Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận ở Việt Nam theo luật sở hữu trí tuệ năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 131 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ THỊ HÀ






BẢO HỘ NHÃN HIỆU CHỨNG NHẬN Ở VIỆT NAM
THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2014




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



VŨ THỊ HÀ





BẢO HỘ NHÃN HIỆU CHỨNG NHẬN Ở VIỆT NAM
THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh




HÀ NỘI - 2014



3




LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Vũ Thị Hà













4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt



Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN
HIỆU VÀ NHÃN HIỆU CHỨNG NHẬN
6
1.1.
Khái quát chung về nhãn hiệu với tư cách là đối tượng quyền
sở hữu công nghiệp
6
1.1.1.
Khái niệm nhãn hiệu
6
1.1.2.
Điều kiện bảo hộ với nhãn hiệu
14
1.1.3.
Phân loại nhãn hiệu
31
1.2.
Khái quát chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp với
nhãn hiệu chứng nhận
35
1.2.1.
Khái niệm nhãn hiệu chứng nhận và bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận

35
1.2.2.
Chức năng của nhãn hiệu chứng nhận
37
1.2.3.
Phân biệt nhãn hiệu chứng nhận với một số đối tượng sở hữu
công nghiệp khác
38
1.2.4.
Bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận theo các điều ước quốc tế và
pháp luật của một số quốc gia
46

Chương 2: BẢO HỘ NHÃN HIỆU CHỨNG NHẬN THEO QUI ĐỊNH
CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005
49
2.1.
Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận
49


5
2.2.
Xác lập quyền đối với nhãn hiệu chứng nhận
56
2.2.1.
Quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận
56
2.2.2.
Thủ tục đăng ký nhãn hiệu chứng nhận

58
2.3.
Nội dung quyền sở hữu công nghiệp với nhãn hiệu chứng nhận
63
2.3.1.
Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận và các tổ chức
cá nhân được phép sử dụng nhãn hiệu chứng nhận
63
2.3.2.
Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận và các tổ
chức cá nhân được phép sử dụng nhãn hiệu chứng nhận
66
2.3.3.
Thời hạn bảo hộ với nhãn hiệu chứng nhận
67
2.4.
Chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp với nhãn hiệu chứng nhận
69
2.4.1.
Chuyển nhượng quyền sở hữu
69
2.4.2.
Chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận
71
2.5.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp với nhãn hiệu chứng nhận
74
2.5.1.
Khái niệm và đặc điểm bảo vệ quyền sở hữu với nhãn hiệu
chứng nhận

74
2.5.2.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu chứng nhận
75
2.5.3.
Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp với nhãn
hiệu chứng nhận
80

Chương 3: THỰC TIỄN BẢO HỘ NHÃN HIỆU CHỨNG NHẬN Ở
VIỆT NAM VÀ CÁC PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO HỘ
91
3.1.
Thực trạng bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận tại Việt Nam
91
3.1.1.
Hoạt động xác lập quyền đối với nhãn hiệu chứng nhận
91
3.1.2.
Hoạt động khai thác, sử dụng, quản lý nhãn hiệu chứng nhận
95
3.1.3.
Hoạt động chuyển giao quyền sở hữu đối với nhãn hiệu
chứng nhận
99


6

3.1.4.
Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp với nhãn hiệu
chứng nhận
101
3.2.
Đánh giá hoạt động bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận tại Việt Nam
103
3.2.1.
Những thành tựu đã đạt được
103
3.2.2.
Những mặt còn tồn tại
105
3.3.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận
108
3.3.1.
Định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận
108
3.3.2.
Kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ
về bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận
109
3.3.3.
Kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật bảo hộ
nhãn hiệu chứng nhận tại Việt Nam hiện nay
113


KẾT LUẬN
118

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
119


7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật Dân sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
NHCN
: Nhãn hiệu chứng nhận
NHHH
: Nhãn hiệu hàng hóa
SHCN
: Sở hữu công nghiệp
SHTT
: Sở hữu trí tuệ
WIPO
: Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
WTO
: Tổ chức Thương mại thế giới




8



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
3.1
Tổng kết đơn nhãn hiệu nộp tại Việt Nam giai đoạn
1982-2012
92
3.2
Tổng kết số văn bằng bảo hộ đã được cấp tại Việt Nam
giai đoạn 1982-2012
92



