1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ TỐ NGA
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ: 50507
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HÀ THỊ MAI HIÊN
HÀ NỘI - NĂM 2005
3
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 13
1.1. Khái niệm chung về chế độ tài sản chung của vợ chồng và ý nghĩa
xã hội của nó 13
1.1.1. Khái niệm chung về chế độ tài sản chung của vợ chồng 13
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa xã hội của chế độ tài sản chung của vợ chồng 24
1.2 Địa vị pháp lý của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân 26
1.2.1. Địa vị pháp lý của công dân và quyền bình đẳng nam nữ theo Hiến pháp
Việt Nam 26
1.2.2. Quyền tự do dân sự của vợ, chồng theo Luật Dân sự 32
1.2.2.1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn
với tài sản. 33
1.2.2.2. Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, quyền thừa
kế. 34
1.2.2.3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ các
quan hệ đó. 34
1.2.3 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam 36
1.2.3.1. Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng 36
1.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng 37
1.2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng đối với người thứ ba 42
1.2.4. Thời kỳ hôn nhân và bản chất pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân 42
4
1.2.4.1. Thời kỳ hôn nhân 42
1.2.4.2. Bản chất pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân 45
1.3. Pháp luật Việt Nam về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân qua các giai đoạn phát triển 50
1.3.1. Trước năm 1945 50
1.3.1.1. Pháp luật phong kiến Việt Nam thế kỷ XV - XVIII và dưới
triều Nguyễn ( 1802-1858) 50
1.3.1.2. Chính quyền và luật lệ của thực dân Pháp ở Việt Nam (1858-
1945) 54
1.3.2. Pháp luật Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay 55
1.3.2.1. Từ năm 1945 đến 1954 56
1.3.2.2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 59
1.3.2.3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 60
1.3.2.4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 61
CHƢƠNG 2: CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT
NAM NĂM 2000 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 63
2.1. Nội dung của Luật Hôn nhân và gia đình việt nam năm 2000 về
việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 63
2.1.1. Cơ sở pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân 63
2.1.2. Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 64
2.1.3. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 66
2.1.4. Lý do chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 72
2.1.4.1. Vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng 74
2.1.4.2. Vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng rẽ 75
2.1.4.3 Trường hợp có lý do chính đáng khác. 76
2.1.5. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 79
2.1.6. Hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
85
5
2.1.7. Về vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng 89
2.1.7.1. Điều kiện khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng 89
2.1.7.2. Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung
90
2.2. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 91
CHƢƠNG 3: VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH VIỆT NAM VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 109
3.1. Yêu cầu và phƣơng hƣớng hoàn thiện 109
3.1.1. Yêu cầu của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
109
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam về
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 111
3.2. KIếN NGHị một số giảI pháp cụ thể 114
3.2.1. Về phương diện lập pháp: 114
3.2.1.1. Về luật nội dung 115
3.2.1.2. Về luật tố tụng 126
3.2.2. Về công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật 127
3.2.3. Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật 128
3.2.4. Về phương diện thực thi pháp luật 129
3.2.5. Về công tác thi hành án 130
3.2.6. Về công tác hợp tác quốc tế 131
KẾT LUẬN 132
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 134
6
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Hôn nhân và gia đình
- HN & GĐ
Bộ luật dân sự
- BLDS
Bộ luật dân sự – thương mại
- BLDS – TM
Bộ luật Gia đình
- BLGĐ
Tư bản chủ nghĩa
- TBCN
Xã hội chủ nghĩa
- XHCN
Hội đồng thẩm phán
- HĐTP
Toà án nhân dân
- TAND
7
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
của cuộc sống, cùng với tri thức của con người, kết hợp với những thành tựu
khoa học kỹ thuật tiến bộ trên thế giới, đời sống vật chất của xã hội không
ngừng tăng lên, tài sản chung của vợ chồng cũng không ngừng được củng cố
và phát triển. Trong gia đình, người phụ nữ đã không còn lệ thuộc vào người
chồng như trước đây nữa, họ đã dần dần khẳng định vị trí của mình và từng
bước tiến lên bình đẳng với nam giới về mọi phương diện.
Hôn nhân theo pháp luật Việt Nam là “hôn nhân theo nguyên tắc tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” [14,tr.157]. Quyền
bình đẳng vợ chồng được hiểu là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Bên cạnh
các quyền, nghĩa vụ nhân thân, vợ chồng còn có quyền, nghĩa vụ đối với tài
sản thuộc “sở hữu chung hợp nhất“. Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Pháp luật Việt
Nam không chỉ ghi nhận quyền bình đẳng của vợ chồng mà còn quy định
cách thức, phương pháp đảm bảo cho quyền đó được thực hiện trên thực tế.
Dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, để đảm bảo đời
sống chung của gia đình và lợi ích thiết thực của bản thân mỗi thành viên
trong gia đình, vợ chồng có nhu cầu tham gia vào các quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh và có quyền, nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các quan hệ
đó. Tuy nhiên, nhu cầu của con người là vô hạn, trong cuộc sống gia đình,
bên cạnh những điểm tương đồng, giữa vợ và chồng không thể tránh khỏi
những mâu thuẫn về tâm sinh lý, những bất đồng trong việc quản lý, sử dụng
và định đoạt tài sản chung. Song, không phải bất cứ sự bất đồng, mâu thuẫn
nào giữa vợ và chồng đều dẫn đến ly hôn. Trên thực tế, có thể vì nhiều lý do
8
khác nhau, có trường hợp vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nhưng
họ lại không muốn ly hôn mà chỉ muốn chia tài sản chung của vợ chồng để ra
ở riêng; có trường hợp vợ chồng muốn được độc lập về tài sản, muốn tự
mình quyết định các vấn đề liên quan đến tài sản không có sự can thiệp từ
phía bên kia; cũng có trường hợp vợ, chồng phải thực hiện một nghĩa vụ riêng
về tài sản nhưng họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng của họ không đủ
để thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, họ có nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
khi hôn nhân còn tồn tại.
Để đáp ứng thực tế đó, Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HN &
GĐ) năm 1986 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện đầy đủ
các quyền sở hữu của mình và đảm bảo cho các bên vợ, chồng độc lập về tài
sản, có thể tự thiết lập các quan hệ kinh tế, dân sự với người thứ ba vì lợi ích
chung của gia đình hoặc vì lợi ích riêng của vợ chồng. Luật HN & GĐ năm
2000 trên cơ sở kế thừa và khắc phục những hạn chế của Luật HN & GĐ năm
1986 đã quy định rõ hơn về vấn đề này tại Điều 29 và Điều 30.
Sau gần 05 (năm) năm thực hiện Luật HN & GĐ năm 2000, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, các Toà án không thể tránh khỏi những khó
khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản
chung của vợ chồng. Mặc dù Nhà nước ta đã kịp thời ban hành hệ thống văn
bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Luật nhưng cũng không thể tránh khỏi
những khoảng trống chưa được pháp luật điều chỉnh, những bất cập trong việc
đưa các quy định của Luật HN & GĐ đi vào thực tiễn đời sống.
Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ
những quy định của Luật HN & GĐ Việt Nam hiện hành về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một việc làm cần thiết, nghiêm
túc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, một mặt nhằm luận giải các quy
9
định của pháp luật liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân, tạo ra cơ sở pháp lý cho vợ, chồng thực hiện quyền của mình.
Mặt khác, nó còn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, hướng các
nhà lập pháp và hành pháp có cái nhìn tổng quan, toàn diện, có cách hiểu
thống nhất, đảm bảo cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Ngoài
ra, nó còn tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc giúp cho Toà án giải quyết một cách
kịp thời và có hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong việc yêu cầu chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân .
Vì vậy, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000” với mong muốn làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành
về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm trở lại đây, trước những đòi hỏi khách quan của đời
sống xã hội nói chung và đời sống của vợ chồng nói riêng, đã có nhiều tác giả
nghiên cứu về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trong
đó có tác giả Nguyễn Thọ Thắng với khoá luận tốt nghiệp “Chia tài sản
chung của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”; tác giả Chử
Thị Thuần với đề tài “Một số vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành”;
tác giả Bùi Thị Lan với khoá luận tốt nghiệp “Vấn đề chia tài sản chung giữa
vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam”. Không chỉ vậy, một số bài viết trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật;
tạp chí Luật học; tạp chí Toà án; Báo pháp luật, tạp chí Nhà nước và pháp luật
cũng đã đề cập tới vấn đề này, cụ thể là: tác giả Nguyễn Phương Lan với bài
viết “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân”; tác giả Nguyễn Hồng Hải với bài viết: “Bàn thêm về chia tài sản
10
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Hôn nhân và gia
đình hiện hành”; và bài viết “Vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi phá sản doanh nghiệp tư nhân” của tác giả Phạm Văn Thiệu;… Ngoài ra,
các giáo trình môn Luật Hôn nhân và gia đình của Trường Đại học Luật và
các trường Đại học có chuyên ngành luật; … cũng đề cập đến vấn đề này.
Nhìn chung, các tác giả đều thể hiện quan điểm riêng khi nghiên cứu về
vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ở những góc
độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Một số bài viết cũng đề cập đến thực
trạng về vấn đề này và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
các quy định của pháp luật trong việc củng cố quan hệ gia đình Việt Nam nói
chung và quan hệ vợ chồng nói riêng trong xã hội có nhiều biến động như
hiện nay. Tuy nhiên, trong số các công trình nghiên cứu về vấn đề chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa có một đề tài thạc sĩ nào đề
cập một cách cụ thể, đầy đủ và toàn diện.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Từ những quan điểm và định hướng cơ bản của Đảng và Nhà nước ta
về xây dựng chế độ HN & GĐ, cũng như từ thực tiễn hoạt động xây dựng
pháp luật về chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời gian qua, mục tiêu
của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận cho sự hình thành và
phương hướng xây dựng pháp luật HN & GĐ về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân ở Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm
vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở lý luận về chế độ tài sản chung của vợ
chồng và pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong nền kinh tế thị
trường;
11
- Phân tích làm sáng tỏ quan điểm tiếp cận khi xây dựng pháp luật về
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, khái niệm và những
nội dung chủ yếu của Luật HN & GĐ Việt Nam năm 2000 về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
- Khái quát thực tiễn áp dụng các quy định của Luật HN & GĐ hiện
hành để chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và pháp luật
có liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của
Việt Nam hiện nay;
- Làm sáng tỏ yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật HN &
GĐ về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
“Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” là một đề tài mang tính chất
tương đối cụ thể, có nội dung phức tạp. Vì vậy, trong khuôn khổ Luận văn
thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận
cho việc hình thành các quy định của pháp luật HN & GĐ Việt Nam về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và phương hướng hoàn
thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của
Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định pháp luật liên quan đến
vấn đề này ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin về Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa Duy vật lịch sử và tư
tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật; có sử dụng phương pháp liên hệ giữa thực
tiễn giải quyết của Toà án với các quy định của pháp luật về HN & GĐ.
