Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Di sản dùng vào việc thờ cúng theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 96 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Khoa luật




Lê Quang Hậu


Di sản dùng vào việc thờ cúng theo pháp luật Việt nam

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30




Luận Văn Thạc sỹ Luật Học






Ng-ời h-ớng dẫn khoa học : TS. Phạm Công Lạc













Hà Nội -năm 2007


1
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
01
Chương 1. Những vấn đề chung về thờ cúng và di sản dùng vào việc
thờ cúng
05
1.1. Nguồn gốc và truyền thống thờ cúng
05
1.2. Một số hình thức thờ cúng
15
1.3. Khái niệm thờ cúng và tài sản thờ cúng
18
1.3.1. Khái niệm thờ cúng
18
1.3.2. Tài sản thờ cúng
20
1.4. Di sản thừa kế và di sản dùng vào việc thờ cúng
22

1.4.1. Di sản thừa kế
22
1.4.2. Di sản dùng vào việc thờ
cúng
25
1.5. Thờ cúng và di sản dùng vào việc thờ cúng qua các thời
kỳ
27
1.5.1.Thời kỳ Nhà nước phong kiến với hai Bộ luật nổi tiếng là Quốc
triều Hình luật (Luật Hồng đức) và Bộ luật Gia long (Hoàng Việt Luật
lệ)
27
1.5.2. Di sản dùng vào việc thờ cúng theo Bộ luật dân sự Bắc kỳ và Bộ
luật dân sự Trung kỳ
29
1.5.3. Di sản dùng vào việc thờ cúng trước khi có Pháp lệnh thừa kế và
theo Pháp lệnh thừa kế
31
1.6. Di sản dùng vào việc thờ cúng theo pháp luật một số nước
33
Chương 2. Di sản dùng vào việc thờ cúng theo Bộ luật dân sự năm
2005
35
2.1. Di sản dùng vào việc thờ cúng
35


2
2.1.1. Mối quan hệ giữa di sản thừa kế với di sản dùng vào việc thờ
cúng

35
2.1.2. Xác định di sản thờ cúng theo Bộ luật dân sự năm 2005
38
2.1.2.1. Xác định một phần di sản dùng vào việc thờ cúng
38
2.1.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi cây cối thuộc di sản thờ
cúng đổ gây thiệt hại
42
2.1.2.3. Chuyển nhượng thế chấp di sản dùng vào việc thờ cúng
43
2.1.3. Di sản dùng vào việc thờ cúng theo di chúc, không theo di chúc,
không được định đoạt trong di chúc
46
2.1.3.1. Di sản dùng vào việc thờ cúng theo di chúc
46
2.1.3.2. Di sản thờ cúng không theo di chúc và không được định đoạt
trong di chúc
48
2.2. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng
50
2.2.1.Về người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng được chỉ định
trong di
chúc
50
2.2.2. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng không được chỉ định
trong di chúc mà do những đồng thừa kế cử ra
52
2.3. Quyền và nghĩa vụ của những người quản lý di sản dùng vào việc
thờ

cúng
56
2.4. Căn cứ thay đổi người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và
người có quyền yêu cầu thay đổi
60
2.5. Căn cứ chấm dứt di sản dùng vào việc thờ cúng

62
Chương 3.Thực tiễn áp dụng pháp luật về di sản dùng vào việc thờ
cúng và phương hướng hoàn thiện
67


3
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng
67
3.2. Phương hướng hoàn thiện
81
KẾT LUẬN
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
87




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Thờ cúng là một phong tục tín ngưỡng lâu đời trong đời sống văn hóa

tinh thần của người Việt, là sự thể hiện lòng biết ơn, tôn kính đối với tổ tiên
của người Việt đối với các thế hệ trước. Thờ cúng là một hoạt động tinh thần
đòi hỏi phải có những cơ sở vật chất, kinh tế đảm bảo cho hoạt động thờ cúng
được thực hiện trên thực tế. Cơ sở vật chất, kinh tế đó chính là di sản dùng
vào việc thờ cúng. Pháp luật của các triều đại phong kiến Việt Nam, cả trong
thời kỳ Pháp thuộc như Luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình Luật), Luật Gia
Long (Hoàng Việt Luật Lệ) và hai bộ luật Dân sự Bắc kỳ, Trung kỳ đều đã
ghi nhận về di sản thờ cúng qua các quy định "Phụng tự", "Hương hoả",
"Lập thừa tự"
Trong tất cả các văn bản pháp luật được Nhà nước ta ban hành cho tới
nay: Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự năm 1995 và gần đây là Bộ
luật dân sự năm 2005 đều đã tiếp tục ghi nhận và bảo vệ phong tục, tín
ngưỡng thờ cúng trong đời sống văn hóa của người Việt qua việc quy định về
di sản dùng vào việc thờ cúng (gọi tắt là di sản thờ cúng).
Theo quy định tại Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 thì chỉ có "di sản
dùng vào việc thờ cúng" khi hội đủ hai điều kiện: thứ nhất, người để lại di sản
trước khi chết có lập di chúc phân chia tài sản của mình; thứ hai, trong di
chúc có định rõ một phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Tuy nhiên, thực tiễn
giải quyết các tranh chấp về thừa kế đặt ra những vấn đề cần giải quyết mà
chỉ với nội dung Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 thì không đủ căn cứ, đó
là, có cần phải quy định rõ trong luật một tỷ lệ nhất định di sản dùng vào việc
thờ cúng trên tổng số di sản hay không; những người thừa kế có nghĩa vụ thờ
cúng có thể chuyển nhượng di sản thờ cúng theo hợp đồng mua đứt bán đoạn
mua bán kèm điều kiện chuộc lại, thế chấp, cầm cố di sản dùng vào việc thờ