9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đặc
biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
người tiêu dùng Việt Nam đã và đang đứng trước sự đa dạng, phong phú của

các loại hàng hóa, dịch vụ. Việc lựa chọn một hàng hóa, dịch vụ đặc biệt là
những hàng hóa, dịch vụ đảm bảo chất lượng được cung cấp bởi một chủ thể
nào đó đối với người tiêu dùng sẽ trở nên khó khăn hơn nếu như không có
dấu hiệu để phân biệt. Nhãn hiệu với tư cách là dấu hiệu để phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau đã làm được điều đó. Hơn
thế nữa, nhãn hiệu còn là một "Giấy chứng nhận" về uy tín, khẳng định vị trí
của các cá nhân, tổ chức kinh doanh trên thị trường. Chính vì nhận biết được
tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu đối với quyền lợi của chính các
chủ thể kinh doanh, cung cấp dịch vụ cũng như đối với người tiêu dùng, nên
hiện nay, việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa (NHHH), dịch vụ đang được hết
sức quan tâm chú trọng.
Trên thực tế, có những loại hàng hóa, dịch vụ giống nhau hoặc khác
nhau, được cung cấp bởi một hay nhiều chủ thể khác nhau và đáp ứng được
một số điều kiện nhất định nào đó, chẳng hạn về đặc tính xuất xứ, nguyên vật
liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng…
Việc phân biệt các loại hàng hóa dịch vụ nói trên với các loại hàng hóa dịch
vụ của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác được đảm bảo thông qua nhãn
hiệu chứng nhận (NHCN).
Những nhãn hiệu này đã và đang góp phần to lớn vào sự phát triển
chung của nền kinh tế quốc gia. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải có một
cách nhìn nhận đúng đắn và có sự quan tâm cần thiết để bảo hộ đối tượng này
một cách hiệu quả và kịp thời trên thực tế.


10
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung và lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) nói
riêng. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều Điều ước quốc tế
về bảo hộ nhãn hiệu như Công ước Paris về sở hữu công nghiệp (SHCN),
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (Hiệp

định TRIPS), Thỏa ước Madrit về Đăng ký quốc tế NHHH và Nghị định thư
liên quan đến Thỏa ước này…. Những qui định của các văn bản này về cơ bản
cũng đã được chuyển hóa và vận dụng một cách phù hợp trong hệ thống pháp
luật quốc gia, đặc biệt là trong Luật SHTT năm 2005, được sửa đổi bổ sung
năm 2009.
Việc áp dụng quy định về bảo hộ nhãn hiệu nói chung và NHCN nói
riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, những vi phạm liên
quan đến nhãn hiệu và NHCN vẫn đang diễn ra rất phổ biến, ngày càng phức
tạp, ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ sở hữu cũng như người tiêu dùng và
toàn xã hội. Có thể nói, những thành tựu mà Việt Nam đạt được còn mang
tính vĩ mô nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả
những nhu cầu thực tiễn mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ
NHCN. Hơn nữa, việc bảo hộ NHCN còn có ý nghĩa rất lớn không chỉ với
chủ sở hữu nhãn hiệu, mà còn với người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng
và với toàn xã hội. Đầu tiên, thông qua việc bảo hộ sẽ khuyến khích sự sáng
tạo, đẩy mạnh sản xuất tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị
cho xã hội; thứ hai, sẽ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, giúp người tiêu
dùng có cơ hội lựa chọn những mặt hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao; thứ ba,
sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài
Do vậy, việc nghiên cứu, bảo hộ NHCN ở Việt Nam đang là một việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tác
giả đã lựa chọn đề tài: "Bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận ở Việt Nam theo
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005" làm luận văn tốt nghiệp của mình.


11
2. Tình hình nghiên cứu
Bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói chung và NHCN nói riêng
đang là một vấn đề nóng trong thực tiễn cuộc sống và một vấn đề đáng quan

tâm trong hệ thống pháp luật. Thực tế, trong thời qua ở Việt Nam cũng đã có
một số luận văn, luận án, bài viết, công trình nghiên cứu bình luận, lý giải về
vấn đề này. Có thể kể đến một số như: Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật
Hà Nội: "Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu hàng hóa theo qui định của pháp luật dân sự" của Vũ Thị Hải Yến,
2001; Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội: "Pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam - thực
trạng và giải pháp" của Hồ Ngọc Hiển, 2004; Luận văn thạc sĩ "So sánh pháp
luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam với các Điều ước quốc tế và
pháp luật của một số nước công nghiệp phát triển" của Vũ Thị Phương Lan;
Luận văn thạc sĩ "Bảo hộ Nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam" của
tác giả Trần Nguyệt Minh. Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà
Nội: "Bảo hộ nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận tại Việt Nam - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Văn Thanh Phương, 2011; Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia năm 2002: "Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ trên thế giới và
phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa,
nhãn hiệu dịch vụ" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Quế Anh; bài viết "Một số vấn đề
về Nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng" của Nguyễn Như Quỳnh (Tạp chí Luật học,
số 2-2001); bài viết: "Bảo hộ Nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam" của Thạc sĩ Lê
Hoài Dương (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10-2003)…
Tuy vậy, mỗi công trình nghiên cứu là một sự khai thác, đánh giá các
khía cạnh khác nhau, nhìn nhận vấn đề dưới các góc độ khác nhau.
Với công trình của mình, tác giả sẽ tiếp cận vấn đề một cách tổng
quan về lý luận cũng như thực tiễn bảo hộ NHCN tại Việt Nam trong những
năm gần đây. Qua đó, đánh giá một cách cụ thể hơn những kết quả đã đạt


