ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THỦY
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THỦY
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 603830
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS.TRẦN ANH TUẤN
Hà Nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thủy
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM 10
1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 10
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự 10
1.1.2. Phân loại các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự 13
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIÁI QUYẾT CÁC
VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM 16
1.2.1. Khái niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm 16
1.2.2. Đặc điểm của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm 18
1.2.3. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm 22
1.3. CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN
CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM 24
Chương 2 CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN
CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM 29
2.1. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI 29
2.1.1. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp buộc thực hiện
trước một phần nghĩa vụ 29
2.1.2. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp đối với tài sản đang
tranh chấp 33
2.1.3. Các quy định về điều kiện áp dụng biện pháp phong toả tài khoản,
tài sản 41
2.1.4. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng các biện pháp cấm hoặc buộc
thực hiện những hành vi nhất định 45
2.1.5. Về cơ sở xác định điều kiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
khác 49
2.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ THỦ TỤC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY
BỎ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI 51
2.2.1. Cơ sở pháp lý về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 51
2.2.2. Cơ sở pháp lý về thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời 57
2.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ KHI ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI 59
2.3.1. Cơ sở pháp lý về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm 59
2.3.2. Cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm bồi thường trong việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 61
2.3.3. Cơ sở pháp lý để thực hiện quyền khiếu nại, kiến nghị đối với
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời 64
Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP
SƠ THẨM VÀ KIẾN NGHỊ 68
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ
THẨM 68
3.1.1. Về kết quả đạt được từ thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm 68
3.1.2. Về những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm 77
3.2. KIẾN NGHỊ VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ
THẨM 89
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về áp dụng các BPKCTT 89
3.2.2. Kiến nghị về các biện pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BPKCTT: Biện pháp khẩn cấp tạm thời
ADBPKCTT: Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
HTND: Hội thẩm nhân dân
HĐXX: Hội đồng xét xử
BPBĐ: Biện pháp bảo đảm
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
PLTTDS: Pháp luật tố tụng dân sự
VKS: Viện kiểm sát
ADPL: Áp dụng pháp luật
BLDS: Bộ luật dân sự
QPPL: Quy phạm pháp luật
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo vệ các quyền con người là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
trong quá trình xây dựng và ban hành pháp luật. Trong các quyền con người,
các quyền về dân sự có vai trò quan trọng, vì đây là những quyền cơ bản nhất,
có phạm vi rộng nhất, các quyền về dân sự được bảo đảm thì mới có cơ sở để
thực hiện các quyền về chính trị, kinh tế, tôn giáo khác…Vì vậy, mặc dù có sự
quy định khác nhau về các quyền dân sự và cơ chế bảo vệ đối với các quyền đó
cũng không giống nhau trong hệ thống pháp luật của mỗi nước, nhưng có thể
nhận thấy điểm chung trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới,
là đều ghi nhận và bảo vệ các quyền dân sự (một trong những hình thức quyền
con người) cho công dân của quốc gia mình.
Tại Điều 9 Bộ luật Dân sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy đinh : "Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Khi quyền dân sự của một chủ thể
bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyển tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền can thiệp, bảo vệ ”.
Theo dòng thời gian, các quyền dân sự của con người ngày càng
được mở rộng, theo đó cơ chế để bảo đảm các quyền này được thực thi trên
thực tế cũng là một yêu cầu đối với các cơ quan chức năng. Nhất là trong
giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế xã
hội, các tranh chấp phát sinh ngày càng đa dạng, phức tạp do đó đòi hỏi
Tòa án phải giải quyết các vụ án dân sự kịp thời, nhanh chóng nhằm ổn
định các quan hệ xã hội và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Để đáp ứng mục tiêu này, trong những trường hợp cần thiết,
Tòa án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự. Với việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án
có thể kịp thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ,
2
bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục hoặc
đảm bảo thi hành án.
Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Chương VIII
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS) từ Điều 99 đến Điều 126 BLTTDS.
