Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

TÀI SẢN RIÊNG VÀ VIỆC HẠN CHẾ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN RIÊNG THEO QUY ĐỊNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.06 KB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA: 2012-2016
Đề tài:

TÀI SẢN RIÊNG VÀ VIỆC HẠN CHẾ QUYỀN ĐỊNH
ĐOẠT TÀI SẢN RIÊNG THEO QUY ĐỊNH LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiên:

ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Huỳnh Ngọc Hạnh

Bộ môn: Luật tư pháp

1
GVHD: Th.

MSSV: B1202780
Lớp: Luật tư pháp- K38

Cần Thơ, 12/2015
Ngọc Hạnh



Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài
Mục tiêu nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Kết cấu đề tài
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN RIÊNG VÀ
VIỆC HẠN CHẾ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN RIÊNG

1.1. Khái quát chung về tài sản riêng của vợ, chồng
1.1.1. Khái niệm về tài sản riêng của vợ, chồng
1.1.1.1. Khái niệm tài sản
1.1.1.2. khái niệm tài sản riêng của vợ, chồng
1.1.2. Đặc điểm về tài sản riêng của vợ, chồng
1.1.3. Ý nghĩa của quy định pháp luật về tài sản riêng của vợ, chồng
1.2. Khái quát chung về việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của
vợ, chồng
1.2.1. Khái niệm về sự hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ,

chồng
1.2.1.1. Khái niệm về quyền định đoạt tài sản riêng của vơ, chồng
1.2.1.2. Khái niệm về hạn chế định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng
1.2.2. Đặc điểm của việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ,
chồng
1.2.3. Lược sử quá trình phát triển của việc ghi nhận hạn chế quyền
định đoạt tài sản riêng trong pháp Luật Hôn nhân và gia đình nước ta
1.2.3.1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
1.2.3.2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
1.2.3.3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
1.2.3.4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014

1.2.4. Ý nghĩa của quy định pháp luật về hạn chế quyền định đoạt tài
sản riêng của vợ, chồng
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN RIÊNG VÀ
VIỆC HẠN CHẾ QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN RIÊNG THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
2.1. Quy định của pháp luật về tài sản riêng của vợ, chồng theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2.1.1. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
2.1.1.1. Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi bên vợ,
chồng có trước khi kết hôn

2.1.1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi bên vợ,
chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân
2.1.1.3. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm những tài sản mà vợ, chồng
được chia khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
2.1.1.4. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản phục vụ nhu cầu
thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật
thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng
2.1.1.5. Tài sản riêng là tài sản được hình thành từ tài sản riêng của
vợ, chồng
2.1.2. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2.1.2.1. Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng
2.1.2.2. Nghĩa vụ được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng
2.2. Quy định của pháp luật về việc hạn chế quyền định đoạt tài sản
riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành
2.2.1. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng là nguồn sống duy
nhất của gia đình
2.2.2. Tài sản riêng là chỗ ở duy nhất của gia đình
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014

CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TÀI SẢN RIÊNG VÀ HẠN CHẾ
QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG THEO

LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
3.1. Những điểm tiến bộ của quy định pháp luật về tài sản riêng và hạn
chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014
3.2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hướng hoàn thiện quy dịnh pháp
luật về tài sản riêng và hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ,
chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
3.2.1. Nhận xết chung
3.2.2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hướng hoàn thiện quy định
pháp luật về tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014
3.2.2. Thực tiễn và kiến nghị hướng hoàn thiện quy định pháp luật về
hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN RIÊNG VÀ
VIỆC HẠN CHẾ ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN RIÊNG
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn 1. Từ hành vi kết
hôn của nam và nữ sẽ hình thành quan hệ hôn nhân, mà biểu hiện của nó

chính là quan hệ giữa vợ và chồng. Bởi lẽ, để có được sự bình đẳng giữa nam
và nữ ngoài xã hội trước hết phải đảm bảo được sự bình đẳng giữa vợ và
chồng trong phạm vi gia đình. Do đó, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2014 đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa vợ và chồng; Tại Điều 17 có quy
định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân
được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng cũng như quy định tiến bộ của Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014
đã có những quy định mở để điều chỉnh tất cả các lĩnh vực của quan hệ hôn
nhân. Cùng với các quy định khác trong luật, quy định pháp luật về quan hệ
giữa vợ và chồng được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn thể hiện sâu sắc quan
điểm, tư tưởng bình đẳng, bình quyền trong quan hệ giữa vợ và chồng; Đặc
biệt là những quy định liên quan đến quan hệ pháp luật về tài sản của vợ và
chồng. Bởi vì, quan hệ về tài sản bao gồm quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa
vợ và chồng, nó đóng vai trò trong việc điều chỉnh những quan hệ khác trong
gia đình, là cơ sở pháp lý để thực hiện các chức năng kinh tế và đáp ứng các
nhu cầu vật chất của vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình 2. Việc
quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2014 còn là điều kiện để Nhà nước điều tiết và quản lý các quan hệ
xã hội, đảm bảo các mục tiêu xây dựng và pháp triển xã hội vững mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh. Bên cạnh đó, việc quy định chế độ tài sản của vợ
1 Khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
2 Bộ tư pháp - Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình năm

2000, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2004, Tr. 148-149

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 5


SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

chồng còn là điều kiện cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong
gia đình; tránh những tranh chấp xảy ra có thể làm tổn thương đến tình cảm và
sự đoàn kết của các thành viên trong gia đình; ngoài ra còn là cở sở pháp lý
cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng
được nhanh chóng và chính xác.