12
được về công tác bảo hộ trong thời gian vừa qua và những giải pháp đưa ra sẽ

là cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới. Do đó, công trình sẽ
không phải là sự lặp lại của bất kỳ công trình nào trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trên thực tế, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lý luận cũng
như thực tiễn của việc bảo hộ quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong đó có bao
hàm cả NHCN. Nhưng lại chưa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu, đánh
giá về thực trạng bảo hộ quyền SHTT đối với NHCN tại Việt Nam. Mà như
chúng ta biết, việc nghiên cứu tình hình bảo hộ, thực trạng xâm phạm quyền
SHCN đối với NHCN là một nhu cầu tất yếu để hoàn thiện pháp luật, tạo môi
trường pháp lý an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư
trong và ngoài nước; đồng thời cũng là một cách bảo vệ hữu hiệu quyền lợi
của người tiêu dùng.
Do vậy, thông qua đề tài này, tác giả sẽ nghiên cứu một cách hệ thống
các qui định của pháp luật liên quan tới việc bảo hộ NHCN ở Việt Nam. Với
việc đưa ra các số liệu thực tế, các vụ việc cụ thể về bảo hộ NHCN trong thời
gian gần đây mà các công trình nghiên cứu trước chưa đề cập hoặc chưa cập
nhật, tác giả muốn làm rõ thực trạng việc bảo hộ NHCN ở Việt Nam trong
những năm qua, đánh giá về những kết quả đạt được và những vấn đề còn hạn
chế, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị giúp hoàn thiện chính sách
pháp luật của Nhà nước đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu và người có liên quan.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết
được những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Những vấn đề lý luận chung về bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn
hiệu và NHCN.
- Bảo hộ NHCN theo qui định của Luật SHTT năm 2005.
- Thực tiễn bảo hộ NHCN ở Việt Nam và các phương hướng, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ.


13

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề lý luận về bảo hộ
NHCN tại Việt Nam, thực trạng các qui định của pháp luật hiện hành về bảo
hộ NHCN, những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong cơ chế bảo vệ quyền và
phương hướng, giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp luật.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài đi sâu nghiên cứu các qui
định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu đối với NHCN và thực trạng bảo
hộ NHCN tại Việt Nam trong những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận sử dụng chung cho mọi đề tài khoa học là phương
pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin và luận văn này cũng
không nằm ngoài thông lệ đó. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương
pháp bổ trợ như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình
thực tế nhằm có cái nhìn vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Thông
qua đó, rút ra những ưu điểm, những hạn chế trong qui định của pháp luật và
thực tế áp dụng pháp luật. Từ đó, có những giải pháp, kiến nghị, hoàn thiện
các quy định đó cho phù hợp với thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể có liên quan.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu và nhãn hiệu chứng nhận.
Chương 2: Bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận theo qui định của Luật sở
hữu trí tuệ năm 2005.
Chương 3: Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận ở Việt Nam và các
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ.


14

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ NHÃN HIỆU CHỨNG NHẬN

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VỚI TƢ CÁCH LÀ ĐỐI
TƢỢNG QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu
Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, xã hội hiện nay, khái
niệm NHHH, nhãn hiệu dịch vụ chắc hẳn đã không còn xa lạ với hầu hết mọi
người, từ các cá nhân, tổ chức có hoạt động sản xuất kinh doanh lớn, nhỏ tới
những người tiêu dùng, sử dụng hàng hóa, dịch vụ hàng ngày. Nhưng uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường có được khẳng định thông qua việc sử dụng
các NHHH, dịch vụ hay không, lại phụ thuộc vào cả một quá trình dài xây
dựng, phát triển và gìn giữ.
Từ những tài liệu nghiên cứu, những công trình khảo cổ học, người ta
xác định được nhãn hiệu có từ thời kì cổ đại. Thời đó, có những thương gia
sáng tạo đã biết bán hàng hóa ra bên ngoài khu vực sinh sống của họ, thậm
chí còn tới những vùng rất xa xôi để thu lợi nhuận. Chẳng hạn, những người
thợ thủ công Ấn Độ, đã từng chạm khắc chữ ký của mình lên các sản phẩm
thủ công mỹ nghệ, đồ gốm sứ trước khi gửi hàng tới Iran vào khoảng thời
gian cách đây 3000 năm. Còn những nhà sản xuất Trung Quốc đã bán hàng
hóa của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước, và cũng thời gian này, có
rất nhiều sản phẩm đồ gốm của La Mã đã được sử dụng [39].
Bước sang thời Trung Cổ, nhờ việc kinh doanh phát đạt, hàng hóa sản
xuất ngày càng phong phú, đa dạng mà việc sử dụng dấu hiệu để phân biệt
hàng hóa của các thương gia, các nhà sản xuất khác nhau đã khá phát triển.