2
cúng không; vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do di sản dùng vào việc
thờ cúng(cây cối ) đổ gây thiệt hại cho người thứ ba; trường hợp di sản thờ

cúng là quyền sử dụng đất được Nhà nước giao có thời hạn (đất nông nghiệp
trồng cây hàng năm), khi thời hạn sử dụng đất hết và người đang quản lý
không thuộc đối tượng được giao tiếp Nhà nước thu hồi đất lại giao cho người
khác, những người thừa kế có nghĩa vụ thờ cúng có phải bỏ tiền ra để lập nên
một tài sản dùng vào việc thờ cúng khác nhằm đảm bảo cho việc thờ cúng hay
không; trường hợp Nhà nước thu hồi đất và đền bù bằng một khoản tiền vậy
di sản dùng vào việc thờ cúng trong trường hợp này được xác định như thế
nào; trường hợp người để lại di sản trước khi chết không để lại di chúc (thừa
kế theo pháp luật) những người thừa kế hàng thứ nhất (thế hệ thứ hai) thoả
thuận để lại một phần di sản để thờ cúng cha, mẹ và tổ tiên mình, người được
giao quản lý phần di sản dùng vào việc thờ cúng đã thực hiện đúng và đầy đủ
nghĩa vụ thờ cúng, sau khi những người ở thế hệ thứ hai đều đã chết và cũng
không có di chúc để lại, đến thế hệ thứ ba lại không muốn sử dụng phần di
sản thờ cúng ấy để thờ cúng mà đề nghị đem chia, trường hợp này có nên xác
định phần di sản ấy là di sản thờ cúng hoặc có nhất thiết phải quy định di sản
thờ cúng luôn phải gắn với thừa kế theo di chúc. Mặt khác, ngay cả trong
nhận thức của người dân nói chung và nhiều thẩm phán nói riêng về di sản
thờ cúng khi xét xử cũng có sự không thống nhất với quy định tại Điều 670
Bộ luật dân sự.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Di sản dùng vào việc thờ
cúng theo pháp luật Việt Nam” với mong muốn làm sáng tỏ bản chất pháp
lý, vai trò của di sản thờ cúng và chỉ ra những bất cập trong quy định pháp
luật hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:



3
Liên quan đến chế định thừa kế đã có nhiều người viết về các quy định
chung với các đề tài về các vấn đề thừa kế thế vị, diện và hàng thừa kế, các

điều kiện có hiệu lực của di chúc , cụ thể như tác giả Phạm Văn Tuyết
nghiên cứu về đề tài “Một số vấn đề về thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân
sự”. Tác giả Nguyễn Thị Vĩnh nghiên cứu đề tài “Thừa kế theo pháp luật
trong Bộ luật dân sự Việt Nam”, tác giả Nguyễn Minh Tuấn nghiên cứu đề tài
“cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong Bộ
luật dân sự Việt Nam”, tác giả Trần Thị Huệ với đề tài “Di sản thừa kế trong
pháp luật dân sự Việt Nam”, tác giả Phùng Trung Tập với đề tài “Thừa kế
theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” tuy nhiên về
di sản dùng vào việc thờ cúng thì chưa có ai thực hiện. Chính vì vậy, đề tài
này lần đầu tiên sẽ tập trung phân tích một cách trực tiếp, toàn diện đến vấn
đề di sản dùng vào việc thờ cúng trong khoa học pháp luật dân sự về thừa kế
ở Việt Nam.
3. Phƣơng pháp luận nghiên cứu
Xuất phát từ nguyên lý của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử: Vật chất quyết định ý thức, đời sống kinh tế - xã hội quyết
định đời sống chính trị, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và sự tác động
trở lại của thượng tầng kiến trúc với hạ tầng cơ sở, pháp luật dân sự nói
chung, chế định thừa kế và các quy định về di sản thờ cúng nói riêng thuộc
phạm trù của kiến trúc thượng tầng nên tất yếu chịu sự chi phối của đời sống
kinh tế, văn hoá xã hội. Do đó, việc nghiên cứu đề tài sẽ không tách rời khỏi
nguyên lý trên. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu:
- So sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật với tình huống thực tế,
với quy định của các luật cổ để tìm ra những hợp lý và bất cập trong quy định
pháp luật.



4
- Tổng hợp, phân tích các vụ việc trong thực tiễn xét xử liên quan đến
quy định của pháp luật hiện hành về di sản thờ cúng.

4. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa khoa học của đề tài
Là một trong nhiều người tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp
luật dân sự nói chung và chế định thừa kế trong đó có vấn đề di sản thờ cúng
nói riêng, bằng phương pháp phân tích, so sánh đã nói trên cùng với thực tiễn
trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật thừa kế, di sản thờ cúng tại
Toà án, Luận văn được nghiên cứu với mong muốn đưa ra được một số kiến
nghị nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong quy định về di sản thờ
cúng, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam nói chung, đồng
thời góp phần vào việc giữ gìn những phong tục, tín ngưỡng tốt đẹp của dân
tộc.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ tập trung phân tích, so sánh để
tìm cơ sở văn hoá, nguồn gốc của việc thờ cúng tổ tiên, mối quan hệ giữa di
sản thờ cúng với di sản thừa kế, vấn đề di sản thờ cúng đã được quy định
trong lịch sử pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ; di sản thờ cúng có được quy
định không và quy định như thế nào trong pháp luật dân sự của một số nước
có nền văn hoá tương đồng với Việt Nam. Quy định của Bộ luật dân sự hiện
hành về vấn đề di sản thờ cúng và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về di
sản dùng vào việc thờ cúng tại tòa án khi giải quyết các tranh chấp, từ đó
củng cố thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định về di sản dùng vào việc
thờ cúng.
6.Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia thành 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung gồm 3
chương và phần kết luận.



5








Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜ CÚNG VÀ DI SẢN DÙNG VÀO
VIỆC THỜ CÚNG
1.1. Nguồn gốc và truyền thống thờ cúng
Trên Thế giới, nhiều nơi cũng có phong tục thờ cúng tổ tiên hoặc thờ
cúng người đã chết như ở Việt Nam. Các kết quả khảo cổ và nghiên cứu về
dân tộc học cho thấy thờ cúng tổ tiên cổ truyền còn lưu lại nhiều dấu ấn ở
vùng Công Gô (Châu Phi), ở các dân tộc vùng quần đảo Mê la nê di
(Mélanessia), vùng Xi bê ri (Nga), ở các dân tộc Pô- ê-blô, Anh điêng, Mê hi
cô, Pê ru (Mỹ la tinh), ở Trung Quốc, Mông Cổ và nhiều nơi khác.
Ở Việt Nam, thờ cúng là một tín ngưỡng lâu đời trong văn hóa của
người Việt. Phong tục thờ cúng là một nội dung trong đời sống tinh thần
thuộc phạm trù ý thức xã hội nên tất yếu nó phải chịu sự quy định của tồn tại
xã hội. Do đó, việc tìm hiểu về nguồn gốc và truyền thống của phong tục thờ
cúng tổ tiên cần phải xuất phát từ đời sống tự nhiên và đời sống xã hội.
Về điều kiện tự nhiên: Việt Nam nằm trong khu vực bán đảo Đông
Dương nhưng tính chất bán đảo của Việt Nam là rõ nét nhất, khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều và có 2 mùa gió rõ rệt, gió mùa đông bắc thổi từ
Trung Quốc vào làm cho không khí vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ lạnh và
khô hanh trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau,



6
nhiệt độ trung bình khoảng dưới 18 độ; gió mùa hè từ Nam bán cầu vượt xích

đạo qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương có tính chất nóng ẩm, tạo nên
những cơn mưa lớn. Do kiến tạo địa lý tự nhiên cùng với điều kiện khí hậu đã
hình thành nên một đặc điểm tổng hợp của môi trường tự nhiên là môi trường
nước. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên của môi trường nước này mà cư dân
vùng đồng bằng thấy chỉ trồng lúa - loại cây lương thực cần nước và nắng là
phù hợp nhất. Cũng chính từ phương thức canh tác này đã quyết định tới các
hoạt động sinh hoạt tinh thần của người Việt, tạo cho người Việt những sở
trường văn hoá gắn liền với nước: Ở Bắc Bộ, mùa lễ hội thường diễn ra vào
đầu mùa xuân khi việc trồng cấy đã xong. Những trò chơi dân gian gắn liền
với môi trường nước, như "Rối nước" là sản phẩm riêng chỉ của Việt Nam,
hội thi "đua thuyền" có rất nhiều ở các vùng quê. Việc canh tác lúa đạt tới
mức gần như là một nghệ thuật. Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu của phương thức
canh tác lúa nước người Việt cổ đã gặp nhiều khó khăn trong việc trị thuỷ và
thường bất lực trước các hiện tượng thiên nhiên như lũ lụt, thiên tai. Khi bất
lực trước những hiện tượng thiên nhiên mà ở thời kỳ sơ khai con người không
giải thích được nên đã tìm đến lối thoát về tinh thần là "cầu xin trời đất", cho
rằng những biểu hiện của thiên nhiên đều do sức mạnh của các vị thần, mỗi
hành vi của con người đều do trời đất sắp đặt, quyết định. Nếu con người làm
điều thiện thì sẽ được ban phúc, nếu làm điều ác sẽ bị trừng phạt. Do đó, trong
nhiều lễ hội của người Việt không bao giờ là thiếu mục tế lễ cầu cho mưa
thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Theo học giả Đào Duy Anh thì về phương
diện tôn giáo, cứ theo các truyền kỳ đời trước thì ta có thể đoán rằng tổ tiên ta
ở đời thượng cổ tín ngưỡng một thứ tự nhiên đa thần giáo, tin rằng phàm các
hiện tượng và thế lực tự nhiên ở trong vũ trụ, như trời đất, mưa gió, núi sông
đều có thần linh chủ trương. Có lẽ người ta tưởng rằng linh hồn người chết
thường đi lại với người sống, nếu có cúng quẩy thì vong hồn phù hộ, nếu



