Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 105 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




KHUẤT THỊ THU HẠNH





CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
NĂM 2000






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2009




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



KHUẤT THỊ THU HẠNH




CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
NĂM 2000

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ







HÀ NỘI - 2009



1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa



Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: lý luận chung về chế định kết hôn
5
1.1.
Một số khái niệm chung
5
1.1.1.
Khái niệm chế định pháp luật
5
1.1.2.
Khái niệm chế định kết hôn
7
1.2.
Khái quát sự phát triển của chế định kết hôn trong pháp luật về Hôn
nhân và gia đình ở Việt Nam
9
1.2.1.
Chế định kết hôn trong cổ luật Việt Nam
9
1.2.2.
Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
12
1.2.3.
Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1954
15
1.2.4.
Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai

đoạn 1954 - 1975
16
1.2.5.
Chế định kết hôn trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai
đoạn từ năm 1975 đến nay
20

Chương 2: Chế định kết hôn Theo luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000
25
2.1.
Kết hôn và các điều kiện kết hôn
25
2.1.1.
Khái niệm kết hôn
25
2.1.2.
Điều kiện kết hôn
28

2
2.1.2.1.
Điều kiện về nội dung
28
2.1.2.2.
Đăng ký kết hôn
43
2.2.
Hủy kết hôn trái pháp luật và hậu quả pháp lý
48

2.2.1.
Khái niệm kết hôn trái pháp luật, hủy kết hôn trái pháp luật
48
2.2.2.
Căn cứ chung để tòa án xử hủy kết hôn trái pháp luật
49
2.2.3.
Người có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật
55
2.2.4.
Đường lối giải quyết các trường hợp kết hôn vi phạm điều
kiện kết hôn theo Luật định
57
2.2.5.
Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật
62
2.3.
Kết hôn có yếu tố nước ngoài
65

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM
2000 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
72
3.1.
Vài nét khái quát về thực trạng kết hôn ở Việt Nam một số năm gần
đây
72
3.2.
Thực tiễn áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và

gia đình Việt Nam năm 2000
83
3.3.
Kiến nghị hoàn thiện
87

KẾT LUẬN
94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95


3



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kờ của Sở Tư phỏp Hà Nội về kết hụn cú yếu tố nước ngoài
năm 2005
69
3.1
Số lượng trẻ đăng ký khai sinh có cha mẹ chưa hoặc không đủ điều
kiện đăng ký kết hôn tại Hà Nội

74
3.2
Tỷ lệ đăng ký kết hụn tại xó Cẩm Sơn, huyện Anh Sơn, Nghệ An
83















4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét về mặt cá nhân, gia đình là một đơn vị gồm có vợ chồng, con cái;
rộng hơn thì bao gồm một dòng họ, gồm ông bà, cha mẹ, anh chị em… Gia
đình gắn bó với nhau dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi
dưỡng. Đối với mỗi thành viên, gia đình là "cái nôi" thân yêu nuôi dưỡng,
giáo dục nâng đỡ mình suốt đời, là môi trường để hình thành và phát triển
nhân cách trong cả cuộc đời, là nơi để thế hệ trẻ rèn luyện lối sống có tình
nghĩa, có đạo lý để thực hành trong cuộc đời, là nơi để thế hệ già có thể di

dưỡng tinh thần, đem kinh nghiệm truyền lại cho con cháu.
Xét về mặt xã hội thì gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội. Gia
đình là một trong các tổ chức cơ sở để thực hiện chủ trương chính sách và
pháp luật của nhà nước về tất cả các mặt kinh tế - chính trị - gia đình - văn
hóa - dân sự - môi trường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời luôn nhấn mạnh vai trò của gia đình:
"Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt; gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình, chính vì muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt" [29].
Hôn nhân được coi là phương thức để phát triển gia đình và kết hôn
chính là nền tảng của hôn nhân. Khi một người đàn ông và một người đàn bà
liên kết với nhau bằng việc đăng ký kết hôn trên "nguyên tắc hoàn toàn bình
đẳng và tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau
suốt đời…" thì một gia đình được thiết lập. Nhà nước và nhân dân ta luôn coi
trọng đời sống hôn nhân và gia đình. Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận: "Gia
đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân và gia đình. Hôn
nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng " (Điều 64).

5
Ngày 9/6/2000, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1/1/2001. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bao gồm
nhiều chế định khác nhau, mỗi chế định đều có những vị trí và vai trò quan
trọng điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Kết hôn là một chế định quan trọng của Luật Hôn nhân và gia đình.
Kết hôn tạo cơ sở hình thành gia đình, tế bào của xã hội. Pháp luật đã quy
định điều kiện kết hôn, thủ tục, cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, trình
tự kết hôn và đang từng bước hoàn chỉnh hơn nữa về chế định này. Thực tiễn
gần mười năm qua cho thấy việc áp dụng chế định kết hôn trong Luật Hôn

nhân và gia đình năm 2000 đạt được nhiều thành tựu: những quy định về điều
kiện kết hôn nhằm hạn chế việc kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như
vợ, chồng khi đang có vợ, có chồng; nguyên tắc tự nguyện đã khẳng định sự
bình đẳng giữa nam và nữ, đảm bảo sự xây dựng gia đình bền vững và hạnh
phúc … Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là cơ sở
pháp lý điều chỉnh vấn đề kết hôn ở Việt Nam và là cơ sở xây dựng gia đình -
tế bào của xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng Luật cũng cho thấy một số quy định về
chế định kết hôn còn chưa đáp ứng được với thực tiễn các quan hệ hôn nhân
và gia đình trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa. Các điều kiện kết hôn
vẫn còn chưa thống nhất với các văn bản luật trong hệ thống pháp luật của
nhà nước ta. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng chung sống như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thủy chung, kính trên nhường dưới đang có
biểu hiện xuống cấp, gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều
mặt đối với gia đình và xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ hôn
nhân với người nước ngoài đang ảnh hưởng tới mục đích của quan hệ hôn
nhân xã hội chủ nghĩa. Đường lối hủy kết hôn trái pháp luật còn chưa được
thống nhất khiến Tòa án các cấp khi giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật vẫn