1.1. Khái quát chung về tài sản riêng của vợ, chồng
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đã thừa nhận vợ và chồng có quyền
và nghĩa vụ ngang nhau trong quan hệ pháp lý về tài sản. Vì lẽ đó, việc quy
định chế độ tài sản của vợ chồng là vô cần thiết bao gồm việc xác định tài sản
chung hay riêng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân. Vấn đề tài sản chung
hay riêng còn là cở sở để giúp mỗi bên vợ, chồng xác định được phần quyền
mà mình phải có cũng như phần nghĩa vụ mà mình phải thực hiện. Luật Hôn
nhân gia đình năm 2014 đã kế thừa được điểm tiến bộ thể hiện một cách toàn
diện và sâu sắc trong nguyên tắc bình đẳng nam nữ mà công ước Cedaw đề
cập trên cở sở phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nước ta: “Quyền
như nhau của cả vợ và chồng đối với việc sở hữu, thu nhận kiểm soát, quản
lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là tài sản không phải trả tiền hay tài
sản có giá trị lớn”. Xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là nhiều tình
huồng xảy ra có thể luật không dự liệu trước được hoặc có dự liệu trước
nhưng không giải quyết triệt để mang đến nhiều hệ lụy. Bởi vậy, việc thừa
nhận vợ chồng có tài sản riêng cần được làm rõ ở cả khái niệm lẫn đặc điểm
cũng như cả ý nghĩa mà quy định đó mang lại.


1.1.1.Khái niệm về tài sản riêng
1.1.1.1. Khái niệm về tài sản
Tài sản là một khái niệm quen thuộc đối với bất kỳ ai, bởi đơn giản
tài sản là công cụ của đời sống con người. Phân loại tài sản có vai trò quan
trọng trong việc xác lập các quy định pháp luật và giải quyết các tranh chấp
pháp lý. Theo từ điển pháp luật thì tài sản là tất cả những gì có thể sở hữu
được với khía cạnh thì tài sản được hiểu theo nghĩa rộng hơn và đã có sự phân
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 6

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

biệt giữa tài sản là động sản và bất động sản, tài sản hữu hình và tài sản vô
hình.Theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”; Để hiểu rõ về khái
niệm tài sản qua cách phân tích sau:
 Vật: vật là một bộ phận vật chất có thể đáp ứng nhu cầu nào đó của
con người hoặc vật còn có tính cách là tài sản nằm trong sự chiếm hữu của
con người có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao dịch dân sự.
Chính vì lẽ đó “vật” trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã thay thế cho cụm từ
“vật có thật” trong Bộ luật Dân sự năm 1995 là hoàn toàn phù hợp và phản
ánh đầy đủ vấn đề khái niệm “vật” sẽ hiểu rộng hơn bao gồm vật đang có và
vật sẽ hình thành trong tương lai. Quy định này làm cho đối tượng của tài sản
trở nên phong phú, phù hợp với thực tiễn và sự phát triển kinh tế hiện nay.

 Tiền: Tiền là vật đúc bằng kim loại hay in bằng giấy, do Ngân hàng
nhà nước phát hành, dùng làm đơn vị tiền tệ. Tiền đại diện cho giá trị thực của
hàng hóa và phương tiện lưu thông trong giao lưu dân sự, có tư cách đại diện
cho chủ quyền của mỗi Quốc gia, mỗi chế độ nhà nước.
 Giấy tờ có giá: Giấy tờ được coi là tài sản chuẩn hóa về tên gọi cũng
như tính chất, các loại giấy tờ này trị giá bằng tiền và được đưa vào giao dịch
dân sự như: cổ phiếu, trái phiếu, tính phiếu, tấm séc…quy định như thế đã góp
phần làm cho định nghĩa tài sản trở nên phong phú và chính xác hơn về đối
tượng. Mặc khác nó cũng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường
và giai đoạn hội nhập nước ta hiện nay.
 Quyền tài sản: ngoài những vật, tiền, giấy tờ có giá thì quyền tài sản
cũng được coi là tài sản. Điều 181 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Đây là những quyền gắn liền
với tài sản mà khi thực hiện những quyền đó chủ sở hữu sẽ có được một tài
sản. Đó là quyền đòi nợ, quyền hưởng nhuận bút của tác giả văn học nghệ
thuật, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiêp…Bên
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 7

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu của một tài sản, quyền tài sản phải đáp ứng được
hai yêu cầu sau:
- Quyền tài sản trị giá được bằng tiền

- Có thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự
Bởi vai trò quan trọng của tài sản theo quy định pháp luật hay trên thực
tế đời sống. Nên tài sản có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau và vô cùng
phong phú, đa dạng, có thể tài sản là động sản hay bất động sản; tài sản hữu
hình hay vô hình… Tuy nhiên, mỗi loại tài sản lại có những đặc tính riêng
biệt, nên cần phải có quy chế pháp lý điều chỉnh riêng. Rõ ràng, ở mỗi góc độ
khác nhau, một sự vật hiện tượng khác nhau sẽ nhìn nhận và đánh giá một
cách khác nhau. Do đó, ở mỗi tiêu chí khác nhau, tài sản lại được phân thành
nhiều loại khác nhau. Theo quy định pháp luật, tại phần thứ hai các chương
X, XI của Bộ luật Dân sự năm 2005, tài sản được phân loại như sau:







Bất động sản: là tài sản không thể di dời được (đất đai, nhà ở)
Động sản: là những tài sản không phải là bất động sản
Hoa lợi: là những sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại
Lợi tức: là những khoản thu được từ việc khai thác tài sản
Vật chính: là vật độc lập có thể khai thác được theo tính năng
Vật phụ: là vật trực tiếp phục vụ cho công dụng của vật chính và là một

bộ phận của vật chính
• Bên cạnh đó tài sản còn được phân loại là: Vật chia được, vật không
chia được; vật tiêu hao, vật không tiêu hao; vật cùng loại, vật đặc định,
vật đồng bộ…
Từ những phân tích trên, theo quan điểm của người viết thì khái niệm tài
sản có thể hiểu một cách đơn giản đó là: tài sản là vật, lợi ích vật chất khác

thuộc quyền của chủ thể.