15

Tuy vậy, ở thời kỳ này, nhãn hiệu mới chỉ được coi là những dấu hiệu để
phân biệt khá đơn giản, ý nghĩa kinh tế vẫn còn hạn chế.
Khi nền sản xuất hàng hóa ngày càng hoàn thiện và phát triển, đặc biệt
là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và thương mại quốc tế đã
dẫn tới yêu cầu cần phải đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, trình độ quản
lý… từ đó việc sản xuất đã phát triển hơn, sản phẩm làm ra nhiều, chất lượng
ngày càng được đảm bảo đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Đến
thời điểm nhất định, khi mà sản phẩm được sản xuất hàng loạt, các loại hình
dịch vụ mọc lên như nấm sau mưa, mà hình thức, chất lượng, giá cả lại không
khác nhau đáng kể, thì bản thân các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ
phải tìm ra được một dấu hiệu đặc biệt, ấn tượng, dễ ghi nhớ để người tiêu
dùng có thể biết đến, nhớ tới mình, và có thể phân biệt được với các hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, một người tiêu
dùng thông thái cũng cần được biết và nên biết các thông tin cơ bản về loại
hàng hóa, dịch vụ mà mình đang sử dụng, đang lựa chọn do đơn vị nào cung
cấp, đặc tính chất lượng ra sao, họ cần được hướng dẫn, để từ đó giúp họ suy
xét giữa các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn cho mình một mặt hàng
nào đó, phù hợp nhất với nhu cầu sử dụng và túi tiền của mình trong số những
hàng hóa, dịch vụ cạnh tranh nói trên. Từ đó dẫn tới nhu cầu, cần phải đặt tên
cho các loại hàng hóa, dịch vụ đó. Xuất phát từ nhu cầu này mà nhãn hiệu ra đời.
Bằng việc giúp người tiêu dùng, quyết định lựa chọn giữa những hàng
hóa, dịch vụ đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu khuyến khích chủ
sở hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng của các sản phẩm đáp
ứng nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng, từ đó khẳng định được vị trí
của mình trên thị trường. Thông qua nhãn hiệu, uy tín của các nhà sản xuất,
kinh doanh đối với khách hàng của mình được thực hiện, còn người tiêu dùng thì
đang dần hình thành ý thức mua sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng thông
qua nhãn mác cụ thể. Chính vì vậy, việc đưa ra nền tảng pháp lý vững chắc
cho nhãn hiệu là một việc hết sức cần thiết mà quốc gia nào cũng nên lưu tâm.



16
1.1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu theo qui định của Điều ước quốc tế và
pháp luật của một số quốc gia
Hiện nay có khá nhiều các điều ước quốc tế song phương và đa phương
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu, tuy nhiên khái niệm nhãn hiệu
vẫn chưa được hiểu thống nhất ở các quốc gia. Về vấn đề này, chúng ta có thể
tham khảo một số khái niệm như sau:
Theo quan niệm của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO):
Dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa dịch vụ của doanh
nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc của một nhóm các doanh
nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ số,
hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc, hoặc sự kết hợp các màu sắc,
hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm.
Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu
hàng hóa chỉ được chấp thuận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân
hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử
dụng hoặc nhãn hiệu đó không được trùng hoặc tương tự đến mức
gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác được đăng ký trước đó cho
cùng loại sản phẩm [16].
Định nghĩa NHHH trên đây của WIPO xác định các điều kiện về bản
chất của NHHH. Định nghĩa này được thể hiện trong Hiệp định về các khía
cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (Hiệp định TRIPS), cụ thể,
tại Khoản 1 Điều 15 của Hiệp định TRIPS:
Bất kì một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả
năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với
hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn
hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng,
các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp màu sắc cũng
như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng

ký là nhãn hiệu hàng hóa [16].