12
Đồng thời có sử dụng kết hợp với các phương pháp cụ thể đó là:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp…Từ việc phân tích khái quát sơ lược
các quy định của Hiến pháp, Bộ luật dân sự về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, quá trình hình thành và phát triển của các quy định liên quan, để từ
đó đi sâu vào phân tích những nét đặc thù trong các quy định của pháp luật
hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, có sử
dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với pháp luật một số nước trên thế giới
để củng cố, làm phong phú thêm cơ sở lý luận cho việc áp dụng các quy định
của pháp luật trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề
chia tài sản chung của vợ chồng nói chung và chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân nói riêng.
6. Những điểm mới và ý nghĩa khoa học của đề tài
Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu và trình bày một cách
có hệ thống về cơ sở lý luận, đặc điểm, nội dung của pháp luật hiện hành về
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Việc làm sáng tỏ nội
dung này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nhận thức đầy đủ vai trò
của pháp luật HN & GĐ trong điều kiện kinh tế thị trường
Về thực tiễn, trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật có liên quan đến
việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của Việt Nam,
luận văn đã nêu ra các phương hướng và kiến nghị một số giải pháp cụ thể
trong hoạt động xây dựng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
7. Bố cục của luận văn
Với mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi và phương pháp nghiên cứu nêu trên,
luận văn bao gồm: Lời mở đầu, 3 (ba) chương và kết luận.
13
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG VÀ Ý NGHĨA XÃ HỘI CỦA NÓ
1.1.1. Khái niệm chung về chế độ tài sản chung của vợ chồng
Theo Mác, bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ trong
xã hội. Để tồn tại và phát triển, con người có nhu cầu tham gia vào tất cả các
quan hệ xã hội trong đó có quan hệ hôn nhân. Hôn nhân đó là sự liên kết công
khai trọn đời, tự do và tự nguyện giữa một người nam và một người nữ trên
cơ sở pháp luật của Nhà nước. Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia
đình, trong đó vợ chồng cùng có quyền, nghĩa vụ nhân thân và tài sản, sinh
con và giáo dục các con. Khi tham gia vào quan hệ hôn nhân, con người
mong muốn thiết lập cho mình một gia đình riêng. Nhưng để gia đình của
mình có thể tồn tại, phát triển và thực hiện tốt các chức năng xã hội của gia
đình, thì các chủ thể tham gia vào quan hệ đó phải cùng nhau lao động, sản
xuất để tạo ra của cải vật chất duy trì cuộc sống hàng ngày và thoả mãn các
nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của các thành viên trong gia đình.
Khối tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân gọi là tài sản chung
của vợ chồng.
Vậy, chế độ tài sản chung của vợ chồng là gì?
Xét dưới góc độ là một chế định pháp luật, chế độ tài sản chung của vợ
chồng được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản phát sinh trong lĩnh vực sở hữu của vợ
chồng và quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung và tài sản
riêng của vợ chồng.
14
Xét dưới góc độ là một quan hệ pháp luật, chế độ tài sản chung của vợ
chồng bao gồm các yếu tố của quan hệ pháp luật như: chủ thể, khách thể và
nội dung của quan hệ pháp luật. Trong đó, chủ thể của quan hệ pháp luật là vợ
chồng, khách thể của quan hệ là tài sản chung của vợ chồng và nội dung của
quan hệ là tổng hợp các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung.