1.1.1.2. Khái niệm về tài sản riêng của vợ, chồng
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Vậy
Nhà nước sẽ làm gì để bảo vệ hôn nhân và gia đình? Có rất nhiều biện pháp
mà một biện pháp không thể thiếu được đó là việc ban hành các quy phạm
pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong gia đình xã hội chủ
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 8

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

nghĩa, vợ chồng cùng chăm lo, gánh vác việc gia đình; những nhu cầu về đầu
tư kinh doanh riêng hay giao kết hợp đồng với người thứ ba lại thường xuyên
xảy ra hơn. Do đó tài sản của vợ, chồng không chỉ để phục vụ cho các thành
viên trong gia đình mà còn đáp ứng nhu cầu cho bản thân mỗi cá nhân. Luật
Hôn nhân và gia đình trên cở sở xem xét mối liên hệ của tài sản và cuộc sống
vợ chồng từ thực tiễn đã quy định quyền có tài sản riêng của vợ chồng. Quy
định về quyền có tài sản riêng của vợ chồng bắt đầu hình thành từ Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986, trước đó Luật Hôn nhân gia đình năm 1959 không
thừa nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng 3, do vậy tất cả tài sản mà vợ
chồng có được trước và sau khi kết hôn đều là tài sản chung. Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia
đình năm 1986 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khẳng định chắc
chắn vợ chồng có quyền sở hữu đối với tài sản riêng. Theo quy định tại khoản

1 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 thì vợ chồng có
toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng của mình phù hợp
với quy định của pháp luật 4; Vợ, chồng có quyền tặng, cho, mua bán trao đổi
tài sản riêng của mình với bất kì chủ thể nào một cách độc lập và bình đẳng.
Tuy nhiên, trong pháp luật của Nhà nước ta, cho đến nay vẫn chưa có một
khái niệm về tài sản riêng của vợ, chồng được quy định trong một văn bản cụ
thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cho nên, chỉ có thể dựa vào quy
định của pháp luật về tài sản riêng để xác định tài sản riêng của vợ, chồng
cũng như quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ, chồng.
Theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tài sản
riêng của vợ, chồng được bao gồm:
- Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn
- Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân
- Tài sản có được do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
3 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: Vợ và chồng đều có quyền sở hữu,
hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với các tài sản có trước và sau khi cưới
4 Khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Vợ, chồng có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài
sản chung

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 9

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
- Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà


theo quy định thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng
- Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản

riêng của vợ, chồng
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã chỉ ra nguồn gốc
phát sinh tài sản riêng và dựa vào đó làm căn cứ xác định tài sản riêng của
mỗi bên vợ, chồng. Những tài sản được luật quy định sẽ là tài sản riêng của
vợ, chồng bao gồm: tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản mà mỗi
người được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; Tài sản
có được do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân; tài sản phục vụ nhu cầu
thiết yếu của gia đình (ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và các nhu
cầu thiết yếu khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia
đình) của vợ, chồng và tài sản khác 5 mà theo quy định của pháp luật thuộc sở
hữu riêng của vợ, chồng; hay là tài sản được hình thành từ tài sản riêng của
vợ, chồng đó có thể là: những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và những thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân sau khi chia tài sản
chung.
Bên cạnh đó, cần xem xét quy định của pháp luật đối với căn cứ xác
định tài sản riêng của vợ, chồng. Luật Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2014 quy định là: “Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn” bởi lẽ
trước khi kết hôn vợ và chồng là những chủ thể pháp lý độc lập với các quyền
và nghĩa vụ hoàn toàn không bị ràng buộc trong quan hệ hôn nhân gia đình.
Tài sản riêng đó có thể là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh của bản thân người tạo ra, cũng có thể do họ được thừa kế hay tặng cho
riêng. Ngoài ra pháp luật còn quy định những tài sản tạo ra “trong thời kỳ hôn
5 Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định tài sản riêng khác của vợ chồng bao gồm:
“1. Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
2. Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc

cơ quan có thẩm quyền khác.
3. Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi
người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng”

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 10

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

nhân” cũng có thể được coi là tài sản riêng của vợ, chồng; nếu tài sản đó họ
có được do tặng cho riêng, được thừa kế riêng, nhận phần của mình từ việc
chia tài sản chung, hoa lợi lợi tức nhận được do tài sản riêng của họ mang lại.
Chính vì vậy, những tài sản tạo ra trong “thời kỳ hôn nhân” mới được xác
định là tài sản chung hay riêng của vợ, chồng. Ở đây có thể hiểu “thời kỳ hôn
nhân” là thời gian tồn tại quan hệ vợ, chồng được tính từ ngày kết hôn đến
ngày chấm dứt hôn nhân6. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp vợ
chồng lấy nhau không đăng ký kết hôn, khi phát sinh mâu thuẫn thì đưa ra tòa
xin ly hôn và phân chia tài sản. Để giải quyết tình trạng hôn nhân thực tế còn
tồn động từ trước, khi xem xét hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ
chồng theo hôn nhân thực tế sẽ theo quy định ở Nghị quyết số 35/2000/NQ10
của Quốc hội ngày 09/6/2000; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTPTANDTC
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/12/2000.
Từ những phân tích trên, theo quan điểm của người viết thì khái niệm
tài sản riêng của vợ, chồng có thể được hiểu như sau: Tài sản riêng của vợ,
chồng là tài sản; mà mỗi bên vợ, chồng có quyền sở hữu đối với tài sản đó,

nếu tài sản đó có được trước thời kỳ hôn nhân hoặc trong thời kỳ hôn nhân do
được tặng cho riêng, thừa kế riêng, phần tài sản được nhận sau khi chia tài
sản chung hay tài sản theo quy định của pháp luật thuộc khối tài sản riêng
của mỗi bên vợ, chồng cũng như hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó.
Theo đó mỗi bên vợ, chồng có toàn quyền chiếm hữu. sử dụng, định đoạt
thuộc sở hữu riêng của mình.