Đây là cơ sở pháp lý để Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
(BPKCTT) được nhanh chóng, chính xác, là phương tiện để cá nhân, cơ quan,
tổ chức bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trong thực
tiễn áp dụng các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời còn bộc lộ một số
hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được thực tiễn xét xử mà nguyên nhân của nó
xuất phát từ sự quy định còn những điểm bất hợp lý của pháp luật. Do đó, đã
gây khó khăn cho Tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và
trong một số trường hợp đã làm thiệt hại đến quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Nhận thức được những hạn chế, bất cập trong các quy định của
BLTTDS, từ thực tiễn áp dụng pháp luật của Toà án, theo sự phân công của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với các
cơ quan hữu quan xây dựng Dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS. Trong quá trình soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
BLTTDS đã có nhiều ý kiến đóng góp có giá trị về các quy định của BLTTDS
nói chung và các quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời nói riêng. Tuy
nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS được Quốc hội thông
qua ngày 29 tháng 3 năm 2011 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2012 hầu hết vẫn giữ nguyên các quy định cũ còn tồn tại nhiều bất cập,
không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trước thực trạng đó, việc nghiên
cứu đề tài "Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết vụ án
dân sự tại Toà án cấp sơ thẩm ” là một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa.
Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và nhà nước ta đang chủ
trương đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, theo hướng xây dựng Toà án là
trung tâm trong hệ thống tư pháp, thì hoạt động áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời do Toà án áp dụng càng được coi trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
3
trên của tác giả sẽ góp phần đáp ứng một trong các nhiệm vụ của Công cuộc
cải cách tư pháp được đề ra trong Nghị quyết 08 ngày 02 tháng 01 năm 2002 và
Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị, Ban chấp hành
trung ương đảng khoá XI về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: "Tiếp
tục hoàn thiện thủ tục TTDS bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh
bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là một chế
định quan trọng, xuất phát từ vai trò và ý nghĩa thực tiễn của nó nên nhận được
sự quan tâm, đóng góp ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và
những người làm công tác thực tiễn Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều
công trình nghiên cứu đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau dưới các mức độ
khác nhau về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Có thể điểm
qua một số công trình nghiên cứu và các bài viết có liên quan đến biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự như sau:
Tác giả Trần Anh Tuấn – Tiến sĩ luật học (giảng viên trường đại học
luật Hà Nội) đã có một số bài viết nghiên cứu về vấn đề này gồm: "Chế định
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự’’ đăng trên Tạp chí Luật
học số đặc san Góp ý Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và bài viết
"Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong BLTTDS và thực tiễn áp dụng ", Tạp chí
dân chủ và pháp luật số 12 (165) năm 2005. Hai công trình nghiên cứu này đã
xây dựng nền tảng lý luận căn bản về biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tiếp theo
đó, những vấn đề lý luận về biện pháp khẩn cấp tạm thời được tác giả tiếp tục
phát triển và hoàn thiện trong đề tài khoa học cấp trường "Hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách
tư pháp", bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2010. Ngoài ra, còn có một số
bài viết có đóng góp về vấn đề này như bài viết "Các biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án" của tác
giả Nguyễn Bích Thảo đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9 năm
4
2008; bài viết "Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh
chấp về kinh doanh thương mại tại Tòa án, những vấn đề đặt ra cho việc
hoàn thiện BLTTDS’’ của tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương đăng trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 3 năm 2010 v.v.
Tác giả Trần Phương Thảo có 05 bài viết gồm: "Chế định biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong TTDS " đăng trên Tạp chí luật học số đặc san về
BLTTDS năm 2005; "Bàn về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời không đúng quy định tại Điều 101 BLTTDS " đăng trên Tạp chí Toà án
nhân dân số 19 năm 2009 ; "Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong BLTTDS Việt Nam " đăng trên Tạp chí Luật học số 4 năm 2010; "Một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong Bộ luật TTDS " đăng trên Tạp chí kiểm sát số 24 năm 2010
và bài viết : "Bàn về các Biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong
Bộ luật TTDS" đăng trên Tạp chí Luật học số 3 năm 2011. Sau khi công bố 05
công trình nghiên cứu nêu trên, tháng 5/2012 tác giả Trần Phương Thảo tiếp
tục bảo vệ thành công luận án tiến sỹ luật học về "Biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng dân sự ".