6
còn gặp khó khăn… Yêu cầu tất yếu đặt ra là phải hoàn thiện hơn nữa quy
định của pháp luật điều chỉnh chế định kết hôn nhằm bảo vệ quyền lợi của
công dân.
Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Chế định kết hôn theo
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000" là cần thiết, đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích:
- Làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về chế định kết hôn

- Phân tích nội dung, ý nghĩa của chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam năm 2000; đồng thời tìm ra những vướng mắc, bất cập
trong quá trình áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000.
- Tìm hiểu thực trạng kết hôn ở Việt Nam trong những năm gần đây.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại trong quá
trình áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000 và hoàn thiện pháp luật về chế định này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Chế định kết hôn là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Trong khuôn khổ
một luận văn tốt nghiệp cao học, đề tài chỉ tập trung vào phân tích chế định
kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Đề tài bao gồm các vấn đề cơ bản:
- Khái niệm chế định kết hôn.
- Sự phát triển chế định kết hôn trong hệ thống pháp luật về hôn nhân
và gia đình ở Việt Nam.

7
- Nội dung chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp khoa học duy vật
biện chứng: phương pháp thống kê, quy nạp, so sánh đối chiếu… để phân tích
các nội dung liên quan đến chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định kết hôn trong
tình hình thực tế hiện nay.
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo
hữu ích đối với những người nghiên cứu, học tập về chế định kết hôn theo
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, giúp người đọc có cái nhin sâu hơn về

chế định kết hôn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chế định kết hôn.
Chương 2: Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000 và một số kiến nghị.

8
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỂ CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1.1.1. Khái niệm chế định pháp luật
Hệ thống pháp luật Việt Nam phân chia thành các ngành luật điều
chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Mỗi ngành luật được tập hợp bởi
nhiều chế định khác nhau, mỗi chế định bao gồm nhiều quy phạm pháp luật
giống nhau điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cùng loại.
Chế định pháp luật "bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm
chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng" [66].
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học cũng đã định nghĩa chế định
pháp luật là: "Tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ
xã hội giống nhau trong phạm vi một ngành luật".
Theo đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì chế định pháp luật được coi là
các yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội. Còn nếu hiểu theo
nghĩa hẹp thì nó là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.
Dù hiểu như thế nào thì nói chung các khái niệm đều tương đối giống
nhau, tất cả đều thống nhất một số đặc điểm chung của chế định pháp luật là:

- Mang tính chất nhóm, mỗi chế định có đặc điểm riêng nhưng đều có
mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau.
Một chế định pháp luật không bao giờ tạo nên được một ngành luật
mà cần phải có nhiều chế định pháp luật khác nhau. Sự tồn tại của nhiều chế
định pháp luật khác nhau đó đòi hỏi chúng phải có sự liên kết với nhau. Có
vậy mới tạo nên một ngành luật hoàn chỉnh. Vì thế, việc xác định tính chất
chung của nhóm quan hệ xã hội là yếu tố quan trọng để xây dựng một chế
định pháp luật, làm cơ sở để tạo nên một ngành luật.

9
- Là hệ thống các quy phạm pháp luật bao gồm những quy tắc xử sự
chung do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất định.
Chế định pháp luật là hệ thống các quy phạm pháp luật vì vậy nó phải
mang đặc điểm của quy phạm pháp luật.
Trước hết nó phải là những quy tắc xử sự chung. Nói đến xử sự
chung là có thể hiểu ngay nó không phải dành cho một cá nhân, một tổ chức
đơn lẻ nào mà nó phải dành cho mọi tổ chức, cá nhân tham gia trong quan hệ
xã hội mà quy phạm pháp luật đó điều chỉnh. Những "khuôn mẫu" xử sự
chung đó tuy có những điểm riêng nhưng chúng thống nhất với nhau và đều
do Nhà nước ban hành. Nhà nước áp đặt ý chí của mình bằng các quy phạm
pháp luật đó. Theo đó, các đối tượng chịu sự điều chỉnh của nhóm quan hệ xã
hội nào sẽ có những quyền, nghĩa vụ pháp lý tương ứng với nhóm quan hệ xã
hội đó. Nhà nước đảm bảo cho những quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện
bằng quyền lực của Nhà nước. Đây chính là bản chất của pháp luật.
- Điều chỉnh nhóm các quan hệ xã hội tương đối giống nhau. Nói đến
nhóm quan hệ xã hội tức là nói đến nhiều quan hệ xã hội. Không phải quan hệ
nào cũng giống nhau. Ví dụ như quan hệ hôn nhân và gia đình bao gồm nhiều
quan hệ khác nhau như quan hệ giữa hai vợ - chồng, quan hệ giữa cha mẹ và
con cái, giữa anh chị em ruột thịt Mỗi quan hệ đều có những điểm riêng
nhưng chúng lại có điểm chung nhất đều là quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn

nhân và gia đình. Mỗi quan hệ riêng có những quy phạm pháp luật riêng
tương ứng điều chỉnh nhưng đều phải tuân theo những nguyên tắc chung của
Luật Hôn nhân và gia đình…
Như vậy, hiểu một cách khái quát chế định pháp luật là một thuật ngữ
luật học dùng để chỉ một số các quy phạm pháp luật có những đặc điểm chung
giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội tương ứng.
Mỗi chế định pháp luật luôn có những đặc điểm riêng nhưng chúng
vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy chế định pháp luật bao giờ