17
Theo khái niệm này, nhãn hiệu có những đặc điểm như: Thứ nhất, đó
phải là một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu. Thứ hai, các dấu hiệu đó có
thể là dấu hiệu nhìn thấy được, cũng có thể là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng
được đăng ký là nhãn hiệu (theo quy định này thì mùi hương hay âm thanh
hoàn toàn có khả năng trở thành NHHH cho sản phẩm). Thứ ba, các dấu hiệu
đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp
này với hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp khác.
Theo Cộng đồng Châu Âu, Định nghĩa về nhãn hiệu được quy định ở
Điều 2 Chỉ thị 89/104 và Điều 4 Quy định 40/94 là:
Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào
được trình bày một cách rõ ràng và chi tiết (represented graphically),
đặc biệt là các từ, bao gồm tên riêng, các phác họa hình ảnh, chữ
viết, chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc của bao bì sản phẩm, với
điều kiện là những dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của
các chủ thể kinh doanh khác [15].
Theo định nghĩa này, nhãn hiệu phải đáp ứng ba điều kiện. Thứ nhất:
"là dấu hiệu"; thứ hai: "được trình bày rõ ràng và chi tiết" (represented
graphically) và thứ ba: "có khả năng phân biệt hàng hóa và dịch vụ của chủ
thể này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác".
Theo một định nghĩa được sử dụng trên trang Wed chính thức của Văn
phòng Nhãn hiệu và sáng chế Hoa Kỳ (USPTO): NHHH là bất kỳ từ ngữ, tên
gọi, một biểu tượng hay hình vẽ hay bất kỳ sự kết hợp nào của chúng được sử
dụng hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để xác định nguồn gốc hàng hóa
và phân biệt những hàng hóa đó với hàng hóa của các nhà sản xuất hoặc nhà
phân phối khác. Nói cách khác, theo định nghĩa trên, nhãn hiệu có thể được

hiểu như tên thương mại.
Theo pháp luật nhãn hiệu của EU, khái niệm nhãn hiệu được sử dụng
thống nhất cho cả hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, nhãn hiệu có thể bao gồm


18
bất kỳ dấu hiệu nào có thể được trình bày một cách vật chất và riêng biệt dưới
dạng từ ngữ, bao gồm tên riêng, các thiết kế, chữ cái, con số, hình dáng hay
bao bì hàng hóa, có khả năng phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của một chủ thể
này với hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác.
Có thể thấy, tất cả các định nghĩa về nhãn hiệu nêu trên đều quy định
các đặc điểm khái quát nhất, chung nhất về nhãn hiệu. Mỗi quốc gia, khi áp
dụng, đều gắn vào điều kiện, hoàn cảnh trực tiếp của nước mình để quy định,
vận dụng cho phù hợp.
Như vậy, theo qui định của Điều ước quốc tế và pháp luật của một số
quốc gia có thể thấy nhãn hiệu có một số đặc điểm đặc trưng như sau: Thứ
nhất, nhãn hiệu là những dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu. Thứ hai, nhãn
hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ thể này, với hàng hóa
dịch vụ của chủ thể khác.
1.1.1.2. Khái niệm nhãn hiệu theo qui định của pháp luật Việt Nam
Tại Việt Nam, khái niệm nhãn hiệu mới xuất hiện từ khoảng hơn 30
năm trở lại đây, với việc mở cửa nền kinh tế, tăng tốc cạnh tranh và nhất là
với sự xâm nhập của các hàng hóa nước ngoài. Trong bối cảnh đó, nhãn hiệu
đang dần chiếm một chỗ đứng vững chắc và ngày càng được khách hàng cân
nhắc đến khi lựa chọn sản phẩm.
Văn bản quy phạm pháp đầu tiên ở nước ta quy định chi tiết về bảo hộ
NHHH là Điều lệ về NHHH, ban hành kèm theo Nghị định 197/HĐBT ngày 14
tháng 12 năm 1982, đã được sửa đổi bổ sung tại Nghị định 84/HĐBT ngày 20
tháng 03 năm 1990 về việc sửa đổi bổ sung Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ
thuật - hợp lý hóa sản xuất và sáng chế, Điều lệ về NHHH, Điều lệ về giải

pháp hữu ích, Điều lệ về kiểu dáng công nghiệp, Điều lệ về mua bán li-
xăng…do Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ) ban hành.
Theo đó, tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 197/HĐBT quy định: "Nhãn
hiệu hàng hóa được bảo hộ pháp lý là những dấu hiệu được chấp nhận có thể


