động trong nền kinh tế, chi
phí cho việc chuyển đổi thấp, các ưu đãi và phúc lợi cho lao động từ nhà nước,
bình đẳng giới trong lao động. Tuy nhiên tác động từ tính hiệu quả của thị
trường lao động của đến đầu tư của EU vào Việt Nam không lớn do nhìn chung,
các đầu tư EU vẫn tìm đến Việt Nam bởi thị trường nhân công giá rẻ, dồi dào.
2.5.4. Sự phát triển của thị trường tài chính
Về lĩnh vực tài chính, báo cáo “Sách xanh” cũng cho biết, các nhà đầu tư
EU rất quan tâm bởi họ có khả năng chuyên môn cao để giúp Việt Nam trong
lĩnh vực này. Và họ đặt nhiều hy vọng vào kế hoạch cải cách ngân hàng của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ở Việt Nam, thị trường tài chính đã và đang phát triển, góp phần cung
ứng vốn cho hoạt động của các ngành kinh doanh nói chung cũng như trong
việc thu hút các nhà đầu tư tham gia thị trường. Cấu trúc của thị trường tài chính
Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phạm vi hoạt động ngày càng mở rộng, linh
hoạt và đa dạng hơn. Các chủ thể tham gia vào thị trường từ cá nhân cho đến
các định chế tài chính trong và ngoài nước tăng nhanh về số lượng, đa dạng về
hình thức, loại hình kinh doanh, năng lực tài chính. Các qui tắc vận hành của thị
trường tài chính và các thị trường cấu thành được xác lập và về cơ bản đáp ứng
yêu cầu vận hành, phát triển của thị trường
Nhóm K55 - KTĐN

17


2.5.5. Sự phát triển của hệ thống kinh doanh
Tại Việt Nam, công nghiệp phụ trợ được coi là một “điểm nghẽn” lớn
chặn dòng FDI chảy vào Việt Nam, đặc biệt là nguồn FDI của các nước châu
Âu khi chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu quá cao do khoảng cách giữa châu Âu
và Việt Nam tương đối lớn
Theo khảo sát của tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản, sức cung ứng
tại địa phương đối với các doanh nghiệp Nhật về nguyên liệu và linh kiện cho
các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam chỉ đạt mức 28,7%. Con số này
thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác ở châu Á: Trung Quốc là 57,7%,
Thái Lan 53%, Indonesia 45%. Cũng theo nghiên cứu của tổ chức này, tỷ lệ nội
địa hoá của ngành công nghiệp Việt Nam còn ở mức rất thấp với 13,1%, trong
khi đó tại Indonesia là 20,6%, Thái Lan 22,2% và Malaysia là 22,6%. Phải
thẳng thắn nhìn nhận là công nghiệp phụ trợ Việt Nam còn yếu do các doanh
nghiệp vẫn mạnh ai nấy làm. Trong khi đó, đối với sản xuất phải chuyên môn
hoá sâu và hợp tác rộng mới đem lại hiệu quả cao nhất. Nguyên nhân do các
doanh nghiệp trong nước chưa tính toán được mức lợi nhuận so với chi phí đầu
tư nên chưa thực sự vào cuộc.
Có thể dễ dàng nhận thấy mức ảnh hưởng của giáo dục đào tạo bậc cao lên
FDI là mạnh mẽ hơn các biến còn lại, điều này có thể giải thích được trong
trường hợp đầu tư của EU vào Việt Nam do FDI của EU vào Việt Nam có một
số đặc thù, đó là chuyển dịch cơ cấu đầu tư dần sang dịch vụ và các ngành thâm
dụng tri thức, đầu tư đi kèm với chuyển giao công nghệ và chuyển dịch cơ cấu
lao động theo ngành.





Nhóm K55 - KTĐN


18

III. Giải pháp
Sau khi thực hiện phân tích những lý luận và thực tiễn liên quan, nhóm
thấy rằng các yếu tố cạnh tranh toàn cầu phần lớn đều tác động tích cực tới FDI,
đặc biệt là yếu tố thể chế, cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô, giáo dục đào tạo
bậc cao. Do vậy, nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số đề xuất, khuyến nghị
nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh toàn cầu, thu hút hơn nữa FDI từ EU vào
Việt Nam trong tương lai.
Thứ nhất, để nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam so với các quốc gia
khác trong việc thu hút FDI từ EU, Chính phủ nên mở rộng các chính sách.
1) Cải cách môi trường pháp lý: được thực hiện thông qua việc ban
hành và bổ sung những quy chế còn thiếu (như quy định về việc áp
dụng hình thức M&A vào đối với hoạt động thu hút vốn FDI của
Việt Nam); đồng thời, tiến hành việc thu thập thông tin, rà soát lại
hệ thống luật pháp và chính sách về đầu tư nước ngoài theo hướng
tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm tính minh bạch, không bị
chồng chéo; nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nhằm tạo lập môi
trường pháp lý phù hợp với thông lệ cũng như tập quán của các
nước EU và WTO.

2) Cải cách hành chính mạnh mẽ: theo hướng nâng cao tính hiệu lực
và hiệu quả của hệ thống, củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy
quản lý về FDI cho phù hợp với những yêu cầu hội nhập quốc tế;
hoàn thiện cơ chế "một cửa" ở các cơ quan cấp phép và quản lý đầu
tư; minh bạch hóa quy trình và thủ tục đầu tư, cải tiến quy trình
thẩm định dự án theo hướng mở rộng diện đăng ký cấp phép đầu
tư, rút ngắn thời gian thẩm định. Đồng thời, cần tăng cường phân
Nhóm K55 - KTĐN


19

cấp và gắn trách nhiệm mạnh hơn nữa trong quản lý và thu hút đầu
tư đi đôi với tăng cường cơ chế giám sát và phối hợp.