1.1.2. Đặc điểm về tài sản riêng của vợ, chồng
Trong quá trình thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm
hoàn thiện pháp Luật Hôn nhân và gia đình cũng như xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn mình. Đảng và Nhà nước ta đã xác định tăng cường bình
đẳng giới, lồng ghép các vấn đề về giới với các chính sách, chương trình, dự
án phát triển là nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện về
tăng trưởng xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo bằng cho xã hội. Để thực hiện
6 Khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 11

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

điều đó pháp luật nói chung và Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng đã ban
hành những quy định thể hiện quyền bình đẳng của các chủ thể khi tham gia
vào quan hệ pháp luật đó. Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy
định vợ, chồng có quyền có sở hữu riêng về tài sản, đây là quy định thể hiện

sự bình đẳng giữa vợ chồng khi tham gia vào quan hệ hôn nhân ngoài việc có
tài sản chung thì họ vẫn có quyền có tài sản riêng để thực hiện các giao dịch
hay nhu cầu của bản thân đồng thời đảm bảo cuộc sống của cá nhân khi hôn
nhân tan vỡ; bên cạnh đó, vợ chồng vừa là chủ thể trong quan hệ hôn nhân và
gia đình, vừa là chủ thể trong quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của
mình đối với tài sản riêng tham gia vào các giao dịch dân sự. Cho nên, tài sản
riêng của vợ, chồng cũng có một số đặc điểm sau:
Một là, xuất phát tự vị trí, vai trò của gia đình đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội, Nhà nước bằng pháp luật quy định về tài sản riêng của vợ,
chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo đảm quyền
lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ, chồng. Theo đó, dù vợ
chồng có quyền sở hữu đối với tài sản chung hay tài sản riêng thì họ đều có
nghĩa vụ dùng tài sản riêng của mình đóng góp nhằm bảo đảm đời sống chung
của gia đình, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Do
vậy, khi mỗi bên vợ, chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối
với tài sản riêng của mình; nhưng nếu tài sản chung không đủ đáp ứng nhu
cầu của cuộc sống chung thì một bên vợ hoặc chồng có tài sản riêng phải dùng
tài sản đó đảm bảo cuộc sống chung của gia đình.
Hai là, tài sản riêng cả vợ chồng có nguồn gốc từ sở hữu tư nhân trong
luật dân sự (sở hữu của cá nhân với tài sản hợp pháp của mình bao gồm thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn,
hoa lợi, lợi tức…). Góp phần đảm bảo cho sự độc lập và bình đẳng của vợ,
chồng trong quan hệ giữa họ với nhau và với người thứ ba. Sau khi kết hôn,
vợ hoặc chồng có tài sản riêng vẫn có tư cách độc lập trong xã hội, tự do tham
gia vào xác lập giao dịch dân sự.
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 12

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh



Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Ba là, tài sản riêng của vợ, chồng cũng mang lại nét đặc thù riêng biệt
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Vợ, chồng với tư cách
là chủ thể của khối tài sản riêng có quyền tự mình định đoạt khối tài sản riêng
mà không phụ thuộc vào ý chí của người khác 7. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng bị hạn chế. Theo
quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014
thì vợ chồng là chủ sở hữu tài sản riêng của mình nhưng khi hoa lợi, lợi tức
thu được từ tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng là nguồn
sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng của vợ chồng trong
trường hợp liên quan đến tài sản này cần thiết phải có thỏa thuận của hai vợ
chồng. Như vậy quyền tự định đoạt tài sản riêng của vợ chồng trong trường
hợp này đã bị hạn chế ở một số trường hợp theo quy định của pháp luật.

1.1.3. Ý nghĩa của quy định pháp luật về tài sản riêng của vợ, chồng
Đối với pháp luật của nước ta, việc quy định tài sản riêng của vợ, chồng
có ý nghĩa sau:
Trước tiên, việc quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng nhằm
mục đích xóa bỏ sự bất bình đẳng về mặt tài sản giữa vợ và chồng đồng thời
đáp ứng được mong muốn của hàng triệu phụ nữ Việt Nam là muốn có địa vị
bình đẳng với người chồng trong gia đình. Điều này hoàn toàn phù hợp với
Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là mong muốn
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật 8. Phù hợp với quy định của Bộ luật
Dân sự năm 2005 cũng thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng. Điều
212 Bộ luật Dân sự năm 2005 ghi nhận tài sản thuộc sở hữu tư nhân bao gồm:
“Thu nhập hợp pháp của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản

xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân”. Nhờ
vậy trong quan hệ hôn nhân người vợ và người chồng có thể độc lập tham gia
vào các quan hệ xã hội bằng cách dùng tài sản thuộc sở hữu riêng phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác
7 Điều 184 Bộ luật Dân sự năm 2005
8 Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 13

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

phù hợp với quy định của pháp9; họ có thể chủ động tham gia vào các giao
dịch dân sự và kinh tế để đảm bảo thỏa mãn nhu cầu vật chất của các thành
viên trong gia đình cũng như của cá nhân người vợ, người chồng. Ngoài ra,
việc quy định trên còn tạo điều kiện để cho vợ, chồng tự do tham gia vào các
hoạt động kinh doanh riêng nhưng vẫn đảm bảo sự bền chặt của hai người
bằng quan hệ hôn nhân, ổn định hạnh phúc gia đình. Gia đình tồn tại thì xã hội
mới phát triển được, theo triết học Mác-Lênin thì vật chất quyết định ý thức vì
thế nếu nền kinh tế không phát triển được, dẫn đến gia đình sẽ không hạnh
phúc cũng như xã hội sẽ không phồn thịnh được. Bởi vậy, khi mỗi công dân
tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều của cải, xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Quy định này đã tạo điều kiện tạo cho
người phụ nữ có chổ đứng ngang hàng với nam giới trong việc đóng góp vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Thứ hai, do Việt Nam đang trên đà phát triển đã chịu phần nào sự ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường và lối sống Phương Tây. Cho nên hiện nay
tình trạng ly hôn ở nước ta xảy ra ngày càng nhiều. Chính vì vậy, nhiều quan
hệ hôn nhân không được thiết lập trên yếu tố tình cảm chân thành mà được
dựa trên yếu tố vật chất hôn nhân thực dụng - kết hôn vì của cải của nhau. Nên
việc quy định tài sản riêng của vợ, chồng có ý nghĩa quan trọng trong việc
đảm bảo được đời sống của mỗi bên vợ, chồng sau khi hôn nhân tan rã.
Thứ ba, việc quy định tài sản riêng còn nhằm bảo vệ lợi ích với người
thứ ba khi có quan hệ tài sản với một bên vợ hoặc chồng. Vì thế, trên cơ sở
quy định của pháp luật, người thứ ba sẽ xác định được quyền hạn của người
vợ, người chồng trong việc thực hiện xác lập các giao dịch làm cho quyền lợi
của họ được bảo đảm hơn.
Thứ tư, trong thực tế để đáp ứng quyền lợi của gia đình, nghĩa vụ
nuôi dạy, chăm sóc, giáo dục con cái...trong suốt thời kì hôn nhân. Người vợ,
người chồng phải ký rất nhiều hợp đồng với những người khác liên quan đến
9 Khoản 1 Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2005