7

không thì vong hồn làm cho đau ốm Sự tế tự ở đời thượng cổ thì phần
nhiều có tính chất nông nghiệp, cốt để kỷ niệm những thời thiết quan trọng về
nghề nông ở trong một năm, nhất là mùa xuân và mùa thu [1, tr.143]. Do điều
kiện về khí hậu, điều kiện tự nhiên và môi trường, tập quán sản xuất đã tác
động quyết định đến việc hình thành phong tục thờ cúng nên người Việt
thường tổ chức lễ hội, cầu trời đất mưa thuận gió hòa, đi lễ thường vào đầu
năm mới và các lễ hội của người Việt đều được tổ chức vào đầu mùa xuân,
như lễ Chùa Hương, lễ chùa Yên tử, lễ đền thờ Thánh Tản viên
Về mặt vị trí địa lý: Việt Nam nằm ở tâm điểm của đường giao lưu
quốc tế theo hai trục Bắc - Nam và Đông - Tây. Ở vị trí này, Việt Nam trở
thành đầu cầu để tiến vào Đông Nam Á, nên có điều kiện giao lưu, tiếp thu
những tinh hoa của các nền văn hoá khác, đặc biệt ở gần với hai trung tâm
văn minh nhân loại là Ấn Độ và Trung Quốc. Song Việt Nam cũng gặp những
khó khăn khi thường là mục tiêu của các thế lực muốn bành trướng. Bất cứ
một sự bành trướng nào về mặt chính trị, quân sự, tôn giáo, văn hoá đều chọn
Việt Nam làm bàn đạp khi tiến vào Đông Nam Á. Chính từ những điều kiện
này đã tạo nên một đặc trưng của người Việt là truyền thống dựng nước và
giữ nước. Do đó, về mặt văn hoá ngoài sự giao lưu bình thường với các nền
văn hóa bên ngoài từ các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa theo đường
biển của các thương nhân các nước mang lại, người Việt còn chịu ảnh hưởng
của giao lưu văn hoá cưỡng bức từ những cuộc chiến tranh xâm lược của
ngoại bang. Tuy nhiên, dân tộc Việt vẫn đứng vững trước bất kỳ chính sách
đồng hoá nào do các hệ tư tưởng ngoại bang được đưa vào Việt Nam bản sắc
văn hoá người Việt đã được định hình và cố định. Tư tưởng Phật giáo hay
Nho giáo truyền được vào Việt Nam là thông qua thái độ chủ động tiếp nhận
của người Việt, người Việt tiếp thu, sửa đổi hoặc sáng tạo cho phù hợp trên
cơ sở truyền thống bản địa, phù hợp môi trường văn hoá, thiên nhiên của




8
người Việt. Hệ tư tưởng Nho giáo rất thịnh hành và phát triển ở Trung Quốc,
khi được truyền vào Việt Nam, người Việt tiếp thu nhưng không sao chép y
nguyên. Những khu biệt về điều kiện địa lý tự nhiên và môi trường sinh thái,
khí hậu đã hình thành nên phương thức canh tác lúa nước tiểu canh. Từ
phương thức sản xuất này đã tạo nên mô hình gia đình tiểu nông - những yếu
tố trở thành nền tảng quyết định bản sắc văn hoá của người Việt. Nền văn
minh trồng lúa nước cũng tồn tại ở Trung Quốc, nhưng cấu trúc gia đình của
người Trung Quốc là những đại gia đình, những gia tộc rất lớn. Có sự khác
biệt này là do điều kiện tự nhiên của Trung Quốc khác Việt Nam, có diện tích
đồng bằng rất lớn, đòi hỏi phải tập trung nhiều nhân lực. Quan niệm về gia
đình trong học thuyết Nho giáo đề cao vai trò tuyệt đối của người đàn ông
trong gia đình, quyền thống trị tuyệt đối của tộc trưởng; sự phân biệt ngôi thứ
trong hôn nhân và gia đình (vợ cả, vợ thứ), quyền thừa kế của trưởng nam,
quan hệ và vị trí giữa các thành viên trong gia đình - giữa cha mẹ với con cái,
giữa ông bà với cháu, giữa vợ và chồng, giữa con trưởng với con thứ, giữa
con trai với con gái có sự phân biệt rõ ràng, khắc nghiệt. Song khi tư tưởng
của Nho giáo vào Việt Nam thì nó đã bị bản sắc văn hoá người Việt biến đổi
cho phù hợp. Người Việt chấp nhận tính quy củ, trật tự trên dưới và vai trò
quyền trưởng nam, chấp nhận cấu trúc gia đình theo kiểu phụ hệ gia trưởng
nhưng mối quan hệ giữa các thành viên gia đình gần gũi hơn, bởi vì, mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình người Việt lấy quan hệ huyết thống là
hạt nhân quyết định chứ không phải lợi ích kinh tế. Điều này cũng làm cho
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình người Việt gần gũi, chất phác,
bình đẳng hơn. Vai trò của người con gái trong gia đình người Trung Quốc là
"Nữ nhi ngoại tộc" thì người Việt vẫn để cho con gái có quyền thừa kế và
được thờ cúng cha mẹ (Luật Hồng Đức). Do đó, "Hình thức thờ cúng tổ tiên ở
Trung Hoa và Hàn Quốc chủ yếu và hầu như chỉ được tiến hành trong phạm