Tuy nhiên, trong các công trình này, các tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp khẩn cấp tạm thời nói
chung trong tố tụng dân sự mà không nghiên cứu chuyên sâu về việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án cấp
sơ thẩm với tư cách là hoạt động chuyên biệt của Toà án. Vì vậy, đề tài "Áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Toà
án cấp sơ thẩm ” là đề tài đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời ở Tòa án cấp sơ thẩm đối với các vụ án dân sự.
5
3. Mục đích, và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm;
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết các vụ án dân sự và những vướng mắc trong quá trình thực
hiện các quy định đó tại Tòa án cấp sơ thẩm.
- Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án
cấp sơ thẩm.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài phải
làm rõ những nhiệm vụ cụ thể sau :
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án;
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam
hiện hành về điều kiện, thủ tục và cơ chế bảo đảm trong việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự và việc thực hiện
các quy định này tại Tòa án cấp sơ thẩm;
- Đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án
cấp sơ thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại tòa án; các
quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn
6
cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm; thực
tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm trong những năm gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu:
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự
tại Tòa án cấp sơ thẩm là vấn đề chứa đựng các nội dung khác nhau về cả lý
luận và thực tiễn. Do đó, để nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm cộng với việc giới hạn về số trang và thời gian nghiên cứu, nên trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu những vấn
đề chủ yếu sau :
- Luận văn tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm. Những vấn đề khác như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm hoặc tại giai đoạn phúc thẩm không
thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Trong phần kiến nghị về các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án cấp sơ thẩm, tác giả tập trung nghiên
cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện, thủ tục và cơ chế bảo đảm
trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và đề xuất một số giải pháp
khác như nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm Phán, Hội thẩm; tăng
cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân về
vấn đề này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản
7
Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN. Do đó, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các quan
điểm chỉ đạo nêu trên.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài đạt hiệu quả tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử
Mỗi phương pháp nghiên cứu khác nhau có tác dụng hỗi trợ, bổ sung
lẫn nhau làm cho đề tài được nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc. Phương
pháp phân tích làm sáng tỏ các quy định định của pháp luật hiện hành về các
vấn đề nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp giúp người nghiên cứu có cái nhìn
tổng quát, toàn diện về các vấn đề nghiên cứu; phương pháp lịch sử giúp cho
tác giả hiểu rõ tinh thần các quy định của pháp luật trong các thời kỳ lịch sử
khác nhau, tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt đó. Phương pháp so sánh
cũng được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài để làm nổi bật các ưu điểm,
hạn chế trong các quy định pháp luật thuộc nội dung đề tài nghiên cứu. Khi
phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời đều có sự so sánh giữa pháp luật thực định với pháp của
một số nước khác nhau, cũng như đặt pháp luật trong mối quan hệ với điều
kiện kinh tế, xã hội, với quá trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Phương pháp thống kê được sử dụng khi xử lí các số liệu cụ thể về các
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn giải quyết các vụ
án dân sự và được thể thiện dưới dạng bảng biểu để các vấn đề nghiên cứu
được chân thực, có tính thuyết phục cao.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách chuyên sâu và có
hệ thống về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết các vụ án
dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.
8
Khái niệm, các đặc trưng của hoạt động áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án được phát hiện và phân
tích một cách đầy đủ, sâu sắc, làm cơ sở cho việc luận giải những vấn đề liên
quan đến hoạt động áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải
quyết các vụ án dân sự tại Tòa án. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận,
thực tiễn áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết các vụ
án dân sự, luận văn đã làm sáng tỏ thêm hệ thống lí luận khoa học về việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời, chủ thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trình tự,
thủ tục yêu cầu, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trách nhiệm của người
yêu cầu, người áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng và việc thay
đổi, bổ sung, hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Những
vấn đề lý luận này là cơ sở để đánh giá thực trạng pháp luật TTDS về áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như định hướng cho việc kiến nghị các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Luận văn phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện và sâu sắc
các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời và thực tiễn thực hiện các quy định này trong những năm gần đây.