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 14

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

tài sản riêng của vợ, chồng. Do vậy, vợ, chồng sẽ dùng phần tài sản riêng của
mình để thỏa mãn những nhu cầu riêng, thực hiện những nghĩa vụ dân sự
riêng mà không ảnh hưởng đến chồng hoặc vợ mình. Xét ở phương diện này

quy, định về việc vợ, chồng có quyền có tài sản riêng không những không làm
mất đi tính chất cộng đồng trong quan hệ hôn nhân; trái lại, nó còn góp phần
củng cố và ổn định quan hệ hôn nhân và gia đình. Ghi nhận quyền có tài sản
riêng của vợ chồng cũng thể hiện tính linh hoạt và mềm dẻo của pháp luật hôn
nhân và gia đình khi cho phép vợ, chồng tự quyết định số phận pháp lý của tài
sản riêng. Vợ, chồng có quyền nhập hay không nhập tài sản riêng vào khối tài
sản chung. Như vậy, bình thường cuộc sống của vợ chồng hòa thuận, hạnh
phúc thì vợ chồng thường không phân biệt tài sản chung, tài sản riêng. Trong
trường hợp cần thiết phải phân định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng,
quy định về căn cứ xác định của các loại tài sản của vợ chồng mới thực sự có
ý nghĩa khi giải quyết các tranh chấp. Nhiều tranh chấp sẽ phát sinh giữa vợ,
chồng liên quan đến quyền lợi của những người khác theo từng trường hợp cụ
thể. Do đó, quy định tài sản riêng của vợ, chồng là căn cứ để giải quyết các
tranh chấp về tài sản chung hay tài sản riêng giữa vợ và chồng.
Như vậy, việc quy định tài sản riêng của vợ, chồng có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với hệ thống pháp luật nói riêng và đối với sự phát triển của xã
hội nói chung; góp phần rất lớn đảm bảo lợi ích của cá nhân bên cạnh lợi ích
của gia đình. Bên cạnh lợi ích của gia đình thì lợi ích của cộng đồng xã hội
cũng được đảm bảo và duy trì.

1.2. Khái quát chung về hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ,
chồng
1.2.1. Khái niệm về sự hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ,
chồng
1.2.1.1. Khái niệm về quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 15

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh



Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Quyền định đoạt là một quyền năng quan trọng trong nội dung quyền
sở hữu. Theo quy định tại Điều 195 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Quyền
định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc trừ bỏ quyền sở
hữu đó”, quyền định đoạt là một trong ba quyền năng quan trọng của quyền
sở hữu10, quyền định đoạt tài sản được hiểu là quyền quyết định số phận pháp
lý của tài sản; nói như vậy, vì có quyền định đoạt tài sản thì có thể thực hiện
các hành vi để quyết định sự tồn tại của vật. Tuy nhiên, việc thực hiện các
hành vi này phải nằm trong khuôn khổ pháp luật cho phép; quyền này được
thể hiện ở hai gốc độ sau:
Thứ nhất, là định đoạt về số phận thực tế của tài sản, tức là chủ
thể có quyền định đoạt tài sản làm cho nó không còn trên thực tế nữa như:
Tiêu hủy, dùng hết, hủy bỏ, từ bỏ quyền sở hữu (vứt bỏ hoặc tiêu hủy tài sản).
Bằng hành vi của mình, các chủ thể tác động trực tiếp lên tài sản, làm cho tài
sản không còn tồn tại nữa. Như đã phân tích ở trên, việc thực hiện hành vi này
phải nằm trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Thứ hai, là định đọat về số phận pháp lý của vật, là việc chuyển
giao quyền sở hữu đối với tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Thông
thường việc định đoạt pháp lý của tài sản phải thông qua các giao dịch dân sự
phù hợp với ý chí của chủ sở hữu. Các hình thức định đoạt số phận pháp lý rất
đa dạng, có thể định đoạt đối với tài sản như bán, trao đổi, tặng cho, chuyển
nhượng, góp vốn kinh doanh...
Cho nên, chủ thể có quyền định đoạt tài sản thông thường là chính chủ
sở hữu, nhưng trong một vài trường hợp các chủ thể khác cũng có quyền định
đoạt tài sản khi được chủ sở hữu ủy quyền 11. Việc định đoạt tài sản của chủ
thể khác không phải là chủ sở hữu của tài sản đó thì phải tuân theo những điều

kiện quy định tại Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2005 là: “Việc định đoạt tài
sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của
pháp luật. Trong trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt
10 Điều 173 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm

hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật
11 Điều 198 Bộ luật Dân sự năm 2005

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 16

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

tài sản thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó”. Như vậy quyền định đoạt tài
sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền định đoạt là một
quyền năng của chủ thể sở hữu để quyết định về “số phận” của vật; chủ sở
hữu có quyền chuyển giao quyền từ bỏ quyền sở hữu đó.
Tuy nhiên, vấn đề quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng chỉ có
quy định về quyền định đoạt và các căn cứ thực hiện quyền đó, nhưng vẫn
chưa có quy định nào làm rõ về khái niệm định đoạt tài sản riêng của vợ
chồng theo pháp luật hiện hành. Vì vậy, qua các phân tích, đánh giá và tổng
hợp ở trên thì theo người viết quyền định đoạt tài sản riêng có thể hiểu là:
Quyền định đoạt tài sản riêng của vợ chồng là việc vợ, chồng quyết định số
phận tài sản riêng thuộc sở hữu của mình mà không cần sự thỏa thuận, đồng
ý của người còn lại.