9
vi dòng họ tại Từ Đường họ theo sự điều hành của Tộc trưởng (hầu như rất
khó tìm bàn thờ tổ tiên trong các gia đình thành viên. Trong khi đó, ở Viêt
Nam lại ngược lại hình thức Từ đường không phải là phổ biến (nếu có chỉ là
những dòng họ lớn phát đạt - nghĩa là có tính chất tầng lớp trên và cũng chỉ
thực hành thờ cúng theo quy định thời gian lễ tiết chủ yếu) mà phổ biến chủ
yếu lại là hình thức thờ cúng tại từng tiểu gia đình thành viên với đối tượng
chủ yếu là gia trưởng" [32, tr.30] và "Tục thờ cúng tổ tiên chưa bao giờ (và
có lẽ không bao giờ) là độc quyền gia trưởng hoặc trưởng nam trong nội bộ
gia đình người Việt" [32, tr.34].
Một trong những căn cứ nữa hình thành nên phong tục thờ cúng của
người Việt là đặc tính trong phương thức xử sự. Nếu như trong ứng xử của
người phương Tây trong xử sự luôn luôn duy lý thì người phương Đông nói
chung và người Việt nói riêng lại luôn duy tình và cái duy tình này của người
không phải chỉ cho những mục tiêu trước mắt mà mang tính trách nhiệm lâu
dài, mang yếu tố tâm linh thể hiện qua các hành vi ứng xử cụ thể, người Việt
luôn có tâm niệm "Để phúc cho con cháu", một phần do chịu ảnh hưởng từ sự
"khúc xạ" lối tư duy Nhân - Quả của tư tưởng Phật giáo được truyền bá vào
Việt Nam, một phần do có cội nguồn từ tín ngưỡng nguyên thuỷ và đời sống
tâm linh của người Việt, đó là ý thức về hành vi ứng xử của mình đối với
tương lai của con cháu trước sự phán xét của thế giới tự nhiên, người Việt
luôn quan niệm rằng dù mình ở đâu, làm bất cứ gì đều có "ánh mắt" dõi theo
của tổ tiên nếu mình làm điều ác tất sẽ bị trừng phạt, nếu mình làm điều thiện
gặp khó khăn tất sẽ được tổ tiên phù hộ, học giả Đào Duy Anh cho rằng
"Thực vậy, trong gia tộc nước ta người chết dẫu ở cảnh giới cao siêu, song
vẫn thường dự cuộc sinh hoạt của gia đình và những ngày lễ tết thảy đều tựu
tập ở Từ đường để cho người sống tế tự " [1, tr. 71]. Biểu hiện của đặc trưng
này trong đời sống thực tế là khi một người thành đạt hoặc vừa may mắn




10
thoát khỏi một tai nạn hiểm nguy đến tính mạng, sự nghiệp thì trong quan
niệm của người Việt sự thành đạt hay may mắn ấy không phải do những nỗ
lực của bản thân cá nhân người ấy hay do những nguyên nhân khách quan mà
trước hết do người ấy đã được hưởng “Phúc ấm” của tổ tiên hay được tổ tiên
“phù hộ”. Cái gọi là “phúc ấm” ấy có được là do tổ tiên của những người này
khi còn sống đã làm nhiều điều tốt, đã xử sự phù hợp với các tiêu chuẩn đạo
đức xã hội. Vậy nên, “đối với người Việt trước bất kỳ thành công hay thất bại,
luôn tổ chức thờ cúng tổ tiên; nếu là thành công, việc thờ cúng là tạ phúc ấm
với tổ tiên, nếu là bất hạnh, thờ cúng là để xin lỗi tổ tiên và cầu xin tổ tiên bỏ
qua và chỉ cho cách sửa chữa. Trong cộng đồng người Việt luôn tồn tại trong
ý thức bài học có tính chất răn đe "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước", với
bài học có tính chất cảnh báo này, đối với người Việt cái đáng sợ nhất không
phải là sự trừng phạt trực tiếp của địa ngục, âm ty theo phật giáo và các tôn
giáo khác mà là sự trừng phạt gián tiếp mang tính di truyền đối với thế hệ
sau" [32, tr.63].
Ngoài ra, còn có nét đặc biệt khác nữa trong phong tục thờ cúng tổ tiên
của người Việt. Đó là, nếu theo hệ tư tưởng Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo.
Trong những ngày lễ như Tết nguyên tiêu, Tết hàn thực, Tết đoan ngọ và Tết
trung thu thì không có việc thờ cúng tổ tiên, nhưng người Việt vẫn tổ chức
thờ cúng tổ tiên trong những dịp này, biểu hiện qua những lời cầu khấn của
người Việt trước bàn thờ ban đầu có thể khấn: Nam mô a di đà phật và sau
đó thường cầu khấn “xin các cụ phù hộ, độ trì cho con cháu ”; ngay cả khi
cúng ông Công, ông Táo về Trời vào ngày 23 tháng Chạp, bên cạnh phong tục
thả cá chép để Táo quân đi chầu trời thì người Việt luôn đan xen việc khấn lễ
mời tổ tiên về ăn tết
Chế độ gia đình mẫu hệ mất đi do sự tiến bộ của phương thức sản xuất
và tư liệu sản xuất. Chế độ gia đình phụ hệ được thiết lập lên, chịu ảnh hưởng