10
cũng tuân theo quy luật vận động khách quan, chịu ảnh hưởng và tác động
của các chế định khác trong hệ thống pháp luật.
1.1.2. Khái niệm chế định kết hôn
Luật Hôn nhân và gia đình là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, được tạo thành bởi nhiều chế định pháp luật khác nhau như chế định kết
hôn, chế định ly hôn Các chế định đều điều chỉnh chung cho nhóm quan hệ
xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, là sự tổng hợp của nhiều quy
phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh
vực đó.
Những quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình là các quan
hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các
thành viên trong gia đình với nhau… Khi những quan hệ xã hội này chịu sự
điều chỉnh của các quy phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình thì các quan hệ
đó được coi là quan hệ pháp Luật Hôn nhân và gia đình.
Ví dụ: Khi hai bên nam - nữ kết hôn với nhau, theo nguyên tắc chung
tại Điều 11 và Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nam - nữ được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc kết hôn. Kể từ thời điểm đó
phát sinh quan hệ vợ chồng hợp pháp giữa nam - nữ mà nội dung của quan hệ
pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và
tài sản giữa vợ và chồng; những quan hệ phát sinh từ quan hệ pháp luật giữa

vợ và chồng như quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa vợ chồng …
Tất cả những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
được Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh là quan hệ pháp Luật Hôn nhân
và gia đình. Tuy rằng không phải lúc nào cũng chỉ giới hạn sự điều chỉnh bởi
quan hệ giữa các thành viên của một gia đình mà còn điều chỉnh cả những
quan hệ đã từng có quan hệ với gia đình đó. Ví dụ như không phải hai vợ
chồng sau khi ly hôn thì mọi quan hệ giữa hai vợ chồng chấm dứt mà họ vẫn
có trách nhiệm, nghĩa vụ với con chung… Mục đích của hôn nhân là nhằm

11
xây dựng gia đình, quan hệ vợ chồng lâu dài và bền vững dựa trên sự yêu
thương giữa vợ chồng. Để đạt được điều đó đòi hỏi vợ chồng phải yêu
thương, chung thủy, quý trọng và chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, có
những lúc, quan hệ vợ chồng có mâu thuẫn không thể giải quyết được và dẫn
họ đến ly hôn. Dù là kết hôn hay ly hôn thì yếu tố tình cảm gắn bó giữa các
chủ thể phần lớn quyết định việc xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ hôn
nhân và gia đình. Chính những sự kiện như kết hôn, ly hôn, các quan hệ huyết
thống hay nuôi dưỡng được gắn bởi yếu tố tình cảm đã khiến các quan hệ
pháp luật hôn nhân và gia đình trở nên đặc biệt so với các quan hệ khác.
Xét về mặt lý thuyết, quan hệ hôn nhân và gia đình không có yếu tố
hàng hóa và ngang giá mà mang tính chất bền vững lâu dài. Đây là lý do
không áp dụng thời hiệu kiện trong các quan hệ hôn nhân và gia đình. Quan
hệ hôn nhân và gia đình cũng bao gồm hai nhóm là quan hệ nhân thân và tài
sản nhưng chúng khác so với quan hệ pháp luật dân sự thông thường. Nếu
quan hệ pháp luật dân sự thông thường có nội dung chính là quan hệ tài sản
thì quan hệ hôn nhân và gia đình có nội dung chính là quan hệ nhân thân. Hai
nhóm quan hệ trong Luật Hôn nhân và gia đình tồn tại độc lập với nhau.
Chẳng hạn, khi hai vợ chồng ly hôn với nhau, quan hệ nhân thân giữa vợ
chồng chấm dứt nhưng quan hệ tài sản không hẳn đã chấm dứt. Giữa họ lúc
đó tồn tại quan hệ cha - con hoặc quan hệ mẹ - con, là quan hệ cấp dưỡng

giữa các bên nếu có. Quan hệ nhân thân không xuất phát từ quan hệ tài sản.
Sự tồn tại độc lập này, điểm khác biệt về tình cảm khiến quan hệ nhân thân đã
chiếm một vị trí ưu thế hàng đầu trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia
đình. Tất cả nhằm "xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
và bền vững" [44].
Chế định kết hôn được coi là một chế định rất quan trọng, thiết yếu
của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chế định kết hôn được hiểu là hệ
thống các quy phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình những điểm chung
giống nhau cùng điều chỉnh một nhóm quan hệ pháp luật về vấn đề kết hôn.