1.2.1.2. Khái niệm về hạn chế định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, thì trong
quan hệ hôn nhân vợ chồng đều có quyền sở hữu đối với tài sản, tài sản đó có
thể là tài sản chung hoặc tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng. Đối với tài sản
riêng của vợ, chồng, về nguyên tắc, vợ chồng có quyền định đoạt đối với tài
sản riêng; vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản
chung; vợ chồng có quyền quản lý tài sản riêng của mình để tham gia, trong
trường họp vợ, chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không
ủy quyền cho người khác quản lý thì khi đó bên kia có quyền quản lý đó; tài
sản riêng của vợ, chồng được đảm bảo thanh toán cho nghĩa vụ về tài sản
riêng của vợ chồng12.
Tuy nhiên, do tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân cho nên việc
định đoạt tài sản riêng của vợ chồng có thể bị hạn chế, đó là trường hợp tài
sản riêng mà hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình
hoặc giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng, thì việc định
đoạt tài sản riêng đó phải có sự đồng ý, thỏa thuận của chồng, vợ 13; Nếu
12 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
13 Khoản 4 Điều 44 và Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 17

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


không có sự đồng ý của người còn lại trong giao dịch liên quan đến tài sản có
hoa lợi, lợi tức là nguồn sống duy nhất hay đến nhà ở duy nhất của cả gia đình
thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu theo quy định của pháp luật 14. Điều này có nghĩa
là người có tài sản riêng bị hạn chế quyền định đoạt tài sản đó: vợ chồng
không có quyền đơn phương định đoạt tài sản riêng của mình nếu điều đó dẫn
đến hậu quả ảnh hưởng đến nguồn sống duy nhất cũng như là nơi ở duy nhất
của gia đình; quy định này mang tính nhân đạo và bảo vệ các giá trị đạo đức
truyền thống trong gia đình, là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của vợ chồng với
gia đình. Đây là một ngoại lệ của quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối
với tài sản riêng của vợ hoặc chung.
Trên cơ sở phân tích tổng kết từ những quy định của pháp luật về tài
sản riêng cũng như về quyền định đoạt tài sản riêng đã đề cập, theo quan điểm
của người viết khái niệm về hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ,
chồng có thể hiểu là: tài sản riêng phát sinh hoa lợi, lợi tức là nguồn sống duy
nhất của gia đình hay giao dịch liên quan đền nhà là nơi ở duy nhất của gia
đình, là những trường hợp do pháp luật quy định; Trong những trường hợp
đó quyền định đoạt tài sản riêng của vợ chồng sẽ bị hạn chế khi hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình; hay việc
xác lập, thực hiện, chăm dứt các giao dịch liên quan đến nhà ở là nơi ở duy
nhất của gia đình, thì vợ (chồng) cần phải có sự đồng ý của người còn lại.

1.2.2. Đặc điểm của việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của
vợ, chồng
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: đối với tài
sản riêng của mình thì vợ, chồng được quyền định đoạt tài sản đó 15. Quyền
định đoạt đó thể hiện ở chỗ vợ, chồng có thể tự do chuyển giao quyền sở hữu
tài sản riêng của mình cho chủ thể khác thông qua hợp đồng hoặc thông qua
giao dịch một bên; chủ sở hữu còn có thể bằng ý chí, hành vi của mình chấm
14 Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005
15 Khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 18

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

dứt quyền sở hữu của mình đối với một tài sản nhất định thuộc sở hữu riêng
của vợ, chồng. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền định đoạt của chủ sở hữu
đối với tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tôn trọng quyền tự do của cá nhân.
Quyền tự do định đoạt có thể được thực hiện mà không cần đến sự đồng ý của
một chủ thể khác. Tuy nhiên, quyền tự do của cá nhân là cái cá biệt, cái đơn
nhất của các cá nhân, nhưng cái cá biệt không thể tồn tại bên ngoài cái chung
được; cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng. Vì vậy,
pháp Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trong quan hệ hôn nhân
vợ, chồng được tự do định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình; nhưng
quyền tự do định đoạt này lại không luôn được thực hiện nếu quyền này ảnh
hưởng đến cuộc sống và lợi ích chung của gia đình. Vì thế quyền tự do định
đoạt trong một số trường hợp sẽ bị hạn chế, chủ sở hữu không thể làm tất cả
những gì mình muốn một cách tự do nữa mà lúc này bị ràng buộc bởi những
quy định của pháp luật cũng như trong mối quan hệ với gia đình. Cho nên,
quy định về hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 có những đặc điểm:
Một là, pháp luật nước ta một mặt luôn tôn trọng quyền tự do định
đoạt tài sản riêng của vợ, chồng; mặt khác luôn đặt quyền đó trong một khuôn
khổ nhất định, nhằm tạo ra một khung hành lang pháp lý để xác định rõ người

có quyền sở hữu tài sản riêng có quyền gì, những quyền đó bị hạn chế trong
những trường hợp nào. Có thể nói việc pháp luật vừa ghi nhận vừa hạn chế
quyền định đoạt tài sản riêng của chủ sở hữu là hai phạm trù đối lập nhau
những cũng tồn tại thống nhất với nhau: Đối lập ở chỗ một bên là quy định và
bảo đảm quyền tự do định đoạt tài sản riêng được thực hiện, một bên lại hạn
chế thực hiện quyền tự do định đoạt ấy; chúng thống nhất ở chổ quy định về
quyền tự do và hạn chế định đoạt đều dựa vào bản chất của Nhà nước ta là
nhằm bảo vệ quyền tự do của cá nhân, thể hiện sự bình đẳng trong cộng đồng
xã hội. Vì vậy, dù cho pháp luật quy định vợ chồng được quyền tự do định
đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng hay hạn chế quyền định đoạt tài sản đó thì đều
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 19