Từ những nghiên cứu này luận văn đã chỉ rõ những hạn chế, bất cập trong các
quy định của TTDS về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, những vướng
mắc trong quá trình áp dụng các biện pháp này tại Tòa án cấp sơ thẩm và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc áp dụng các quy định của BLTTDS, giúp cho việc áp dụng pháp
luật được thống nhất và chính xác, đồng thời những phát hiện, đóng góp của
luận văn cũng là tài liệu có giá trị cho các cơ quan lập pháp trong quá trình
9
xây dựng, hoàn thiện pháp luật đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho Tòa
án, các Thẩm phán có hiểu biết sâu sắc thêm về việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời.
Luận văn góp phần vào việc nâng cao nhận thức khoa học về điều kiện,
thủ tục và cơ chế bảo đảm trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại
Tòa án cấp sơ thẩm, những đóng góp, phát hiện của luận văn có ý nghĩa tham
khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập luật TTDS ở Việt Nam.
8. Về bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
Chương 2: Cơ sở pháp lý của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
Chương 3: Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm và kiến nghị
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự
Vấn đề nhân quyền hay quyền con người từ lâu đã thu hút được sự
quan tâm, chú ý rộng rãi của dư luận thế giới, trở thành một nhân tố không
kém phần quan trọng trong các chương trình nghị sự và văn kiện của các hội
nghị quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực, cũng như các hiệp định song
phương và đa phương.
Trong các quyền con người, các quyền về dân sự được xem là quyền cơ
bản, quan trọng. Cũng như các quyền con người khác, các quyền về dân sự
của các chủ thể được ghi nhận trong Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật
liên quan của các nước. Trong các văn bản pháp luật đó đều ghi nhận quyền
của mỗi cá nhân được tự bảo vệ các quyền và lợi ích dân sự của mình. Trường
hợp không tự bảo vệ được quyền lợi của mình, pháp luật cho phép họ được
khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu Tòa án can thiệp, giải quyết.
Thông qua việc khởi kiện của đương sự, Tòa án có quyền can thiệp và
giải quyết các tranh chấp đó bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa
án. Tuy nhiên, việc giải quyết các tranh chấp dân sự thường phải tuân theo
một quy trình tố tụng dân sự chặt chẽ do pháp luật quy định. Thời gian cần
thiết để có kết quả giải quyết cuối cùng về nội dung vụ án cũng tương đối dài,
trong thời gian này bên bị kiện có thể tẩu tán tài sản, chuyển dịch, thay đổi
hiện trạng tài sản hoặc tiêu hủy các chứng cứ, tài liệu của vụ án. Ngoài ra,
trong nhiều trường hợp việc bảo đảm quyền lợi của đương sự phải thực hiện
ngay lập tức không thể chờ đến khi phán quyết về nội dung vụ việc có giá trị
11
thi hành như cần phải tạm buộc bên bị kiện phải thực nghĩa vụ của họ. Xuất
phát từ thực tế này, pháp luật của một số quốc gia có quy định trong những
trường hợp khẩn cấp để đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, cần bảo vệ
ngay bằng chứng, bảo toàn tài sản, bảo đảm khả năng thi hành án, tránh gây
thiệt hại về tài sản không thể khắc phục được Tòa án được quyền ra quyết
định áp dụng BPKCTT để bảo vệ quyền lợi cho các đương sự.