11
của học thuyết Nho giáo nên cấu trúc gia đình người Việt được tuân theo chế
độ phụ hệ gia trưởng, quyền của người gia trưởng, người cha trong gia đình
làm phát sinh ở con, cháu sự quy thuận. Cảm giác quy thuận ấy được truyền
từ đời này sang đời khác. Ngay cả khi người gia trưởng ấy đã chết đi thì nó
vẫn tồn tại trong các thế hệ sau với niềm tin rằng tổ tiên vẫn có thể trừng phạt
nếu con cháu không cư xử đúng những chuẩn mực. Bên cạnh vai trò của
người gia trưởng, người cha trong gia đình thì vai trò của người phụ nữ trong
đời sống gia đình người Việt cũng rất quan trọng. Căn nguyên này xuất phát
từ trong phương thức canh tác lúa nước tiểu canh, trong mô hình gia đình
tiểu nông với vai trò của người phụ nữ Việt phải nói là không kém vai trò của
người đàn ông. Bởi lẽ, "Trong mỗi gia đình nông dân ở đồng bằng Bắc bộ,
người phụ nữ đảm nhận hầu hết những công việc quan trọng. Họ là người
chăm lo việc cấy hái trong công việc đồng áng lại kiêm luôn người tiểu
thương chạy chợ lo cung tiêu cho gia đình; người phụ nữ là người "tay hòm
chìa khoá" nghĩa là người quản lý, điều tiết việc thu chi và cũng là người chịu
trách nhiệm về kinh tế trong mọi dịp giỗ chạp, hiếu hỉ, đối nội (trong nội bộ
gia đình thân tộc) hay đối ngoại (với dân làng, hàng xóm); người mẹ cũng là
người chịu trách nhiệm chính trong việc dạy con, nhất là giai đoạn từ khi đứa
trẻ cất tiếng khóc chào đời cho đến tuổi cắp sách tới trường" [3, tr. 13, 169-
172]. Chính trên cơ sở này đã hình thành trong quan niệm của người Việt có
các thành ngữ "Phúc đức tại mẫu", "con hư tại mẹ" và những Đền thờ mẫu
cùng với việc thờ mẫu xuất hiện ở nhiều nơi.
Ngoài ra, căn nguyên khác hình thành nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt là xuất phát từ lòng hiếu thảo của con, cháu đối với cha mẹ,
ông bà. Trong gia đình người Việt, mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái,
giữa ông bà với cháu trong đời sống hiện tại là sự phản ánh mối quan hệ giữa

tổ tiên với con cháu sau này. Sự phát triển từ con cái trở thành cha mẹ, rồi lên



12
đến ông, bà, tiếp đến là cụ kỵ là mối liên hệ giữa quá khứ với hiện tại và
tương lai cho nên việc thờ cúng tổ tiên là sự thể hiện lòng biết ơn của con
cháu đối với tổ tiên - những người đã sinh ra mình, tạo lập cuộc sống cho
mình nên mình mới có ngày hôm nay, người Việt có các câu ca dao “Công
cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Theo học
giả Nguyễn Văn Huyên: sau khi qua đời, tổ tiên được con cháu thờ cúng một
cách hiếu thảo. Mọi người Việt Nam đều tuân theo tục thờ cúng này, không
hề miễn cưỡng, dù họ thuộc thứ bậc nào trong xã hội. Tội bất hiếu nặng nhất
mà con trai phạm phải là không cúng ông bà, cha mẹ. Người Việt Nam kính
trọng bố mẹ đã qua đời như bố mẹ còn sống. Sau khi bố mẹ mất, con cái vẫn
tiếp tục kính trọng và yêu quý bố mẹ [5, tr.94] và "Dù thế nào, các bậc cha mẹ
vẫn thường nhắc, khi còn sống, với con cái rằng, ở thế giới bên kia, họ chỉ cần
một bát nước trong và một miếng trầu. Những đồ cúng ít ỏi này bao giờ cũng
phải có, và giá trị của nó phải được tăng lên do tấm lòng trong trắng của
những người cúng. Nói cách khác, con cái phải xử sự như những đứa con hiếu
thảo. Và trong quan niệm của người Việt Nam thì, người con trai hiếu thảo
không phải là kẻ cúng thật nhiều về vật chất cho cha mẹ, mà là kẻ cư xử trung
thực cái mà tổ tiên cần không phải là cái vật chất để nuôi thể xác của người
sống, mà là làm sao cho tên tuổi, linh hồn của họ không bị bôi nhọ bởi thái độ
không xứng đáng của những con cháu gần xa"[5, tr. 104 - 05].
Bên cạnh đó, phong tục thờ cúng tổ tiên còn được xuất phát từ một căn
nguyên nữa, đó là nhu cầu củng cố quan hệ gia đình, dòng họ cũng như những
lợi ích mang tính dòng họ. Trong mối quan hệ với một cộng đồng có tên gọi
là “Làng” ở Việt Nam - tập hợp ít nhất hơn một dòng họ thì phương cách tốt
nhất là thờ cúng tổ tiên, bởi lẽ, bằng việc thờ cúng tổ tiên người con trưởng sẽ