Thời kỳ phong kiến và thuộc địa ở Việt Nam trước đây giống đa số các
nước Tư bản đều coi quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng là một dạng quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh
của luật dân sự. Nhưng sau đó các nhà làm luật Việt Nam đã tách quan hệ tài
sản của vợ chồng ra khỏi Luật dân sự và đưa Luật HN & GĐ trở thành một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam với lập luận: quan hệ
tài sản trong quan hệ dân sự xuất hiện hoàn toàn trên cơ sở yếu tố ý chí của
các bên, còn quan hệ tài sản của vợ chồng phát sinh trên cơ sở tình yêu chân
chính giữa một người nam và một người nữ và được đánh dấu bằng sự kiện
kết hôn. Trong gia đình, quan hệ tình cảm vợ chồng chi phối và có ảnh hưởng
sâu sắc tới sự tồn tại và phát triển của quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Sự
thay đổi trong quan hệ tình cảm vợ chồng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ tài sản của vợ chồng. Chẳng hạn, khi vợ
chồng còn tình cảm yêu thương, quý trọng, quan tâm đến nhau thì hạnh phúc
gia đình được bền vững và khối tài sản chung của vợ chồng không ngừng
được tạo lập, duy trì và phát triển. Ngược lại, khi tình cảm vợ chồng đã bị rạn
nứt, tan vỡ thì vợ chồng không những không còn quan tâm, yêu thương, giúp
đỡ lẫn nhau mà họ còn không chú trọng đến việc duy trì khối tài sản chung
của vợ chồng. Và khi đó, việc sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng
không còn vì mục đích chung của gia đình nữa, nó có thể bị phân tán cho
những mục đích riêng của vợ, chồng.
15
Là một yếu tố của quan hệ pháp luật, chủ thể trong quan hệ tài sản của
vợ chồng cũng góp phần quan trọng tạo nên đặc trưng cho quan hệ tài sản của
vợ chồng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cá nhân nào cũng có thể trở thành
chủ thể của quan hệ tài sản của vợ chồng. Một người nam và một người nữ
chỉ trở thành chủ thể của quan hệ hôn nhân nói chung và quan hệ tài sản của
vợ chồng nói riêng khi họ đáp ứng đầy đủ những điều kiện kết hôn và thủ tục
đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội. Vì ra
đời trên cơ sở của quan hệ hôn nhân cho nên gia đình chịu sự tác động bởi
nhiều yếu tố khác nhau như: đạo đức, tôn giáo, truyền thống, pháp luật Để
thể hiện ý chí của giai cấp mình, giai cấp thống trị sử dụng pháp luật của Nhà
nước như một công cụ hữu hiệu nhất để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất
định mà ở mỗi thời kỳ khác nhau, giai cấp thống trị sử dụng pháp luật điều
chỉnh chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng rất khác nhau. Tương ứng với
bốn hình thái kinh tế - xã hội, trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện bốn hình
thức tổ chức gia đình khác nhau.
Ở nhà nước Chiếm hữu nô lệ, chế độ hôn nhân chỉ mang tính chất giả
tạo, quan hệ vợ chồng thực chất chỉ là quan hệ giữa chủ nô và nô lệ. Trong
gia đình, người chồng (chủ nô) có quyền sở hữu nô lệ một cách tuyệt đối.
Người vợ (nô lệ) bị coi là vật tư hữu, là “công cụ biết nói” và bị lệ thuộc hoàn
toàn vào ý chí chủ nô. Nắm trong tay sự thống trị tuyệt đối, người chồng có
quyền quản lý, sử dụng và định đoạt mọi tài sản trong gia đình. Vì vậy, dưới
chế độ Chiếm hữu nô lệ không tồn tại sở hữu chung của gia đình hay sở hữu
chung của vợ chồng.
Đến nhà nước Phong kiến, do chịu ảnh hưởng nặng nề của lễ giáo và
đạo đức phong kiến. Hôn nhân theo pháp luật phong kiến dựa trên nguyên tắc
16
“cha mẹ đặt đâu con ngồi đó“. Quan hệ gia đình phong kiến mang nặng tính
chất quyền uy và phục tùng, trong đó người chồng vẫn là người có quyền lực
tuyệt đối, còn người phụ nữ chịu sự ràng buộc bởi thuyết “tam tòng, tứ đức”,
có nghĩa vụ phải phục tùng chồng theo nguyên tắc “phu xướng, phụ tuỳ”. Vì
vậy, vai trò của họ không được đề cao, quyền lợi của họ luôn phụ thuộc vào
cha, chồng và con trai. ở thời kỳ này, pháp luật đã thừa nhận chế độ sở hữu
chung của vợ chồng bằng việc quy định những tài sản mà vợ, chồng cùng tạo
ra trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Tuy nhiên, xuất
phát từ điều kiện kinh tế - xã hội phong kiến lúc đó, chế độ tài sản chung của
vợ chồng chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý, còn thực chất người chồng vẫn có
toàn quyền nắm giữ và quyết định mọi vấn đề có liên quan đến tài sản, đến lợi
ích chung của vợ chồng và gia đình.