BPKCTT là một cụm từ bao gồm nhiều từ riêng lẻ được gép lại với
nhau, theo từ điển tiếng Việt thì các từ đó được giải thích như sau : « Biện
pháp » là một danh từ, chỉ cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể. « Khẩn cấp » là một tính từ chỉ sự gấp gáp, cần kíp, phải giải
quyết ngay, không thể trì hoãn được. « Tạm thời » là một tính từ, chỉ sự
không lâu dài, không ổn định. Vì vậy, khi giải nghĩa các từ nêu trên, chúng ta
có thể hiểu BPKCTT có nghĩa là cách thức giải quyết một vấn đề nào đó một
cách nhanh chóng, gấp gáp nhưng chỉ là giải pháp tạm thời, không mang tính
chất lâu dài, ổn định. Đây chính là công đoạn tố tụng rút ngắn và giản đơn
nhằm giúp cơ quan tài phán can thiệp nhanh chóng, kịp thời nhằm bảo vệ tài
sản tranh chấp, chứng cứ hoặc các đảm bảo khác thiết yếu cho thi hành các
nghĩa vụ, trong phiên tranh tụng chính chưa kết thúc. [ 9, tr. 129]
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi vụ án dân sự đều được Tòa án áp
dụng BPKCTT mà chỉ có những vụ án dân sự xuất hiện tình huống thực sự
khẩn cấp và việc áp dụng BPKCTT vào việc giải quyết vụ án đó là có căn cứ
và cần thiết, khi đó Tòa án có thể xem xét quyết định áp dụng BPKCTT. Về
vấn đề này, Chánh án Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng Paris Jean – Marie
Coulon đã từng nhận xét: «Có những vụ việc phải đi theo một tiến trình chậm
để bảo vệ quyền lợi của những người khiếu kiện và đảm bảo tốt công tác tư
pháp, giảm bớt gánh nặng cho Tòa án. Có những vụ việc đòi hỏi phải giải
quyết nhanh chóng, nếu không Thẩm phán sẽ bị coi là từ chối xét xử ». [ 34, tr
11]
Ở Việt Nam, nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc áp dụng
các BPKCTT trong việc giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án cấp sơ thẩm.
12
Các BPKCTT được quy định từ rất sớm, nghiên cứu thực tiễn pháp luật
TTDS của Việt Nam trước đây cho thấy đã từng có quy định về một thủ tục
giống như thủ tục áp dụng BPKCTT hiện nay. Cụ thể là Bộ luật dân sự -
Thương sự - Tố tụng thi hành trong các Toà Nam án Bắc kỳ có quy định về
“thủ tục phụ đái” [10, tr. 9]. Trong thời kỳ pháp thuộc và dưới chế độ cũ, các
thủ tục tương tự thủ tục áp dụng BPKCTT cũng đã từng được áp dụng dưới
tên gọi là thủ tục cấp thẩm và thủ tục án lệnh phê đơn, với thẩm quyền chuyên
biệt trong việc ra quyết định thuộc về Chánh án. Theo những thủ tục này,
Chánh án Tòa án có thể quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết ngay cả
khi Tòa án chưa thụ lý vụ kiện. Sau khi đất nước giành được độc lập trên cả
hai miền Nam – Bắc, năm 1989 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
được ban hành quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, các
quy định trong Pháp lệnh nhanh chóng được áp dụng thống nhất trên cả nước,
trong đó các quy định về BPKCTT được quy định tại Chương VIII của Pháp
lệnh (gồm 02 điều luật là 41 và 42). Tiếp theo đó là các quy định về biện pháp
này trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994 và Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 đã tạo ra cơ sở pháp lý để các
đương sự và Toà án thực hiện.
Bộ luật TTDS được xây dựng và ban hành năm 2004 đã thay thế các
pháp lệnh về thủ tục nói trên. Các BPKCTT trong Bộ luật TTDS được quy
định một cách đầy đủ và chi tiết hơn, Bộ luật dành hẳn một chương (chương
VIII) gồm 28 điều luật, quy định cụ thể về các BPKCTT và các vấn đề liên
quan đến việc áp dụng như quyền yêu cầu, thời điểm yêu cầu, thẩm quyền áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT…v.v. Việc áp dụng các biện pháp này trong
thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự phải tuân theo các quy định của pháp
luật về điều kiện, thẩm quyền, thủ tục áp dụng và các cơ chế bảo đảm sự
đúng đắn của việc áp dụng.
BPKCTT trong TTDS được áp dụng trong việc giải quyết các vụ án
dân sự tại Toà án cấp sơ thẩm xuất phát từ yêu cầu việc giải quyết vụ án dân
sự của Toà án phải đảm bảo nguyên tắc giải quyết kịp thời, để từ đó bảo vệ
13
kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do đó, trong những trường
hợp khẩn cấp, Toà án phải có ngay biện pháp can thiệp phù hợp với các tình
tiết, nội dung vụ án để bảo vệ tạm thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Tuy nhiên trong TTDS các tranh chấp dân sự phát sinh là rất đa dạng,
phong phú, các tình tiết và mức độ phức tạp của mỗi vụ án là không giống
nhau, nên mỗi tình thế khẩn cấp khác nhau đòi hỏi phải có biện pháp giải
quyết khác nhau nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ
chứng cứ, bảo toàn tài sản. Bàn về vấn đề này, Thẩm phán Thierry Gallais đã
đưa ra một nhận định rất chính xác, đó là: “ Không thể đưa ra một giải pháp
để áp dụng chung cho tất cả”. [ 30, tr.8].
Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong tố tụng dân sự như sau: BPKCTT trong TTDS là các biện
pháp do pháp luật quy định và được Tòa án áp dụng để tạm thời giải quyết
nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản, bảo
đảm thi hành án, bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong
vụ án dân sự.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời có hai tính chất là tính khẩn cấp và tính
tạm thời. Hai tính chất này là 2 tính chất cơ bản cần được nhà lập pháp lưu ý
khi xây dựng các quy định về điều kiện, thẩm quyền, thủ tục áp dụng và các
cơ chế bảo đảm sự đúng đắn của việc áp dụng từng BPKCTT đồng thời cũng
là hai tính chất mà Thẩm phán khi áp dụng các BPKCTT cũng cần phải lưu ý
để nhận thức về sự nhanh chóng của việc áp dụng và có thể cân nhắc thay đổi,
hủy bỏ khi xét thấy cần thiết.
1.1.2. Phân loại các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân
sự
Để có thể xác định và xây dựng được một cách hợp lý các quy định về
điều kiện áp dụng, việc áp dụng có cần dựa trên yêu cầu của đương sự hay
không cũng như xác định đúng các điều kiện về BPKCTT đã được quy định
để quyết định đúng các BPKCTT phù hợp, thỏa mãn các dữ kiện của tình
huống khi áp dụng trên thực tế đòi hỏi cần phải nắm vững bản chất và phân
14
loại được các BPKCTT. Căn cứ vào bản chất, mục đích áp dụng của các
BPKCTT có thể phân loại các BPKCTT thành các nhóm cơ bản sau đây:
- Các BPKCTT buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ
Thuộc nhóm này gồm các BPKCTT như: Buộc thực hiện trước một
phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc người sử dụng lao động
tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Nhìn chung ở các BPKCTT này đều có
điểm giống nhau là người có nghĩa phải tạm ứng trước một khoản tiền cho
người có quyền yêu cầu ADBPKCTT, để giải quyết nhu cầu cấp bách, trước
mắt của họ.
Tính khẩn cấp của các BPKCTT thuộc nhóm này thể hiện ở chỗ là
người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT đang cần được bảo vệ ngay quyền
và lợi ích hợp pháp, nếu không được nhận kịp thời một khoản tiền nhất định,
tính mạng, sức khỏe của người đó có thể bị nguy hiểm, bị đe dọa. Vì tính
nhân đạo của pháp luật và trách nhiệm của Nhà nước với công dân, các
BPKCTT thuộc nhóm này thường được áp dụng dưới hai hình thức là theo
đơn yêu cầu của đương sự và trong một số trường hợp cần thiết, Tòa án có
quyền tự mình áp dụng BPKCTT ngay cả khi đương sự không có yêu cầu.
- Các BPKCTT được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp
Bao gồm các biện pháp như: Kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm
chuyển dịch quyển về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi
hiện trạng tài sản đang tranh chấp, cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản
phẩm, hàng hóa khác.
Đây là các biện pháp mà pháp luật TTDS có quy định về điều kiện áp
dụng « chỉ được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp », các tài sản khác
của người có nghĩa vụ tuy có khả năng bảo đảm thi hành án nhưng nếu không
có tranh chấp thì cũng không được áp dụng của biện pháp này. Các BPKCTT
này có mục đích nhằm bảo toàn tài sản tranh chấp, ngăn chặn, phòng ngừa
15
người có nghĩa vụ tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản, đảm bảo thi hành án. Đối với
nhóm các BPKCTT này được áp dụng trên cơ sở yêu cầu của đương sự.