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo đời sống của các thành viên trong gia
đình, mang lại lợi ích cho gia đình và xã hội.
Cũng giống như quyền định đoạt tài sản riêng được quy định trong
Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành, thì quy định về hạn chế quyền định đoạt
tài sản riêng có tài sản riêng thuộc sở hữu duy nhất của người có tài sản đó,
nếu không phải là chủ sở hữu duy nhất của tài sản đó thì không nằm trong
phạm vi điều chỉnh của điều luật. Chủ sở hữu phải có năng lực pháp luật và là
chủ thể trong quan hệ Luật Hôn nhân và gia đình.
Hai là, quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ bị hạn chế trong một số trường hợp

nhất định. Khi một bên vợ hoặc chồng thực hiện các giao dịch liên quan đến
tài sản riêng thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật thì quy định về hạn chế
quyền định đoạt tài sản riêng mới được áp dụng. Để trở thành đối tượng điều
chỉnh của điều luật thì tài sản riêng của chủ sở hữu phải là những tài sản mà
có hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình; hay tài sản là
nhà là nơi ở duy nhất của gia đình. Những tài sản này vợ, chồng phải là tài sản
riêng của một bên vợ hoặc chồng và đã được đưa vào sử dụng chung. Khi một
bên thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến các tài sản này thì không có một
tài sản nào khác để thay thế được, khi đó vợ, chồng là chủ sở hữu tài sản riêng
không thể tự mình quyết định số phận của tài sản đó được mà cần có sự đồng
ý của người còn lại.
Ba là, để những tài sản riêng có hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống
duy nhất của gia đình; hay tài sản là nhà là nơi ở duy nhất của gia đình có thể
tham gia vào giao dịch dân sự với người thứ ba, hay chủ sở hữu thực hiện các
giao dịch liên quan đến sự tồn tại của tài sản thì cần phải có sự đồng ý của vợ,
chồng. Quy định về hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng sẽ bị
gỡ bỏ nếu một bên vợ chồng đồng ý với ý kiến đã nêu của chủ sở hữu tài sản
riêng đối với số phận của tài sản. Sự đồng ý đó nếu pháp luật buộc phải tuân
theo hình thức nhất định thì phải tuân theo quy định pháp luật. Trong trường
GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 20

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

hợp chưa có sự đồng ý của một bên vợ (chồng) mà chủ sở hữu thực hiện gaio

dịch với người thứ ba liên quan đến tài sản đó thì giao dịch đó sẽ bị Tòa án
tuyên là vô hiệu theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005 16.

1.2.3. Lược sử quá trình phát triển của việc ghi nhận hạn chế
quyền định đoạt tài sản riêng trong pháp luật hôn nhân gia đình nước ta
1.2.3.1. Luật Hôn nhân gia đình năm 1959
Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội Khóa I
Kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 32/12/1959 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố
ngày 01/01/1960. Điều 24 Hiến pháp quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình...Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia
đình”. Từ quy định mang tính nguyên tắc đó, các giải pháp chi tiết của vấn đề
hoàn thiện chế độ hôn nhân và gia đình đã được xây dựng và ghi nhận tại Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua vào
ngày 29/12/1959 và được công bố ngày 13/01/1960, một trong những đạo luật
được ban hành sớm nhất giữ vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam17.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 là công cụ pháp lý của Nhà nước
ta được xây dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ bản là: xóa bỏ những tàn
tích của chế độ phong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới xã
hội chủ nghĩa: “hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó mọi người đoàn
kết thương yêu nhua giúp đỡ nhau tiến bộ”18.
Ở miền Nam, sau năm 1945, nhà nước chế độ cũ cũng đã ban hành một số
văn bản điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình:
-

Luật Gia đình ngày 02/01/1959
Sắc lệnh 15/64 ngày 23/07/1964


16 Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
17 Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, năm 2007, Tr.118-116
18 Điều 1 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 21

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
-

Bộ dân luật ngày 2012/1972

Những văn bản pháp luật mà quy định bãi bỏ chế độ đa thê, song quan hệ
vợ chồng vẫn là sự bất bình đẳng, người vợ phụ thuộc vào người chồng.
Trong gia đình vai trò của người chồng là quyết định. Về tài sản, người chồng
là người quản lý tài sản chung và riêng của hai vợ chồng: “Người chồng quản
trị tài sản cộng đồng và tài sản riêng của hai vợ chồng. Nếu người chồng
không có năng lực pháp lý, thất tung, đi xa lâu ngày hay bị cản trở vì một
duyên cớ chánh đáng nào khác người vợ sẽ thay thế trong quyền quản trị” 19.
Về quan hệ vợ, chồng: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý
trọng, chăm sóc lẫn nhau, v.v..., vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau.

Do hầu hết các tư liệu sản xuất đều thược sở hữu Nhà nước hoặc được tập thể
hóa, sở hữu tư nhân chỉ bao gồm các tư liệu tiêu dùng, vợ chồng hầu như chỉ
có các tài sản phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người vợ trong quan hệ gia đình về tài sản, trong bối cảnh đấu tranh xóa bỏ
tàn dư của chế độ phong kiến. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định:
“vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài
sản có trước và sau khi cưới”20; Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 không
quy định về việc vợ, chồng có quyền có tài sản riêng mà tất cả tài sản sản có
trước và sau khi kết hôn đều là tài sản chung. Như vậy, Luật Hôn nhân và gia
đình 1959 chỉ quy định một chế định về tài sản của vợ, chồng đó là tài sản
chung hợp nhất. Điều đó nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo
vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình. Khi hôn nhân được xác lập,
không kể tài sản có được từ nguồn gốc nào đều được coi là tài sản chung của
vợ chồng và từ đó mỗi bên vợ hoặc chồng không còn tài sản thuộc sở hữu
riêng.