3) Kết cấu hạ tầng: Chính phủ cần ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng
như một lĩnh vực đột phá tạo đà phát triển qua việc tập trung giải
quyết ba vấn đề chủ chốt: rà soát lại các quy hoạch liên quan đến
phát triển kết cấu hạ tầng; tăng tỷ lệ đầu tư cho kết cấu hạ tầng;
chuẩn bị danh mục kêu gọi đầu tư nước ngoài vào phát triển kết
cấu hạ tầng. Bên cạnh đó cần đa dạng hóa hơn nữa hình thức huy
động vốn, áp dụng rộng rãi cơ chế đấu thầu, khuyến khích các đối
tượng tham gia tích cực và đầu tư dưới nhiều hình thức trong xây
dựng kết cấu hạ tầng.
Thứ hai, về nguồn nhân lực: Chúng ta cần tăng cường đào tạo, đặc biệt
là đào tạo nghề nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về lao động kỹ thuật của nhiều
nhà đầu tư hiện nay. Trong lĩnh vực này cũng cần thu hút sự tham gia của các tổ
chức trong và ngoài nước, của các doanh nghiệp và của bản thân người lao
động.
Xác định mục tiêu của giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực là phải hướng
đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao toàn diện: Cả thể lực, trí tuệ, ý
chí, năng lực và đạo đức; có năng lực tự học, tự đào tạo, năng động, chủ động,
tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích ứng
nhanh, chủ động trong môi trường sống và làm việc. Có cơ cấu hợp lý, đồng bộ
cả nhân lực quản lý hành chính nhà nước, đội ngũ nhân lực khoa học và công
nghệ, đặc biệt là nhóm chuyên gia đầu ngành, đội ngũ doanh nhân, chuyên gia
quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp; có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng
miền hợp lý. Nguồn nhân lực xã hội cần gì thì giáo dục đào tạo phải hướng đến
đáp ứng mục tiêu đó. Phải khắc phục việc đào tạo không phù hợp với nhu cầu
xã hội, cơ cấu không hợp lý dẫn đến “thừa thầy, thiếu thợ”

Nhóm K55 - KTĐN

20

Chuẩn hóa chương trình và giáo trình đào tạo đảm bảo phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn xã hội. Tăng việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực độc
lập sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn và khả năng tự đào tạo, bồi
dưỡng và tự hoàn thiện của mỗi cá nhân người lao động.
Tăng sự liên thông giữa Nhà nước - cơ sở đào tạo, giáo dục - đơn vị sử
dụng nguồn nhân lực cả trong đóng góp nguồn lực, xây dựng chương trình, nội
dung, hợp lực đào tạo và sử dụng hiệu quả sản phẩm giáo dục đào tạo.
Hoàn thiện mạng lưới giáo dục, đào tạo, dạy nghề trên toàn quốc, chú
trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Tăng quy mô giáo dục trung học phổ thông và phát triển mạnh mẽ dạy
nghề, nhất là các tỉnh đồng bằng và miền núi.
Đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào
tạo, cả nhân lực, vật lực và tài lực, để đưa ngành giáo dục đào tạo khỏi tình
trạng chậm phát triển so với khu vực và thế giới. Đầu tư thỏa đáng cơ sở vật
chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường cao đẳng
và đại học. Tiếp tục xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo








Nhóm K55 - KTĐN


21

Kết luận
Tình hình FDI của EU vào Việt Nam trong các năm qua có rất nhiều biến
chuyển, trong giai đoạn từ 2005 đến 2012, FDI tăng không ổn định mà tăng
nhanh. trong giai đoạn 2005-2008, giai đoạn 2008 -2009 FDI giảm đột ngột sau
đó lại tăng vọt lên năm 2010 rồi nhanh chóng giảm dần vào 2 năm gần đây.
Tuy nhiên FDI năm 2012 vẫn ở mức cao hơn so với năm 2005. Nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến sự thay đổi dòng chảy FDI của EU vào Việt Nam là do thể chế,
cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô và đào tạo giáo dục bậc cao hơn. Trong đó,
đào tạo giáo dục bậc đại học là nhân tố quan trọng nhất tác động đến dòng chảy
FDI hiện nay. Vì vậy Chính phủ cần tập trung cải thiện và phát triển nền giáo
dục nước nhà.














Nhóm K55 - KTĐN

22


Tài liệu tham khảo
1. TS. Phạm Đăng Quyết (2009), “Chỉ số cạnh tranh toàn cầu”.
2. Nguyễn Ngọc Kiên, “Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố tới việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam”.
3. Nguyễn Thị Kim Nhã, “Các động lực và nhân tố chủ yếu tác động tới thu
hút FDI”
4. ThS / Nguyễn Thế Cường ; TS. Nguyễn Thị Kim Chi (2006), “Đầu tư
trực tiếp của liên minh Châu Âu vào Việt Nam”
5. Nguyễn Mạnh Toàn, “các nhân tố tác động đến việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào một địa phương của Việt Nam”, Tạp Chí Khoa Học Và
Công Nghệ, Đại Học Đà Nẵng - Số 5(40).2010.
6. Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
7. Bộ thương binh xã hội:


×