12
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định chế định kết hôn từ
Điều 9 đến Điều 17. Việc quy định này chứng tỏ tầm quan trọng của chế định
kết hôn. Đây là chế định mở đầu cho những quy định điều chỉnh những quan
hệ phát sinh sau này liên quan đến hôn nhân và gia đình.
1.2. KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN TRONG
PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
1.2.1. Chế định kết hôn trong cổ luật Việt Nam
Ngay từ thời cổ luật, vấn đề hôn nhân và gia đình đã được chú ý quan
tâm khi các triều đại vua chúa ngày xưa xây dựng luật. Dưới thời phong kiến
có hai bộ luật được coi là tiêu biểu đó là Quốc triều hình luật (Quốc triều hình
luật) của Triều Lê và Hoàng Việt luật lệ của Triều Nguyễn.
- Quốc triều hình luật (còn gọi là bộ Luật Hồng Đức) được ban hành
dưới Triều Lê niên hiệu Hồng Đức (1470-1497)
Theo các nhà nghiên cứu thì không xác định chính xác được thời điểm
công bố bộ luật mà chỉ có thể xác định được trong khoảng niên hiệu Hồng
Đức (1470-1497). Bộ luật này cũng được bổ sung, hiệu đính qua nhiều đời
vua Triều Lê.
Bộ Quốc triều hình luật có 13 chương, ghi chép trong 06 quyển (trong
đó, 05 quyển có 02 chương/quyển và 01 quyển có 3 chương) gồm 722 điều.

Bộ luật quy định khá đầy đủ những vấn đề của thời đại đó như: Danh lệ, cấm
vệ, quân lính, điền sản, tăng bổ hương hỏa, gian thông, đạo tặc… Trong đó
quy định 60 điều về Hộ hôn (hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân và gia đình và những
tội phạm trong lĩnh vực này).
- Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Bộ luật Gia Long. Lúc bấy giờ Gia
Long lên ngôi ra lệnh soạn bộ luật mới để có cơ sở về pháp luật. Tổng trấn
Bắc Thành Nguyễn Văn Thành đã theo lệnh vua chủ biên bao gồm 22 quyển và
398 điều và sau đó được vua Gia Long cho ban hành chính thức vào năm 1815.

13
Bộ luật gần như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh và được sử dụng trong
suốt thời kỳ nhà Nguyễn.
Cả hai bộ luật đều đã chú ý đến vấn đề hôn nhân và gia đình. Đây là
sự quan tâm của giai cấp thống trị trong xã hội nhằm duy trì sự thống trị của
vương triều, củng cố trật tự xã hội và chế độ gia đình gia trưởng trong xã hội
phong kiến thời xưa.
Vấn đề kết hôn đã được hai bộ luật này đề cập tới gồm những quy
định về điều kiện kết hôn và hình thức kết hôn.
* Về điều kiện kết hôn
Kết hôn phải có sự đồng ý của hai bên cha mẹ. Cả hai bộ luật đều quy
định việc kết hôn chỉ được thực hiện khi có cha mẹ hoặc một người tôn thuộc
đứng đầu làm chủ hôn (Điều 413 Quốc triều hình luật và Điều 94 Hoàng Việt
luật lệ). Có thể coi đây là điều cơ bản nhất, loại trừ hẳn quyền tự do kết hôn
của hai bên nam nữ. Điều này xuất phát từ quan điểm phong kiến cho rằng
hôn nhân là quan hệ xuất phát từ quyền lợi gia đình, dòng họ nhằm giao hiếu
giữa hai dòng họ và kế truyền dòng họ tông tộc. Tuy nhiên, pháp luật cũng
quy định trường hợp: việc kết hôn có thể do hai bên nam nữ quyết định vì họ
chỉ còn bà con xa hoặc trong trường hợp họ ở xa nhà.
Kết hôn không vi phạm những điều mà pháp luật cấm. Pháp luật thời
kỳ này quy định cấm kết hôn rất khắt khe nhằm mục đích bảo vệ vương

quyền, trật tự đẳng cấp xã hội, đạo đức chính yếu:
+ Cấm kết hôn khi có tang, cha mẹ bị giam cầm, tù tội (Điều 318
Quốc triều hình luật và Điều 99 Hoàng Việt luật lệ)
+ Cấm kết hôn giữa những người thân thích (Điều 319 Quốc triều
hình luật và Điều 100, 101, 102 Hoàng Việt luật lệ)
Ngoài ra trong mỗi bộ luật còn có thêm những quy định cấm khác
như: Cấm quan lại và con cháu không được lấy con gái hát xướng làm vợ
(Điều 323 Quốc triều hình luật)…

14
Về độ tuổi kết hôn thì cả hai bộ luật này không quy định rõ về độ tuổi
cho phép hai bên nam nữ kết hôn. Nhưng trong văn bản "Hồng Đức hôn giá lễ
nghi" có quy định rõ "con trai từ 18 tuổi, con gái từ 16 tuổi trở lên mới có thể
thành hôn". Đây là một quy định vừa thỏa mãn được nhu cầu sớm có người
chăm sóc cha mẹ, thờ phụng tổ tiên vừa tránh tệ nạn tảo hôn thường thấy ở xã
hội phong kiến lúc bấy giờ.
Trong trường hợp hôn nhân vi phạm một trong các điều kiện trên đây
thì hai bên kết hôn buộc phải ly dị và phải chịu những hình phạt nhất định tùy
từng trường hợp cụ thể. Ví dụ theo Hoàng Việt luật lệ tại Điều 98, kết hôn khi
có tang cha mẹ hoặc tang chồng thì bị tội đồ, phạt 100 trượng; Điều 99 quy
định: kết hôn khi ông bà, cha mẹ bị giam tù thì bị xử biếm ba tư và vợ chồng
phải phân dị, phạt 80 trượng…
* Về thủ tục kết hôn
Thủ tục kết hôn của cả hai bộ luật đều quy định bao gồm: hình thức
đính hôn và nghi lễ kết hôn.
Hình thức đính hôn:
Hình thức đính hôn là cách thức để Quốc triều hình luật công nhận
một cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý. Theo đó, Quốc triều hình luật chỉ coi là
đính hôn sau khi nhà trai đã nộp đủ sính lễ (gồm vàng, bạc, tiền, lụa, heo,
rượu) cho nhà gái, tức là phải có sự hứa hôn của hai họ. Việc nạp sính lễ