19
là từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ, hình nổi hoặc là sự kết hợp các yếu tố trên,
được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc kết hợp" [19]. Theo quy định
này, một nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ pháp lý chỉ cần là "dấu hiệu được
chấp nhận…" nhưng thuật ngữ "dấu hiệu được chấp nhận" trong khái niệm
này không rõ ràng, gây khó hiểu cho các chủ sở hữu nhãn hiệu khi lựa chọn
các dấu hiệu để đăng ký nhãn hiệu.
Đến ngày 28 tháng 01 năm 1989, Hội đồng Nhà nước đã thông qua
Pháp lệnh bảo hộ SHCN. Tại khoản 4 Điều 4 của Pháp lệnh, khái niệm NHHH
được quy định như sau: "Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân
biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác
nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu
tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc" [21]. Khái niệm này đã
khắc phục được hạn chế của khái niệm NHHH trong Nghị định 197/HĐBT
khi quy định về dấu hiệu phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của nhãn hiệu,
đây là quy định tiến bộ và còn được áp dụng ở các văn bản pháp luật sau này.
Tuy nhiên, các dấu hiệu được quy định dùng làm NHHH còn rất hạn chế: "có
thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một
hoặc nhiều màu sắc" [19].
Pháp lệnh này cùng các văn bản khác đã đặt nền tảng cho một hệ thống
văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bảo hộ quyền SHCN nói chung và nhãn
hiệu nói riêng. Tuy nhiên, hệ thống các quy định nằm rải rác, tản mạn trong
rất nhiều văn bản, chủ yếu là các văn bản dưới luật, hiệu lực thi hành không
cao, từ đó gây khó khăn cho cơ quan nhà nước cũng như cho người thi hành.

Đến năm 1995, khái niệm NHHH được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất đó là Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 1995. Điều 785 BLDS 1995 đã quy định: "Nhãn hiệu hàng hóa là những
dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh
hoặc kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc" [26].


20
Khái niệm này tương tự như khái niệm quy định tại Pháp lệnh bảo hộ SHCN.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng khái niệm NHHH quy định trong BLDS 1995 là
khá phù hợp với quy định trong Hiệp định TRIPs khi đưa ra hai nội dung:
Nội dung thứ nhất: Quy định NHHH là dấu hiệu. Dấu hiệu dùng làm
NHHH, dịch vụ có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp các yếu tố đó được
thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Tuy nhiên, các dấu hiệu được quy
định dùng làm NHHH trong BLDS 1995 là rất hạn chế (từ ngữ, hình ảnh hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó) so với các quy định phong phú và mở rộng của
TRIPs (bất kì một dấu hiệu nào kể cả chữ cái, chữ số cũng được coi là dấu
hiệu được bảo hộ). Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có ít sự lựa chọn
hơn khi xây dựng NHHH, họ không thể chọn các dấu hiệu nằm ngoài các dấu
hiệu đã được liệt kê tại Điều 785 BLDS 1995.
Nội dung thứ hai: Quy định về chức năng và mục đích của NHHH là
để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh
khác nhau.
Trong khi đó, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là một Hiệp
định thương mại song phương giữa Việt Nam ký kết với nước ngoài lần đầu
tiên có ghi nhận và quy định quyền SHTT trong một chương riêng (Chương II)
với 18 điều, trong đó có Điều 6 đề cập cụ thể riêng về NHHH. Cụ thể, theo
quy định tại Khoản 1 Điều 6:
Nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ

hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của
người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ số, tổ hợp
màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình
dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm nhãn hiệu
dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận [5].
Như vậy, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đưa ra khái niệm
NHHH có tính xác định các loại dấu hiệu, nhưng đã được mở rộng hơn so với


21
qui định của BLDS 1995. Ngoài ra, Hiệp định còn phân loại nhãn hiệu thành
NHHH, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, NHCN, trong khi theo quy định
tại Điều 785 BLDS 1995 khi đề cập đến NHHH, không chỉ rõ có bao gồm
nhãn hiệu dịch vụ hay không và vấn đề này chỉ được quy định tại Điều 2.7
Nghị định 63/CP ban hành ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về SHCN. Khái
niệm NHHH này đã thể hiện được tinh thần của Hiệp định TRIPs.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế, sự ra đời BLDS 2005 và đặc biệt Luật SHTT được Quốc hội
khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2006 đánh dấu bước phát triển
của pháp luật SHTT Việt Nam. Cùng với đó, nhãn hiệu được nhìn nhận một
cách đầy đủ và chi tiết hơn. Cùng với Luật SHTT 2005, còn có các văn bản
pháp luật điều chỉnh về nhãn hiệu nói riêng và SHCN nói chung đó là: Nghị
định của Chính phủ số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về SHCN và
Thông tư của Bộ khoa học và Công nghệ số 01/2007/TT-BKHCN ngày
14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006.
Theo quy định cụ thể tại Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT Việt Nam 2005
phần giải thích từ ngữ: "Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" [30]. Ðây là một quy định đã