Nhà nước Tư bản chủ nghĩa (TBCN) xuất hiện, mặc dù đã giảm bớt
nhiều tính hà khắc đối với người phụ nữ hơn so với chế độ HN & GĐ phong
kiến, nhưng pháp luật các nước tư bản lại bị hạn chế bởi điều kiện kinh tế - xã
hội do nền sản xuất tư bản sinh ra, do đó hôn nhân theo pháp luật các nước
TBCN chỉ là một “khế ước” do nam nữ tự thoả thuận trên cơ sở tiền tài và địa
vị xã hội, nó mang tính rạch ròi về tài sản giữa vợ và chồng. Chế độ tài sản
chung của vợ chồng theo pháp luật Tư bản đó là sự thoả thuận giữa vợ và
chồng về việc lựa chọn chế độ quản lý và thanh toán tài sản trong gia đình để
áp dụng cho suốt thời kỳ hôn nhân. Như vậy, xã hội tư bản đã quá đề cao vai
trò của cá nhân, sự thoả thuận, bình đẳng nên đã làm mất đi bản chất tốt đẹp
vốn có của nó [5, tr.7]
Với sự ra đời của Nhà nước XHCN, chế độ hôn nhân đã phát triển theo
chiều hướng tiến bộ. Là nhà nước của dân, do dân và vì dân cho nên hôn nhân
theo pháp luật XHCN là sự liên kết công khai trọn đời, bình đẳng, tự do và tự
nguyện giữa một người nam và một người nữ, phù hợp với pháp luật của Nhà
17
nước. Nó không bị chi phối bởi yếu tố “trọng nam khinh nữ” như ở Nhà nước
Phong kiến, và cũng không bị ảnh hưởng bởi yếu tố vật chất, địa vị xã hội dựa
trên cơ sở “hôn ước“ như ở nhà nước Tư bản mà nó xuất phát từ tình yêu
chân chính và sự hiểu biết lẫn nhau giữa vợ và chồng. Mục đích của hôn nhân
là nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc và bền vững. Chế
độ tài sản của vợ chồng được pháp luật XHCN thừa nhận đó là chế độ sở hữu
chung hợp nhất, không có sự phân biệt về nguồn gốc tài sản, nguồn thu nhập,
vợ chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt khối tài sản chung. Ngoài ra, nguyên tắc suy luận các loại tài sản là
sở hữu chung của vợ chồng cũng được áp dụng nếu vợ hoặc chồng không
chứng minh được đó là tài sản riêng thì tài sản đó vẫn được coi là tài sản
chung. Không chỉ có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản chung, vợ chồng còn có
quyền sở hữu riêng đối với các tài sản có trước hôn nhân và các tài sản được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Tóm lại, chế độ tài sản chung của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ về tài sản (tài
sản chung, tài sản riêng) của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối
với tài sản và các nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng.
Nếu sở hữu chung theo phần là “sở hữu chung mà trong đó phần quyền
sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”[4,tr.107], thì
sở hữu chung hợp nhất được hiểu là “ sở hữu chung mà trong đó phần quyền
sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản
chung”[4,tr.107].
Theo Khoản 1 Điều 233 BLDS và Khoản 1 Điều 27 Luật HN & GĐ
năm 2000 thì tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, do đó
không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản
18
chung. Chỉ khi nào có sự phân chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác
định được phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó.
Căn cứ vào quy định của Điều 27 của Luật HN & GĐ năm 2000, tài
sản chung của vợ chồng được xác lập dựa trên bốn nhóm căn cứ sau:
Thứ nhất, dựa vào mốc thời gian có được tài sản: tài sản chung của
vợ chồng bao gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
Thu nhập của vợ chồng được hiểu là những lợi ích vật chất mà vợ,
chồng có được bao gồm những khoản tiền công, tiền lương phát sinh từ các
hoạt động lao động mang tính chất nghề nghiệp, không mang tính chất nghề
nghiệp hoặc các khoản lợi tức phát sinh từ các hoạt động sử dụng, quản lý tài
sản trong sản xuất kinh doanh hoặc trong giao lưu dân sự [22].
Trong gia đình, vợ, chồng có quyền tự do lựa chọn công việc phù hợp
với khả năng, sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của mình để tạo ra thu nhập.
Thực tế, có thể do hoàn cảnh riêng của từng gia đình, do điều kiện sức khoẻ,
đặc điểm công việc và nghề nghiệp của vợ chồng khác nhau cho nên sự đóng
góp công sức của vợ, chồng vào việc xây dựng khối tài sản chung không
ngang bằng nhau. Có thể vợ hoặc chồng không trực tiếp lao động tạo ra tài
sản mà chỉ lao động trong gia đình như làm nội trợ, chăm sóc con… nhưng “
lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu
nhập”[14,tr.51]. Quy định này đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta đến việc đảm bảo cho gia đình có một khối tài sản chung để phục vụ
cho các nhu cầu sinh hoạt của gia đình.
Ngoài ra, “ Những thu nhập hợp pháp khác” của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng. Những thu nhập
19
hợp pháp khác có thể là: tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ,
chồng có được hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy
định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251 và 252 BLDS (xác lập quyền sở
hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu; xác lập
quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy; xác lập
quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên; xác lập quyền sở
hữu đối với gia súc bị thất lạc; xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất
lạc; xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước) trong thời kỳ hôn nhân
[17, tr.3]
Những thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân phải đáp ứng
hai điều kiện sau: Các khoản thu nhập đó phải phù hợp với quy định của pháp
luật; và các khoản thu nhập này phải phát sinh trong thời kỳ hôn nhân (trong
khoảng thời gian hôn nhân còn tồn tại). Nếu thu nhập hợp pháp có trước khi
kết hôn thì thu nhập đó không được xác định là tài sản chung của vợ chồng
(trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận).