mang tính chất long trọng cùng với sự cáo tổ trước từ đường hai họ là bằng
chứng công khai và chắc chắn cho việc hứa hôn. Quốc triều hình luật cũng
quy định "gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt
80 trượng Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước" (Điều 315 -
Quốc triều hình luật).
Khác với Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ quy định hình thức
của sự đính hôn là các "hôn thư" hoặc tư ước. Đó là lời cam kết của hai người
chủ hôn (Điều 94 Hoàng Việt luật lệ). Hoàng Việt luật lệ cũng quy định nếu

15
đã hứa hôn, có hôn thư mà đổi ý, chủ hôn nhà gái bị phạt 50 roi, người con
gái vẫn phải về nhà chồng đã hứa gả. Nhà Nguyễn cũng quy định dù không
"hôn thư", nhưng nhà gái đã nhận sính lễ cũng có giá trị hứa hôn. Theo Điều
108 Hoàng Việt luật lệ quy định: 5 năm sau khi nộp sính lễ, đàng gái không
phạm lỗi mà đàng trai không cử hành lễ thân nghinh (lễ rước dâu) thì nhà gái
được phép xin quan cấp chấp chiếu cho phép kết hôn với người khác.
Về nghi lễ kết hôn, luật nhà Nguyễn không quy định cụ thể song luật
nhà Lê thì lại rất chú trọng quy định về hình thức giá thú. Hôn nhân theo luật
nhà Lê gồm 4 lễ: lễ nghị hôn (nhờ mối lái đi lại bàn định), lễ định thân (mang
lễ vật vấn danh đến nhà gái), lễ nạp trưng (mang sính lễ dẫn cưới đến nhà
gái), lễ thân nghinh (rước dâu). Nghi lễ kết hôn thời kỳ này đã phản ánh rất rõ
phong tục tập quán của người Việt Nam ta và cho đến ngày nay, nhiều nghi lễ
vẫn còn được gìn giữ thực hiện.
Có thể thấy, hai bộ luật đã có nhiều điểm tiến bộ, tuy Hoàng Việt luật
lệ không đề cao địa vị của người phụ nữ bằng Quốc triều hình luật, song so
với lúc bấy giờ, vai trò của người con gái - người phụ nữ đã được xã hội ghi
nhận tốt hơn.
Ngoài hai bộ luật chính là Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ,
thời kỳ phong kiến còn xây dựng nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định
về vấn đề kết hôn mà chưa được tập hợp, thống nhất thành một chế định hoàn

chỉnh. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rõ thời kỳ này, một khung pháp lý quy
định về việc kết hôn đã được xây dựng và dần dần bổ sung, thay đổi cho hoàn
chỉnh trong các thời kỳ sau.
1.2.2. Chế định kết hôn trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Ngày 25/8/1883 triều đình nhà Nguyễn ký kết với Pháp bản "Hiệp ước
hòa bình". Theo bản Hiệp ước đó, đất nước ta bị chia cắt làm ba miền: Bắc
Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đất nước Việt Nam chịu sự đô hộ của thực dân

16
Pháp. Nhằm đảm bảo sự thống trị của chúng trên đất nước Việt Nam, thực
dân Pháp tiếp tục duy trì quan hệ sản xuất và chế độ hôn nhân và gia đình
phong kiến từ nhiều thế kỷ trước ở nước ta. Phỏng theo Bộ luật Dân sự của
Công hòa Pháp ban hành năm 1804, điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và
gia đình ở nước ta dựa trên ba bộ luật:
- Bắc Kỳ áp dụng: Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931.
- Trung Kỳ áp dụng: Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936.
- Nam Kỳ áp dụng: Tập Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 .
Thực dân Pháp coi Nam Kỳ là thuộc địa của chúng, còn Bắc Kỳ và
Trung Kỳ là xứ bảo hộ, do vậy ở mỗi miền áp dụng một bộ luật khác nhau với
những quy định khác nhau.
Về độ tuổi cho phép kết hôn: Dân luật giản yếu quy định "con trai 16
tuổi, con gái 14 tuổi" được phép kết hôn. dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung
Kỳ quy định độ tuổi kết hôn cao hơn Dân luật giản yếu: "nam tròn 18 tuổi, nữ
tròn 15 tuổi". Tuy nhiên, trong trường hợp có lý do chính đáng thì quan tỉnh
có thể đặc cách cho phép nam tròn 15 tuổi, nữ tròn 12 tuổi kết hôn (Điều 75
dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung Kỳ).
Ngoài ra, sự tự nguyện của các bên nam nữ trong việc xác lập hôn
nhân cũng đã được các bộ luật thời kỳ này ghi nhận. Điều 76 dân luật Bắc Kỳ
quy định "kết hôn tất phải có hai bên nam nữ bằng lòng nhau mới được". Quy