- Các BPKCTT phong tỏa tài khoản, tài sản
Bao gồm các BPKCTT như : Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ
chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; phong
tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Các BPKCTT này được áp dụng đối với
người có nghĩa vụ có tài khoản mở tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc
nhà nước hoặc trong trường hợp người có nghĩa vụ có tài sản nhưng vì muốn
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền đã gửi tài sản cho
người khác quản lý hộ, tránh sự phát hiện của người có quyền yêu cầu
ADBPKCTT.
Thực chất các biện pháp phong tỏa tài sản, tài khoản nêu trên đều là
phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ, mục đích của việc áp dụng là nhằm
cô lập không cho các tài sản của người có nghĩa vụ được đưa vào giao dịch,
lưu thông, từ đó bảo toàn được tài sản, bảo đảm khả năng thi hành án. Các
biện pháp này thường không liên quan đến các chủ thể có quyền lợi là người
yếu thế không có khả năng tự bảo vệ mình nên thường được Tòa án áp dụng
dựa trên yêu cầu của đương sự.
- Các BPKCTT cấm hoặc buộc thực hiện những hành vi nhất định
Thuộc nhóm này có thể kể đến các BPKCTT như: Giao người chưa
thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục; tạm đình chỉ thi hành quyết định sa thải người lao động Thực chất các
biện pháp KCTT nêu trên được áp dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giải quyết vụ án của Tòa án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết. Các biện pháp
này thường liên quan đến các chủ thể có quyền lợi là người yếu thế không có
khả năng tự bảo vệ mình nên Tòa án có thể tự mình áp dụng nếu xét thấy cần
thiết hoặc áp dụng dựa trên yêu cầu của đương sự.
- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do pháp luật quy định
16
Ngoài các BPKCTT nêu trên, pháp luật có thể cho phép Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án có thể áp dụng các BPKCTT khác chưa
được liệt kê trong pháp luật nếu việc áp dụng các biện pháp này là cần thiết để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Thực tiễn giải quyết án dân sự rất
phong phú, đa dạng, nên các quy định được dự liệu trước về BPKCTT nhiều
khi không thể bao quát hết các tình huống nảy sinh trong cuộc sống. Do vậy,
cần phải có những quy định mở nhằm trao thêm thẩm quyền cho Tòa án trong
việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự như biện pháp KCTT nhằm bảo toàn
chứng cứ, niêm phong, bắt giữ tàu bay, tàu biển v.v.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM
1.2.1. Khái niệm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
Theo Lý luận chung về nhà nước và pháp luật: “Áp dụng pháp luật là
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan
nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà
nước ủy quyền, thông qua những trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy
định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể
đối với các cá nhân tổ chức cụ thể ”[ 34, tr.381].
Áp dụng BPKCTT là một hình thức áp dụng pháp luật, đó là việc Tòa
án nghiên cứu, xem xét các quy định của pháp luật TTDS về BPKCTT như
các quy định về người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT, thời điểm có
quyền yêu cầu, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục áp dụng để quyết định các biện
pháp khẩn cấp tạm thời cũng như xem xét các khiếu nại, kiến nghị về việc áp
dụng để quyết định việc thay đổi, hủy bỏ BPKCTT đã được áp dụng. Trên cơ
sở nghiên cứu các quy định pháp luật nội dung và pháp luật hình thức, Thẩm
phán hay HĐXX vận dụng vào thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự để quyết
định các biện pháp khẩn cấp tạm thời phù hợp hoặc quyết định biện pháp thay
thế nếu xét thấy cần thiết.
17
Áp dụng BPKCTT có vai trò rất quan trọng, có tác dụng rút ngắn thời
gian tố tụng, giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng, bảo vệ kịp thời quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, hoạt động ADBPKCTT nhận được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học cũng như những người làm
công tác pháp luật. Trong đó, khái niệm ADBPKCTT nhận được nhiều sự
quan tâm nhất, bởi lẽ trên cơ sở xây dựng được khái niệm ADBPKCTT đầy
đủ, chính xác, có khả năng bao quát cao sẽ tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng
cho Tòa án và các đương sự thực hiện. Vì vậy, khái niệm ADBPKCTT nhận
được nhiều ý kiến khác nhau, có quan điểm cho rằng ADBPKCTT là việc xét
các điều kiện luật định về BPKCTT và quyết định áp dụng hay không áp dụng
một hoặc nhiều BPKCTT trên cơ sở thủ tục được pháp luật tố tụng dân sự quy
định.