Bên cạnh việc kế thừa quy định tại Điều 14 của Luật HN & GĐ năm
1986, Luật HN & GĐ năm 2000 cũng đã thay khái niệm “thu nhập về nghề
nghiệp” bằng các khái niệm “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh”, nhằm thể hiện rõ hơn vai trò của cá nhân nói chung, của vợ chồng
nói riêng trong nền kinh tế thị trường, đó là tự do kinh doanh, tự do giao kết
hợp đồng lao động.
Đối chiếu với Bộ luật gia đình năm 1996 (BLGĐ 1996) của Nga, Pháp
thì thấy, nhìn chung pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước này giống
nhau ở chỗ là đều xác định tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải
do cả hai vợ chồng cùng làm ra mà chỉ cần một bên làm ra trong thời kỳ hôn
nhân thì được coi là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, điểm khác nhau
giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước trên là ở chỗ:
20
Pháp quy định ngoài những khoản thu nhập chung của vợ chồng hoặc
thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ
công việc làm ăn của vợ chồng thì những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi,
lợi tức của tài sản riêng là tài sản chung (Điều 1401) [1]. Còn pháp luật Việt
Nam coi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng là tài sản riêng. Ngoài ra,
trong pháp luật Pháp, các khoản thu nhập của vợ, chồng không xuất phát từ
công việc làm ăn, chẳng hạn như tiền trúng số, quyền sở hữu đối với kho báu
được tìm thấy trên ruộng đất của mình hoặc của người khác không được xác
định là tài sản chung hay tài sản riêng (Điều 716) [1]. Còn pháp luật Việt
Nam lại coi đây là tài sản chung của vợ chồng.
BLGĐ 1996 của Nga cũng thừa nhận tài sản vợ chồng làm ra trong thời
kỳ hôn nhân; các khoản thu nhập của vợ chồng từ các hoạt động lao động sản
xuất, kinh doanh thương mại và kết quả của những hoạt động trí tuệ là tài sản
chung của vợ chồng. Tuy nhiên, riêng về các khoản thu nhập hợp pháp khác,
pháp luật Nga quy định hẹp hơn so với pháp luật Việt Nam, chỉ dừng lại ở
việc thừa nhận lương hưu, phụ cấp và các số tiền được trả mà không có mục
đích riêng là tài sản chung của vợ chồng (Điều 39) [3]
Thứ hai, dựa vào nguồn gốc tài sản: tài sản mà vợ, chồng được thừa
kế chung hoặc được tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng.
Xuất phát từ quan điểm tôn trọng và đảm bảo quyền tự định đoạt của
chủ sở hữu, pháp luật Việt Nam quy định chủ sở hữu tài sản có quyền định tự
định đoạt tài sản của mình, có quyền để lại thừa kế theo ý chí hoặc tặng cho
tài sản. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung là
tài sản chung của vợ chồng. Mặc dù Luật HN & GĐ năm 2000 và các văn bản
hướng dẫn không quy định rõ thừa kế chung hay tặng cho chung trong
khoảng thời gian nào cần phải hiểu rõ là chỉ những tài sản vợ chồng được
thừa kế chung hay tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân mới được coi là tài
21
sản chung của vợ chồng. Do đó, không thể coi tài sản mà vợ chồng được thừa
kế chung, được tặng cho chung trước khi kết hôn hoặc khi hôn nhân chấm dứt
là tài sản chung của vợ chồng (trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận).
Đối chiếu với BLDS Pháp và BLGĐ 1996 của Nga thì thấy, Pháp cũng
thừa nhận tài sản được tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng như
pháp luật Việt Nam: Nếu quà tặng là cho chung cả hai vợ chồng thì đó là
cộng đồng tài sản (Điều 1405) [1]. Mặc dù Pháp và Nga không quy định tài
sản được thừa kế chung, thừa kế riêng là tài sản chung hay tài sản riêng
nhưng dựa vào các căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng, chúng ta có thể
xác định các tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung là tài
sản chung Chẳng hạn, BLDS Pháp quy định: chủ sở hữu tài sản có quyền di
tặng toàn bộ hoặc một phần tài sản của mình cho người khác (Điều 1003,
Điều 1010) [1]. Hoặc Điều 36 BLGĐ 1996 của Nga quy định: Các tài sản mà
vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho riêng, thừa kế
riêng là tài sản riêng [3]
Thứ ba, dựa vào sự tự nguyện thoả thuận của vợ chồng: những tài
sản mà vợ, chồng thoả thuận là tài sản chung.
Căn cứ này được áp dụng trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng
trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân nhưng họ muốn nhập vào khối tài sản
chung của vợ chồng. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào khối tài sản
chung hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện, mong muốn của chủ sở hữu tài
sản và sự thoả thuận của hai vợ chồng mà không bị ảnh hưởng bởi việc xác
lập quan hệ hôn nhân, cũng không chịu sự chi phối bởi ý chí, sự lừa dối hay
cưỡng ép của vợ hoặc chồng trong gia đình. Quy định này không chỉ đảm bảo
quyền tự định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mình mà còn
nhằm khuyến khích việc xây dựng, củng cố chế độ tài sản chung của vợ
chồng, đáp ứng các nhu cầu chung của gia đình.