mang tính khái quát hơn rất nhiều so với qui định của BLDS 1995 khi sử
dụng thuật ngữ "nhãn hiệu" thay cho "nhãn hiệu hàng hóa". Việc sử dụng
thuật ngữ "nhãn hiệu" để thay cho thuật ngữ "nhãn hiệu hàng hóa" trong hệ
thống pháp luật hiện hành đã tránh được tình trạng dễ gây sự hiểu lầm là thuật
ngữ "nhãn hiệu hàng hóa" chỉ được sử dụng cho hàng hóa mà không bao gồm
nhãn hiệu sử dụng trong dịch vụ của người áp dụng (trong Nghị định số
63/CP đã phải có giải thích "nhãn hiệu hàng hóa được hiểu là bao gồm cả
nhãn hiệu dịch vụ"). Đồng thời, việc sử dụng thuật ngữ "nhãn hiệu" còn phù
hợp với các thuật ngữ được sử dụng cho các loại nhãn hiệu khác như "nhãn
hiệu tập thể", "nhãn hiệu liên kết", "nhãn hiệu nổi tiếng".


22
Cũng theo quy định tại Khoản 16 Điều 4: "Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng
để phân biệt ", tuy nhiên, không phải bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt cũng có thể trở thành nhãn hiệu, theo Điều 72 Luật SHTT thì một dấu
hiệu phải đáp ứng đủ hai điều kiện sau mới được coi là nhãn hiệu:
Thứ nhất, phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ,
hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể
hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;
Thứ hai, phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Như vậy, Điều 72 Luật SHTT đã làm rõ về các dấu hiệu có thể được bảo
hộ là nhãn hiệu. Theo đó, nhãn hiệu trước hết phải là một dấu hiệu, dấu hiệu này
phải được nhìn thấy dưới dạng chữ cái từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình
ba chi

u ho

c s


k
ế
t h

p các y
ế
u t


đ
ó,
đ ư ợ
c th


hi

n b

ng m

t ho

c nhi

u m

u
sắc; thứ hai, nhãn hiệu phải có

khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng
hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Đây là hành lang pháp lý cần thiết để các nhà
sản xuất, kinh doanh tạo lập một nhãn hiệu phù hợp.
Từ những nội dung phân tích nói trên, có thể rút ra khái niệm nhãn
hiệu như sau: Nhãn hiệu là dấu hiệu được nhìn thấy dưới dạng chữ cái từ
ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó,
được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc và có khả năng phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của các tổ chức cá nhân khác nhau.
1.1.2. Điều kiện bảo hộ với nhãn hiệu
Một nhãn hiệu muốn được bảo hộ về mặt pháp lý, thì nó phải đáp ứng
được các điều kiện nhất định. Không phải bất cứ một dấu hiệu nào cứ có khả
năng phân biệt thì đều được chấp nhận bảo hộ như là một nhãn hiệu. Và để
tạo thuận lợi cho các nhà sản xuất, kinh doanh khi có nhu cầu đăng ký nhãn
hiệu cho sản phẩm, dịch vụ của mình cũng như cho các cơ quan đăng ký khi


23
phải xem xét, tra cứu, đánh giá những dấu hiệu đó có khả năng đăng ký làm
nhãn hiệu hay không, thì điều kiện bảo hộ đối với một nhãn hiệu phải được
xác định rõ ràng trong luật. Đáp ứng nhu cầu đó, tại Mục 4 Chương VII Phần
thứ ba Luật SHTT 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định chi
tiết các điều kiện bảo hộ với một nhãn hiệu.
Theo Điều 72 Luật SHTT 2005, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng
các điều kiện: "(1) là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình
vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện
bằng một hoặc nhiều màu sắc và (2) có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác" [30].
1.1.2.1. Điều kiện thứ nhất: Là dấu hiệu nhìn thấy được
Dấu hiệu nhìn thấy được có nghĩa là con người chỉ có thể nhận thức
được, nắm bắt được về chúng qua khả năng thị giác của con người. Người tiêu

dùng qua quan sát, nhìn ngắm để phát hiện ra loại hàng hóa, dịch vụ có gắn
với nhãn hiệu đó để lựa chọn. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 72 Luật SHTT
2005 và điểm 39.2 Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 của
Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP
ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật SHTT về SHCN (sau đây gọi là Thông tư 01/2007) thì dấu hiệu
nhìn thấy được được thể hiện dưới các dạng chữ cái, chữ số, từ ngữ, hình vẽ,
hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện
bằng một hoặc một số màu sắc nhất định.
Trên thế giới, theo pháp luật về SHTT của một số quốc gia, ngoài dấu
hiệu có thể nhìn thấy được thông qua "thị giác", các nước này còn quy định các
dấu hiệu khác cũng có khả năng được bảo hộ. Đó là những dấu hiệu về âm
thanh có thể được nắm bắt thông qua "thính giác" (chẳng hạn ở Hoa Kỳ, các
nhãn hiệu âm thanh được phép đăng ký. Những âm thanh này, sẽ được thu vào
băng cát - xét và nộp cho cơ quan sáng chế và cơ quan NHHH của Hoa Kỳ)
hoặc dấu hiệu về mùi hương được cảm nhận thông qua "khứu giác" (Hoa Kỳ