củng cố mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ, đoàn kết
được nhiều chi, phái, tăng thêm nhân lực trong sự cạnh tranh đối với người



13
ngoài vì khi đứng trước bàn thờ tổ tiên tự nhiên sẽ có một sợi dây vô hình
ràng buộc khiến người ta sẽ có những suy nghĩ đồng nhất hơn, nhanh chóng
gạt bỏ những bất đồng (nếu có) do trong ý thức sâu thẳm của mỗi người,
không ai muốn tổ tiên "thấy" con cháu không đoàn kết.
Trên đây là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người kinh, cư trú tại đồng
bằng. Vậy, những người Việt thuộc tộc người thiểu số có phong tục thờ cúng
không? Theo nhà nghiên cứu Toan Ánh thì Người Sédang (Xêđăng) ở các
tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum không cúng giỗ người chết vào ngày
qua đời, nhưng hàng năm nhân dịp tết Thanh Minh vào tháng ba dương lịch,
họ viếng mộ người chết, khóc lóc thảm thiết rồi cúng vái.
Người Chàm ở các tỉnh Bình Định, Khánh Hoà, Ninh Thuận (Thuận
Hải) có cúng giỗ người chết.
Người Djarai (Giarai) ở các tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà, Kon Tum và
Đăklăk chỉ cúng giỗ người chết trong vòng ba năm trở lại. Ngoài ba năm
người chết bị bỏ rơi vào lãng quên, không được ai nhắc tới, mộ cũng bị bỏ
hẳn không được săn sóc nữa.
Người Rhadé (Rađê) thuộc các vùng Quảng Đức, Đăklăk, Phước Long
(Sông Bé), Phú Yên thì chỉ cúng giỗ người chết có một lần, sau đó mọi kỷ
niệm của người chết không còn ai nhắc tới.
Người Kơho tại các tỉnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh (Đồng
Nai) làm giỗ người chết trong vòng hai năm đầu. Ngày giỗ năm thứ hai được
tổ chức rất to, sau đó là hết.
Người M'nong (Mơ Nông) tại các tỉnh ĐăcLăk, Lâm Đồng, Phước
Long (Sông Bé) cũng cúng giỗ người chết một lần như người Rhadé.

Còn những đồng bào thiểu số, người Stiêng (Sêtiêng), người Teu (Tơ),
người Chàm Ba tơ, người Bahnar (Ba Na) không có tục cúng giỗ.



14
Các đồng bào thiểu số miền Bắc, người Thổ (Tày) ở Lạng Sơn, Cao
bằng, Bắc Cạn, người Mường ở Hoà Bình, Ninh Bình, người Nùng ở Móng
Cái, người Mán ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên, người Thái ở Sơn
La, Lai Châu đều có cúng giỗ như người Kinh, còn một số ít các đồng bào
như người Xạ Phang ở Lào Cai, người Mèo ở Hoàng Su Phì, người Lolo ở Hà
Giang không có tục cúng giỗ [2, tr. 65 - 66].
Khác với người La Hả, Phù lá, Kháng chỉ thờ duy nhất một đời
(cha/mẹ), người Tày thờ 4 đời (cha - ông- cụ - kỵ) đối với người đang thờ
phụng thì người La Chí thờ 3 đời tổ tiên “khu” tức cha - ông - cụ (đối với tổ
tiên nam) và 2 đời đối với tổ tiên nữ (mẹ - bà). Người dân cúng tổ tiên to nhất
vào tết tháng 7 “lễ cúng mừng việc cấy xong và xin tổ tiên khu bảo vệ ruộng
nương”. Lễ cúng khởi đầu từ ngày 01/7 đến ngày 13/7, con cháu làm lễ đưa tổ
tiên “khu” trở về [6].
Còn đối với người Việt theo đạo công giáo, mặc dù thờ Đức chúa Giê
su nhưng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, với tư cách là một truyền thống văn hoá
của người Việt vẫn được duy trì trong đời sống tinh thần: "Những người thiên
chúa giáo, tuy không lập bàn thờ tổ tiên, nhưng không phải là không thờ
phụng tổ tiên. Trong những ngày giỗ, họ vẫn làm cỗ và cầu nguyện cho người
đã khuất. Kể từ năm 1968, họ được Toà thánh Vaticăng cho phép lập bàn thờ
tổ tiên như mọi gia đình Việt Nam" [9, tr. 121] và "Trong các dòng truyền
giáo hoạt động ở Việt Nam như dòng Tiên, dòng Phan xico, Hội truyền giáo
Pari thì dòng Đa Minh - vốn được giao cai quản địa phận phía đông Đàng
Ngoài, trong đó có Nam Định, cũng dần dần chấp nhận một số phong tục,
quan niệm của người Việt trong đó có chuyện tang ma, tưởng nhớ người thân