22
Khác với luật HN & GĐ Việt Nam, pháp luật của Pháp và Nga không
đề cập đến căn cứ này. Xuất phát từ quan điểm tuyệt đối hoá các quyền tự do
của con người, coi việc kết hôn như một liên minh kinh tế giữa vợ và chồng,
do đó các quốc gia này thừa nhận khi kết hôn các bên nam nữ có quyền lập
hôn ước để thoả thuận với nhau về phạm vi tài sản chung của vợ chồng và
phạm vi tài sản riêng của mỗi người (Chương 8)[3], (Thiên 5 chương 1)[1].
Hôn nhân Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở gắn kết tình cảm giữa một
người nam và một người nữ, do đó pháp luật Việt Nam không thừa nhận chế
độ hôn ước và coi những tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung là
tài sản chung của vợ chồng.
Thứ tư, dựa vào phương pháp suy đoán pháp lý:. Trong trường hợp
không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là
tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Phương pháp suy đoán pháp lý để xác định tài sản chung của vợ chồng
được pháp luật Việt Nam áp dụng trong các trường hợp có tranh chấp về tài
sản giữa vợ và chồng. Nếu một bên vợ hoặc chồng cho rằng tài sản đó là tài
sản riêng của mình thì phải có nghĩa vụ chứng minh, nếu không chứng minh
được thì tài sản đó được suy đoán là tài sản chung của vợ chồng.
Phương pháp này không chỉ được áp dụng ở Việt Nam mà còn được
pháp luật Pháp và Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan (BLDS - TM) áp
dụng để xác định tài sản chung của vợ chồng. Chẳng hạn, Điều 1474 khoản 3
BLDS - TM Thái Lan quy định: Trong trường hợp có nghi ngờ về việc một
tài sản có phải là tài sản riêng hay không, thì tài sản đó được coi là tài sản
chung. Hay BLDS Pháp: Mọi tài sản dù là động sản hay bất động sản, đều
được coi là thu nhập của cộng đồng tài sản, nếu không chứng minh được đó
là tài sản riêng của vợ hoặc chồng theo quy định của pháp luật ( Điều 1402)
[1 ]
23
Điểm mới của Luật HN &GĐ năm 2000 so với các Luật HN & GĐ
trước đây là quy định về quyền sử dụng đất của vợ chồng. Đây là một loại tài
sản mang những nét đặc thù riêng, có giá trị lớn hoặc đem lại thu nhập chính
cho vợ chồng. Vì vậy, để tránh những vướng mắc khi giải quyết các tranh
chấp về quyền sử dụng đất, Luật HN & GĐ năm 2000 quy định rõ: “Quyền sử
dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được
thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận” [14,tr.21]. Nếu
vợ chồng không có thoả thuận thì quyền sử dụng đất đương nhiên là tài sản
riêng của vợ, chồng và chỉ đứng tên một người. “Trường hợp quyền sử dụng
đất là tài sản chung của vợ và chồng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng”[12,tr.55].Tuy nhiên, khi có tranh
chấp về tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ chồng thì bên nào cho rằng đó
là tài sản riêng của mình phải có nghĩa vụ chứng minh. Chẳng hạn, như
chứng minh đó là tài sản được tặng cho riêng thì phải đưa ra được hợp đồng
tặng cho, được thừa kế riêng thì phải có di chúc; tài sản tạo lập riêng trước
hôn nhân thì căn cứ vào thời điểm xác lập quyền sử dụng đất được ghi trên
giấy tờ chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Trong trường
hợp không chứng minh được tài sản đang tranh chấp là tài sản riêng thì theo
quy định của pháp luật, tài sản đó được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Tóm lại, xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân là cùng chung ý
chí, cùng chung công sức trong việc tạo dựng khối tài sản chung bảo đảm cho
gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội, pháp luật Việt Nam xác định tài
sản chung của vợ chồng từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt và
những tài sản khác do vợ chồng thoả thuận hoặc do pháp luật quy định là tài
sản chung mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên trong việc
tạo dựng và phát triển khối tài sản chung đó. Vợ chồng đều có quyền chiếm
24
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của gia đình ngang nhau. Tài sản
chung của gia đình được chi dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình và thực
hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Chế độ tài sản chung của vợ chồng là
chế độ sở hữu chung hợp nhất đã được khẳng định tại Điều 233 của BLDS và
là nguyên tắc chủ đạo có ý nghĩa xuyên suốt toàn bộ Luật HN & GĐ Việt
Nam.
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa xã hội của chế độ tài sản chung của vợ chồng
Gia đình được xây dựng trên nền tảng của quan hệ hôn nhân. Khi quan
hệ vợ chồng được xác lập, thì cùng với các quyền, nghĩa vụ nhân thân, vợ
chồng có các quyền, nghĩa vụ tài sản theo quy định của pháp luật. Chế độ tài
sản chung của vợ chồng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng. ở
mỗi nhà nước khác nhau, chế độ tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa khác
nhau xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định.