định này thể hiện sự tiến bộ hơn hẳn so với pháp luật thời Lê, thời Nguyễn.
Nhưng bên cạnh sự ưng thuận của đôi nam nữ khi kết hôn, pháp luật thời kỳ
này vẫn ghi nhận sự ưng thuận của cha mẹ, của người thân thích hay người đỡ
đầu và cũng coi đó là yếu tố cần thiết bảo đảm cho hôn nhân được coi là hợp
pháp, không kể người kết hôn đã thành niên hay chưa thành niên. Điều 77 dân
luật Bắc Kỳ quy định "phàm con cái đã thành niên hay chưa thành niên,
không khi nào không có cha mẹ bằng lòng mà kết hôn được". Cùng với các
quy định về các điều kiện kết hôn, cả ba bộ luật trên còn quy định một số

17
trường hợp cấm kết hôn: Cấm lấy người thân thuộc về trực hệ và một số
người thuộc bàng hệ (anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ
khác cha, chị dâu, em dâu, anh chồng, em chồng… (Điều 74 dân luật Bắc
Kỳ); cấm kết hôn trong thời kỳ cư tang - khi có tang cha mẹ hoặc tang chồng
là hai mươi bảy tháng, tang vợ là mười hai tháng (Điều 84 dân luật Bắc Kỳ).
Về nghi lễ kết hôn có nhiều điểm giống quy định của pháp luật thời kỳ
phong kiến, nhưng pháp luật thời kỳ này có điểm mới là "việc kết hôn phải
được khai với chính quyền (hộ lại) thì mới có giá trị" (Điều 69 dân luật Bắc
Kỳ). Theo dân luật Trung Kỳ, nghi lễ kết hôn gồm: ước hôn (lễ hỏi) và kết
hôn (hôn lễ). Hôn lễ được cử hành theo phong tục tập quán. Trước hôn lễ phải
thi hành thủ tục công bố trong thời hạn tám ngày tại cư sở của cả nam lẫn nữ
và sau đó đăng ký vào nhân thế bộ địa phương. Nếu không đăng ký thì coi
như việc kết hôn của hai vợ chồng đó không có giá trị pháp lý.
Như vậy, quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn tuy đã được cả ba
bộ luật sửa đổi theo hướng tiến bộ hơn như ghi nhận sự "tự nguyện": việc kết
hôn phải do hai bên nam nữ bằng lòng (Điều 76 dân luật Bắc Kỳ và dân luật
Trung Kỳ), công bố việc kết hôn…. Nhưng do ảnh hưởng của chế độ phong kiến
nên nhiều quy định về vấn đề kết hôn của pháp luật thời kỳ này giống với pháp
luật thời kỳ phong kiến, nhất là các quy định cấm kết hôn, nghi lễ kết hôn
Ba bộ luật trên được người Pháp xây dựng nhằm cai trị Việt Nam.

Nguồn gốc hình thành đều dựa vào luật của Pháp mà cụ thể là ảnh hưởng của
Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804, vì thế khi áp dụng tại Việt Nam còn rất
nhiều điều không phù hợp. Hơn nữa những văn bản về hôn nhân và gia đình
do nhà nước thực dân phong kiến ban hành, áp dụng chịu ảnh hưởng của tư
tưởng chính trị phong kiến. Do vậy mà vẫn không có nhiều quy định mới, tiến
bộ hơn về vấn đề kết hôn. Những quy định về việc kết hôn cũng vẫn còn nằm
rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau, chưa được xây dựng thành chế
định riêng.

18
1.2.3. Chế định kết hôn trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam giai đoạn 1945-1954
Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử Nhà nước ta chưa thể ban
hành ngay một đạo luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Ngày
10/10/1945, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 90-SL cho phép vận dụng
những quy định trong pháp luật cũ một cách có chọn lọc theo nguyên tắc
không đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, của Nhà nước.
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời đã ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ, giải phóng phụ nữ khỏi
ách áp bức bóc lột hàng ngàn năm, cơ sở để xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia
đình phong kiến lạc hậu, tạo điều kiện xây dựng một chế độ hôn nhân và gia
đình mới phù hợp với quốc gia độc lập, dân chủ, tiến bộ.
Những quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn đã được ghi nhận
trong Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định
trong dân luật. Sắc lệnh đã có nhiều quy định xóa bỏ những quy phạm pháp
luật của Nhà nước phong kiến thực dân, sửa đổi theo hướng tiến bộ phù hợp
với chế độ mới (Điều 2 - "Người con đã thành niên không bắt buộc phải có
cha mẹ bằng lòng mới kết hôn được", "trong thời kỳ tang chế vẫn có thể lấy
vợ lấy chồng được…" (Điều 3), "Người đàn bà ly dị có thể lấy chồng khác

ngay sau khi có án tuyên ly dị, nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc
đương có thai" (Điều 4), "cha mẹ không có quyền xin giam cầm con cái"
(Điều 8). Nguyên tắc tự do kết hôn, tự do lựa chọn hôn nhân được đề cao.
Bên cạnh đó Sắc lệnh còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: quá đơn giản,
thiếu những quy định hết sức quan trọng như điều kiện về độ tuổi kết hôn…
quy định về việc kết hôn còn có điểm hạn chế: " … người vợ góa chỉ có thể
lấy chồng sau 10 tháng kể từ ngày chồng chết…" (Điều 3). Mặt khác, Sắc
lệnh mới chỉ đưa ra một vài quy định về xóa bỏ cấm kết hôn trong thời kỳ
tang chế, kết hôn không cần phải có sự ưng thuận của các bậc tôn thuộc.