24
cũng là nước đầu tiên công nhận việc đăng ký một nhãn hiệu mùi vị. Ví dụ
mùi thơm tươi mát của hoa Plumeria dùng cho chỉ may và thêu ren - TTAB
(1990) hay nhãn hiệu mùi "mùi cỏ tươi mới cắt" cho bóng tennis cũng được
công nhận theo quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hài hòa hóa thị
trường nội địa của Cộng đồng châu Âu ngày 11 tháng 02 năm 1999) [39].
Ở Việt Nam hiện nay, các dấu hiệu về âm thanh, mùi vị, chưa được
bảo hộ với danh nghĩa là một nhãn hiệu.
* Dấu hiệu là chữ cái, chữ số
Theo Từ điển tiếng Việt, chữ cái được hiểu là dấu hiệu dùng để ghi
âm vị trong chữ viết ghi âm, còn chữ số là ký hiệu cơ bản dùng để viết các số.
Đây là những dấu hiệu được sử dụng phổ biến để đăng ký nhãn hiệu. Bởi sự

dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và điều quan trọng là dấu hiệu thông dụng, quen
thuộc không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn đối với các thương nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Thực tế hiện nay cho thấy đa số các nhãn
hiệu được bảo hộ dưới hình thức chữ số, chữ cái hoặc sự kết hợp giữa chúng.
Tập hợp các chữ cái, chữ số có thể ghép lại thành từ hoặc ngữ có
nghĩa hoặc không có nghĩa. Nhãn hiệu chữ có thể chỉ bao gồm chữ viết (như
P/S, ACCECOOK, Trung Nguyên), có thể bao gồm cả chữ và số (Nhãn hiệu
G7, hình " " được bảo hộ theo Giấy chứng nhận số 63805 của Công ty
trách nhiệm hữu hạn Cà phê Trung Nguyên; Nhãn hiệu Phở 24 và hình
" " được bảo hộ theo Giấy chứng nhận số 91862 của Công ty cổ phần
sản xuất thương mại dịch vụ phở Hai Mươi Bốn).
* Dấu hiệu từ ngữ


25
Theo Từ điển tiếng Việt thì từ ngữ phải "bao gồm tập hợp các chữ cái
có thể ghép lại thành từ và ngữ có nghĩa hoàn chỉnh và nói lên ý nghĩa nhất
định". Thông thường, chúng ta có bốn cách đặt tên nhãn hiệu:
Thứ nhất là sáng tạo, sử dụng các chữ cái thông thường, kết hợp các chữ
cái đó, thành một từ mới phát âm được và không có trong từ điển, không có
nguồn gốc thực và không có nghĩa. Ví dụ: KODAK, NOKIA, SAMSUNG
Mặc dù đều là những từ ngữ không có nghĩa, và thường không phải là thứ
giới tiếp thị ưa chuộng bởi phải đầu tư nhiều hơn cho quảng cáo để giới thiệu
chúng tới người tiêu dùng nhưng chúng lại được đánh giá là có tính phân biệt
cao, lại khá độc đáo nên tự thân những nhãn hiệu này lại đưa đến khả năng
bảo hộ rất mạnh.
Thứ hai là sử dụng danh từ chung thông dụng trong ngôn ngữ hàng
ngày để truyền tải một ý nghĩa không liên quan tới các sản phẩm gắn nhãn
hiệu đó. Chẳng hạn: CAMEL cho sản phẩm thuốc lá, hay nhãn hiệu APPLE
cho máy tính. Hoặc sử dụng những danh từ riêng có ý nghĩa nào đó với bản

thân doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Ví dụ: Duy Lợi cho sản phẩm võng
xếp, hay Minh Ngọc cho sản phẩm Bánh Đậu Xanh….
Thứ ba là sử dụng từ ghép tức là sử dụng các từ hiện dùng có nghĩa,
ghép lại với nhau thành các từ không có nghĩa về tổng thể, Ví dụ: GreenLife.
Thứ tư là sử dụng các từ viết tắt là những chữ cái thông thường, có thể
là chữ cái đầu tiên của tên công ty (AIA của Công ty American International
Assurance Company Limited; IBM của Công ty International Business
Machines Corporation) hay mang một thông điệp nào đó như LG của Công ty
LG Corp với thông điệp Life’s Good



×