Ở nhà nước Chiếm hữu nô lệ, chế độ tài sản chung của vợ chồng không
đặt ra, bởi vì, pháp luật của nhà nước chiếm hữu nô lệ được ban hành chỉ
nhằm mục đích thể hiện ý chí của chủ nô, bảo vệ mọi quyền lợi của chủ nô và
thực hiện quyền thống trị tuyệt đối của chủ nô đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Nho
giáo “trọng nam khinh nữ ”, đề cao lễ giáo và đạo đức phong kiến. Vì vậy,
chế độ tài sản chung của vợ chồng trong gia đình phong kiến chỉ có ý nghĩa
về mặt pháp lý (về hình thức giấy tờ) mà không có giá trị thực tiễn, thực chất
pháp luật phong kiến chỉ nhằm mục đích bảo vệ và củng cố chế độ gia đình
gia trưởng- người có toàn quyền nắm giữ và quyết định mọi vấn đề có liên
quan đến tài sản, đến lợi ích chung của vợ chồng và gia đình và hạ thấp vị trí
của người phụ nữ về mọi mặt.
25
Nhà nước Tư bản ra đời trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội TBCN,
cho nên hôn nhân theo pháp luật Tư bản chỉ là một “khế ước” giữa nam và nữ
trên cơ sở tiền tài và địa vị xã hội. Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo
pháp luật các nước tư bản chỉ có ý nghĩa đề cao vai trò của cá nhân, đề cao
quyền tự do, bình đẳng của từng người, bảo vệ sở hữu tư nhân. Vì vậy, hôn
nhân theo pháp luật các nước TBCN có bản chất khác hẳn với bản chất của
chế độ hôn nhân XHCN.
Nhà nước XHCN là nhà nước tiến bộ nhất trong lịch sử nhân loại. Khác
với bản chất của nhà nước Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, hôn nhân
theo pháp luật XHCN dựa trên cơ sở tình yêu chân chính và mục đích của nó
là nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc và bền vững. Hình
thức tổ chức gia đình XHCN là kiểu gia đình tiến bộ nhất trong lịch sử. Chế
độ tài sản của vợ chồng được pháp luật thừa nhận đó là chế độ tài sản chung,
không có sự phân biệt về nguồn gốc tài sản, nguồn thu nhập…Trong gia đình,
vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt khối tài sản chung của vợ chồng. Không chỉ có tài sản chung, vợ
chồng còn có quyền có tài sản riêng. Vì vậy, chế độ HN & GĐ nói chung và
chế độ tài sản chung của vợ chồng XHCN nói riêng đã tạo điều kiện cho vợ
chồng đóng góp công sức vào việc tạo lập và phát triển khối tài sản chung,
phát triển kinh tế gia đình và từng bước đảm bảo ổn định xã hội.
Là một trong những chế định rất quan trọng của Luật HN & GĐ Việt
Nam, chế độ tài sản chung của vợ chồng là sự phản ánh rõ nét các quy định
của Hiến pháp năm 1992, BLDS về chế độ tài sản chung của vợ chồng và
những đặc thù của chúng trong quan hệ HN & GĐ. Việc quy định chế độ tài
sản chung của vợ chồng trong Luật HN & GĐ có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
một mặt nhằm tạo ra cơ sở pháp lý để Nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý
và điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng. Mặt khác, nó còn khẳng định
26
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc định đoạt các vấn đề liên quan
đến tài sản chung của vợ chồng. Chế độ tài sản chung của vợ chồng không chỉ
tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng thực hiện quyền tự do, bình đẳng đối
với tài sản chung mà còn là cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm cho gia đình
thực hiện tốt các chức năng kinh tế, giáo dục con cái, đáp ứng mọi lợi ích của
vợ chồng và quyền lợi của những người liên quan, xác định rõ trách nhiệm
của các bên, khả năng thanh toán của vợ chồng trong các giao dịch với người
thứ ba. Ngoài ra, việc quy định chế độ tài sản chung của vợ chồng còn có ý
nghĩa là tạo cơ sở pháp lý giúp cho Toà án giải quyết các tranh chấp liên quan
đến tài sản chung của vợ chồng, đồng thời tạo sự thống nhất trong cách hiểu
thế nào là tài sản chung và áp dụng chúng trong các trường hợp cụ thể được
đúng đắn, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng.
1.2 ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VỢ CHỒNG VÀ VIỆC CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.2.1. Địa vị pháp lý của công dân và quyền bình đẳng nam nữ theo Hiến
pháp Việt Nam
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được hiểu là những quyền,
nghĩa vụ được Nhà nước quy định trong Hiến pháp - văn bản có hiệu lực pháp
lý cao nhất trong mỗi một Nhà nước. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
là cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở của mọi
quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi công dân.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngay trong phiên họp đầu tiên của
Chính Phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước chúng ta
bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém
phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ“.