1.2.3.2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
Sau ngày 30/04/1975, đất nước ta đã hoàn toàn giải phóng, Quốc
19 Điều 153 Bộ Dân luật 1972 của Việt Nam cộng hòa
20 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 22

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014


hội khóa 11 trong kỳ họp thứ nhất tháng 7 năm 1976 đã quyết định đặt tên
nước là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với nhà nước thống
nhất nên đòi hỏi pháp luật phải có sự thống nhất, ngày 25/03/1977, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76-CP quy định về việc thực hiện thống
nhất pháp luật trên toàn quốc. Ngày 18/12/1980 Quốc hội khóa VI đã chính
thức thông qua Hiến pháp mới làm nền tảng cho bước phát triển mới của đất
nước.
Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định: Phụ nữ và nam giới có
quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình.
Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ
và nam giới việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau; Gia đình là tế bào
của xã hội; Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc
tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Trên cơ sở kế
thừa các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, nhưng có sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và yêu cầu đặt ra
từ xã hội. Ngày 29/12/1986 Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986 để thay thế luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 khẳng định: Gia đình là tế bào của
xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Trong
gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chồng bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau tiến
bộ, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, cùng nhau nuôi dạy con cái thành những công dân có ích cho xã hội.
Đối với quan hệ vợ chồng, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 khẳng định:
“Vợ, chồng có nghĩa vụ chung thủy với nhau, thương yêu, quý trọng, chăm
sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, cùng nhau thực hiện sinh đẻ có kế hoạch...” 21. Điều
16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã thừa nhận quyền có tài sản riêng
của vợ, chồng: “Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài
sản được thừa kế riêng hoặc được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân thì
người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản riêng

21 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 23

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

của vợ chông”22. Như vậy Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã ghi nhận
quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng bên cạnh quyền sở hữu
chung của vợ, chồng. Tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng bao gồm:
Những tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế
riêng hoặc được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân. Xét về bản chất những
loại tài sản này phải do lao động của vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.
Vì vậy, nó thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng. Vợ, chồng có quyền
độc lập trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình,
không phụ thuộc vào người kia. Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở
hữu của nhau23; cần thừa nhận rằng, tài sản riêng của vợ, chồng trước hết là
để giúp cho vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản mà không phụ thuộc
và ảnh hưởng đến kinh tế chung của gia đình. Song trong cuộc sống chung,
vợ, chồng có nghĩa vụ giúp đỡ, chăm sóc lẫn nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi
dạy các con trưởng thành. Điều đó đòi hỏi vợ, chồng phải cùng chung công
sức, ý chí, tình cảm để thực hiện đầy đủ và tốt nhất trách nhiệm của mình
cũng đồng thời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tinh thần của chính mình.
Do đó trong trường hợp tài sản chung không đủ thì vợ, chồng có tài sản riêng
có nghĩa vụ đóng góp tài sản của mình vào khối tài sản chung nhằm đáp ứng

nhu cầu thiết yếu của gia đình. Việc đóng góp tài sản riêng của mỗi bên vợ,
chồng vào đời sống chung của gia đình khi gặp khó khăn thường xuất phát từ
ý thức tự nguyện, tự giác trên cơ sở đạo đức, do tình cảm yêu thương gắn bó
lẫn nhau giũa cha mẹ với con cái và giữa vợ chồng với nhau. Tuy nhiên không
phải lúc nào vợ, chồng cũng đều gắn bó, tự nguyện gánh chịu trách nhiệm đó
bằng tài sản riêng của mình. Điều đó đòi hỏi về đạo đức và cả về nghĩa vụ
pháp lý. Vì thế, tuy là Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định về
quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng nhưng lại chưa quy định rõ ràng
vợ, chồng có tài sản riêng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng của mình để đảm
bảo những nhu cầu thiết yếu của gia đình và thực hiện những nghĩa vụ chung
22 Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
23 Nguyễn Phương Lan, Về Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1896, tạp chí Luật học số

10/2002, Tr. 57-61

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang

Trang 24

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


Tài sản riêng và việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng theo quy định
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

về tài sản trong trường hợp tài sản chung không đủ đáp ứng. Vì vậy Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1986 chỉ mới bước đầu quy định về quyền sở hữu tài
sản riêng của vợ, chồng nhưng những quy định về tài sản liên quan đến nghĩa
vụ, cùng như trách nhiệm về tài sản riêng đối với cuộc sống chung của gia
đình vẫn chưa đề cập đến. Cho nên vẫn chưa có ghi nhận về quy định hạn chế

định đoạt tài sản riêng của vợ chồng nhằm mục đích ràng buộc trách nhiệm
của vợ, chồng đối với đời sống chung của gia đình.

1.2.3.3. Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 sữa đổi, bổ sung năm
2010
Xuất phát từ vị trí của gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân
yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách, xây dựng con người mới, đưa con người tham gia tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và để khẩn trương nghiên cứu
sữa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình nhằm mục tiêu
xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, bình đẳng và hạnh phúc, Chính
phủ đã có chỉ thị về việc tổng kết việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986, trình Quốc hội, xem xét, quyết định sữa đổi luật này 24. Ngày
09/06/2000, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Hôn nhân và gia đình mới
thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 xác định nhiệm vụ: Góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế
độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng
xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thông đạo đức tốt đẹp
của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, bền vững. Hiến pháp 1992 Hiến pháp này đã được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 11 nhất trí thông
qua trong phiên họp ngày 15 tháng 4 năm 1992, tại Điều 57 của Hiến pháp
quy định: Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.
24 Chỉ thị số 482-TTg ngày 08/09/194 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổng kết 08 năm Luật

Hôn nhân và gia đình 1986

GVHD: ThS. Huỳnh Thị Trúc Giang


Trang 25

SVTH: Huỳnh Ngọc Hạnh


×