19
Như vậy những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về kết hôn
trong Sắc lệnh số 97-SL tuy đã có nhiều điểm tiến bộ nhưng do văn bản pháp
luật này chỉ mang tính chất "tạm thời" nên các quy định về kết hôn mới chỉ
được xem xét, ghi nhận ở mức độ đơn giản, còn nhiều thiếu sót, không đáp
ứng được yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới. Các quy phạm điều
chỉnh về vấn đề kết hôn chưa được tập hợp thành nhóm riêng, chưa tạo thành
chế định pháp luật cụ thể.
1.2.4. Chế định kết hôn trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam giai đoạn 1954-1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07 tháng 5 năm 1954, theo Hiệp
định Giơ-ne-vơ, đất nước ta tạm thời vẫn còn bị chia cắt thành hai miền với
hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau. Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân, đấu tranh thống nhất nước nhà.
- Ở miền Bắc: Dưới tác động của cơ chế kinh tế mới, các quan hệ
trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình có nhiều thay đổi. Sắc lệnh số 97-
SL đã hoàn thành vai trò lịch sử, tuy đã góp phần vào việc xóa bỏ chế độ hôn
nhân và gia đình phong kiến lạc hậu nhưng không đáp ứng được tiến trình
phát triển của cách mạng. Do đó, việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân

và gia đình trở thành một đòi hỏi cấp thiết của toàn xã hội. Đó là một tất yếu
khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước
ta. Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội thông qua ngày 31/12/1959 đã ghi
nhận chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa, quyền bình đẳng giữa
nam, nữ, giữa vợ chồng.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ra đời trên cơ sở Hiến pháp năm
1959 và được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1959, có hiệu lực thi hành từ
ngày 13/1/1960. Luật là công cụ pháp lý của nhà nước ta được thực hiện với
hai nhiệm vụ cơ bản: xóa bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình

20
phong kiến và xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa.
Luật gồm 6 chương và 35 điều. Chế định kết hôn được quy định tại chương 2
gồm 8 điều từ Điều 4 đến Điều 11.
Như vậy, so với pháp luật thời kỳ trước đó, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 đã tổng hợp các quy định pháp luật về vấn đề kết hôn thành một
chế định. Chế định kết hôn được quy định rõ ràng, chính thức trong Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959. Trong đó các vấn đề liên quan đến kết hôn được
tổng hợp, sắp xếp thành một trật tự pháp lý nhất định, cụ thể và chặt chẽ. Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959 không thừa nhận chế độ đa thê, Nhà nước ta
chỉ thừa nhận hôn nhân trên nguyên tắc một vợ một chồng: "cấm người đang
có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác" (Điều 5 Luật Hôn nhân và gia
đình 1959). Ngoài ra, sự tự nguyện khi kết hôn đã trở thành một nguyên tắc
cơ bản được quy định ngay ở điều đầu tiên của chương Kết hôn: "Con trai và
con gái đến tuổi, được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình;
không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai được cưỡng ép hoặc cản
trở" (Điều 4). Đây là điểm tiến bộ nổi bật về quan hệ hôn nhân và gia đình.
Các văn bản luật trước đây cũng đã có đề cập đến yếu tố "tự nguyện" nhưng
phải đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, yếu tố "tự nguyện" mới thực
sự được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản. Nếu như pháp luật thời trước đó

quy định cấm kết hôn khi để tang, cấm người đàn bà góa tái giá trong hạn 30
ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật… thì Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 đã bãi bỏ những quy định không còn phù hợp ấy: "việc để
tang không cản trở việc kết hôn" (Điều 7); "đàn bà góa có quyền tái giá"
(Điều 8). Luật quy định rõ ràng hình thức kết hôn: "việc kết hôn phải được Ủy
ban hành chính cơ sở nơi trú quán của người con trai hoặc bên người con gái
công nhận và ghi vào sổ kết hôn". Đây là điểm mới của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959, thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta là việc nam nữ kết hôn
phải được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước công nhận.

21
Những quy định trên của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 phù
hợp với điều kiện kinh tế-xã hội mới, đáp ứng được sự nghiệp giải phóng phụ
nữ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nam nữ khi kết hôn, góp phần xóa
bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế
độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Các quy định của Luật về vấn
đề kết hôn đã thể hiện rõ bản chất của hôn nhân trong chế độ mới, tuân thủ
các điều kiện này chính là đảm bảo cho việc xác lập hôn nhân tiến bộ, hạnh
phúc và bền vững.
- Ở miền Nam: Trong thời kỳ này đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền
Sài Gòn đã ban hành các văn bản pháp luật áp dụng trong các quan hệ hôn
nhân và gia đình:
+ Luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm (Luật số 1-59).
+ Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng
đồng (Sắc luật số 15/64).
+ Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 của chính quyền ngụy Sài Gòn (Bộ
Dân luật năm 1972).
Vấn đề kết hôn cũng đã được các văn bản này quy định có nhiều điểm
tiến bộ, bãi bỏ các quy định không phù hợp với giai đoạn này. Cả ba văn bản
pháp luật này đã đề cập đến các điều kiện về nội dung và điều kiện về hình

thức của việc kết hôn.
Điều kiện về nội dung: các văn bản luật này quy định độ tuổi kết hôn
cụ thể: con gái mười sáu tuổi, con trai mười tám tuổi (Điều 10 Sắc luật số
15/64 và Điều 104 Bộ Dân luật năm 1972) và phải đủ sức khỏe. Sự "tự
nguyện" của nam nữ khi kết hôn đã được các văn bản luật này ghi nhận là
điều kiện của hôn thú: "Sự kết hôn vô giá trị nếu không có sự ưng thuận của
đôi bên nam nữ". Ngoài ra, những văn bản thời kỳ này còn quy định sự ưng
thuận của các tôn thuộc nếu người định kết hôn là người chưa thành niên (Điều 9
Luật số 1-59, Điều 1 Sắc luật số 15/64, Điều 105 Bộ Dân luật năm 1972).