Những người theo quan điểm nêu trên cho rằng ADBPKCTT trong việc
giải quyết các vụ án dân sự chỉ đơn thuần là việc Thẩm phán được giao nhiệm
vụ giải quyết vụ án, hoặc HĐXX xem xét, nghiên cứu các điều kiện do pháp
luật quy định về BPKCTT (điều kiện về nội dung, hình thức), trên cơ sở xem
xét nội dung yêu cầu của người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT (đơn yêu
cầu, thời điểm yêu cầu, biện pháp yêu cầu, các tài liệu chứng cứ kèm theo
đơn ) có thỏa mãn các quy định của pháp luật không. Trên cơ sở đó, Thẩm
phán hoặc HĐXX quyết định áp dụng hay không áp dụng một hoặc nhiều
BPKCTT vào giải quyết các vụ án dân sự. Những người theo quan điểm này
cho rằng ADBPKCTT trong việc giải quyết các vụ án dân sự chỉ là hoạt động
áp dụng pháp luật thuần túy, không bao gồm các vấn đề khác liên quan như
việc ra quyết định sửa đổi, thay thế BPKCTT đã được áp dụng bằng BPKCTT
khác.
Tuy nhiên, quan điểm nêu trên không nhận được sự ủng hộ của nhiều
người, những người theo quan điểm này cho rằng ADBPKCTT trong việc giải
quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm không đơn thuần chỉ là xét các
điều kiện luật định về BPKCTT và quyết định áp dụng hay không áp dụng
một hoặc nhiều BPKCTT trên cơ sở thủ tục được PLTTDS quy định nêu trên
18
mà ADBPKCTT còn được hiểu ở phạm vi rộng hơn, bao quát hơn, nó không
chỉ là hoạt động áp dụng pháp luật đơn thuần mà còn bao gồm việc ra quyết
định sửa đổi, thay thế BPKCTT đã được áp dụng bằng BPKCTT khác.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, tức là việc áp dụng
BPKCTT cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó bao gồm các hoạt động áp
dụng, sửa đổi và thay thế BPKCTT đã được áp dụng bằng BPKCTT khác. Vì
việc áp dụng hay sửa đổi, thay thế BPKCTT có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tùy theo tính chất, mức độ phức tạp của mỗi vụ án dân sự Thẩm phán
giải quyết, các BPKCTT được áp dụng sẽ có tác dụng trong thời điểm này và
có thể không còn tác dụng, không còn cần thiết trong một thời điểm khác. Do
vậy, căn cứ vào tình hình thực tế, Thẩm phán giải quyết vụ án có thể sửa đổi,
thay thế BPKCTT đang được áp dụng bằng một BPKCTT khác, tạo điều kiện
cho hoạt động ADBPKCTT của Tòa án đạt được hiệu quả cao. Việc sửa đổi,
thay thế BPKCTT này bằng BPKCTT khác cũng phải tuân theo đầy đủ các
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nó có đầy đủ các đặc điểm của hoạt
động áp dụng pháp luật nói chung. Vì vậy, ADBPKCTT phải được hiểu theo
nghĩa rộng, đầy đủ, khái quát theo hướng bao gồm các hoạt động là áp dụng,
sửa đổi, thay thế BPKCTT này bằng BPKCTT khác mới phản ánh được đầy
đủ, sâu sắc nhất bản chất của hoạt động ADBPKCTT.
Từ những phân tích nêu trên, khái niệm ADBPKCTT trong giải quyết
các vụ án dân sự có thể được hiểu như sau :
Áp dụng BPKCTT trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm là việc Thẩm phán hay HĐXX sơ thẩm xét các điều kiện luật định về
BPKCTT (điều kiện về nội dung, hình thức) để quyết định một hoặc nhiều
BPKCTT hoặc ra quyết định sửa đổi, thay thế BPKCTTT đã được áp dụng
bằng BPKCTT khác.
1.2.2. Đặc điểm của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm
Áp dụng BPKCTT là hoạt động áp dụng pháp luật, nó có đầy đủ các
đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung như: mang tính quyền