22
Ba văn bản luật cũng đề cập đến các trường hợp cấm kết hôn như: "Cấm
người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác" (Điều 5 Luật số 1-1959),
"cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa cha mẹ nuôi
và con nuôi. Cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ
hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi năm
đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ, thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo
phong tục tập quán." (Điều 9 Luật số 1-1959).
Bộ Dân luật năm 1972 thì quy định từ Điều 108 đến Điều 111 những
trường hợp cấm kết hôn: " Những thân thuộc trong trực hệ, không cứ chính
thức hay ngoại hôn và không cứ thứ bậc nào, không thể kết hôn với nhau"
(Điều 108)… Tuy nhiên trong trường hợp "có lý do trọng đại, nguyên thủ
quốc gia có thể đặc cách cho phép kết hôn giữa những người nói ở Điều 109,
đoạn 3, miễn không phải là những người đồng tông, điều 110, đoạn 3 và 4 và
Điều 114, đoạn 3 và 4" (Điều 112 Bộ Dân luật năm 1972).
Điều kiện về hình thức: quy định thể thức trước khi cử hành hôn lễ và
thể thức khi cử hành hôn lễ. Ví dụ tại chương thứ III của Bộ Dân luật năm
1972, từ Điều 113 đến Điều 126, hình thức kết hôn được quy định rất rõ ràng,
khá đầy đủ. Việc kết hôn phải được niêm yết tại "công sở nơi trú ngụ thường
xuyên và nơi cư sở của hai người phối ngẫu vị lai" (Điều 118) và phải niêm

yết trong vòng mười ngày liền. Bộ Dân luật năm 1972 cũng quy định về việc
"xuất trình bản toàn sao giấy khai sinh được cấp lâu nhất là ba tháng nếu cấp
ở Việt Nam và sáu tháng nếu cấp ở ngoại quốc" (Điều 124)… Những quy
định về hình thức kết hôn trên có thể nói là những quy định thể hiện rất rõ yếu
tố quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc kết hôn không chỉ là sự
ghi nhận của gia đình như trước kia mà việc kết hôn đòi hỏi bắt buộc phải có
sự ghi nhận của chính quyền địa phương. Điều này cũng chứng tỏ những quy
định của luật pháp Việt Nam ngày càng chặt chẽ hơn.
Cả ba văn bản luật này vẫn quy định một số vấn đề về kết hôn dựa vào
phong tục, tập quán lạc hậu của xã hội phong kiến: quy định độ tuổi kết hôn

23
tối thiểu khi kết hôn rất thấp (nam tròn 18 tuổi, nữ tròn 16 tuổi thì được kết
hôn; trường hợp đặc biệt nguyên thủ quốc gia có quyền đặc cách cho phép hạ
thấp tuổi và đặc cách cho miễn tuổi kết hôn); phạm vi ngăn cấm quan hệ kết
hôn giữa những người có quan hệ thân thuộc hoặc thích thuộc vẫn còn rất
rộng (phạm vi 5 đời); ba văn bản luật vẫn còn quy định cấm người vợ khi hôn
nhân chấm dứt trước pháp luật đều phải chờ đợi sau hạn 300 ngày mới được
quyền kết hôn với người khác, trừ trường hợp chứng minh rằng mình không
có thai khi chồng chết hoặc khi ly hôn với chồng; mở rộng ngăn cấm kết hôn
khi mắc các bệnh mà luật dự liệu (hủi, hoa liễu, tâm thần…).
Mặc dù đã có những điểm tiến bộ như ghi nhận sự tự nguyện, ghi nhận
chế độ hôn nhân một vợ một chồng song nhìn chung cả ba văn bản luật được
áp dụng ở miền Nam thời kỳ này vẫn thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa
vợ và chồng, vẫn bảo vệ quyền gia trưởng trong gia đình… Điểm quan trọng
nhất là cả ba bộ luật đều là văn bản của chính quyền Ngụy Sài Gòn, vì thế vẫn
là công cụ của Nhà nước phản động, đi ngược với lợi ích của nhân dân lao
động Việt Nam.
Giai đoạn 1954 - 1975 là một giai đoạn có hoàn cảnh lịch sử đặc biệt,
pháp luật thời kỳ này điều chỉnh về quan hệ hôn nhân và gia đình có sự khác

biệt giữa hai miền của đất nước. Vấn đề kết hôn lần đầu tiên được tập hợp
thành một chế định riêng. Tuy chưa cụ thể và toàn diện nhưng Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959 ở nước ta được xem là một bước tiến nổi bật của pháp
Luật Hôn nhân và gia đình giai đoạn 1954-1975.
1.2.5. Chế định kết hôn trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc khóa VI (năm 1986) đã đề ra
đường lối đổi mới và chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và vận động theo cơ chế thị trường có

×