đã khuất trong gia đình. Các tín đồ công giáo đã tham gia thờ cúng tổ tiên với
từng cấp độ khác nhau như thờ cúng người có công mở đất lập làng, tổ nghề,



15
thờ cúng họ tộc, quan niệm về hồn, vía của người đã mất, các hình thức giỗ
chạp, những giọng điệu hát kinh, cầu kinh cho người qua đời.
Từ năm 1974, theo tinh thần của Công giáo cả nước, giáo dân Nam
Định, được tổ chức tham dự các nghi lễ tôn kính tổ tiên, ông bà với năm điểm
quy định: - Được đặt bàn thờ tổ tiên thấp hơn bàn thờ Chúa; - Được đốt đèn
nhang, vái lạy trước bàn thờ tổ tiên; - Được cúng giỗ trong gia đình theo
phong tục địa phương; - Trong hôn lễ, dâu rể được làm lễ tổ, lễ gia tiên trước
bàn thờ tổ tiên; - Trong tang lễ, được vái lạy thi hài người quá cố, đốt hương
vái theo phong tục địa phương.
Trước đây, giáo dân thường chôn cất người chết một lần và đào sâu
chôn chặt, xây mộ trong nghĩa địa chung Hơn chục năm trở lại đây, nhiều
giáo dân cũng thực hiện việc cải táng" [7].
Tóm lại, có thể khẳng định phong tục thờ cúng là một phong tục, tín
ngưỡng lâu đời của người Việt. Trải qua quá trình phát triển chịu ảnh hưởng
của những hệ tư tưởng khác nhau, song thờ cúng vẫn mang đậm bản sắc văn
hoá của người Việt với những nét tinh hoa, khu biệt riêng và không bao giờ
thiếu được trong đời sống tinh thần của người Việt.
1.2. Một số hình thức thờ cúng
Theo học giả Đào Duy Anh, tín ngưỡng thờ cúng được chia ra thành
các hình thức: “Tế tự thuộc về gia đình, thuộc về hương thôn, thuộc về quốc
gia và thuộc về phương thuật” [1, tr.143], trong đó:
- Tế tự ở gia tộc là việc thờ cúng tổ tiên, có thể hiểu là hoạt động thờ
cúng dựa trên cơ sở quan hệ trực hệ huyết thống. Đó là việc con cháu thờ
cúng cha mẹ, ông bà, cụ kỵ. "Nhà nào cũng có bàn thờ tổ tiên ở giữa nhà.

Nhà người Tộc trưởng thường để gian giữa làm nhà thờ họ (Từ đường).
Những họ giàu sang lại có từ đường riêng để thờ tổ tiên chung của họ; mỗi



16
chi lại có nhà thờ riêng của bản chi; còn nhà gia trưởng thì có bàn thờ để thờ
phụng cha mẹ riêng của mỗi người” [1, tr.145].
Trong việc tế tự, thờ cúng tổ tiên ở gia tộc, người Việt còn thờ thần Thổ
công là thần bản địa với ý nghĩa là vị thần trông giữ mảnh đất mà mình ở và
thần Táo quân là thần bếp núc với ý nghĩa là vị thần trông coi sự làm ăn của
con người hàng năm.
- Tế tự ở hương thôn: gồm có việc thờ Thần Thành hoàng, thờ Thổ địa
và thờ Phật. Việc thờ Thành hoàng và Thổ địa được tiến hành ở một ngôi nhà
được gọi là Đình làng Thời gian tế lễ (thờ cúng) thường được thực hiện 2 kỳ
trong một tháng còn gọi là “lễ sóc” và “lễ vọng”. Ngoài ra, việc tế lễ ở Đình
làng còn được thực hiện ở các kỳ “lễ Hạ điền” ở đầu mùa cầy cấy, “lễ Thượng
điền” ở cuối mùa lễ, lễ Thường tân hay cơm mới vào tháng chín, lễ Thượng
nguyên hay lễ Kỳ yên, lễ Trung nguyên, lễ Hạ nguyên, lễ Hàn thực, lễ Đoan
ngọ
Ngoài việc thờ cúng tại Đình làng, trong việc tế tự ở làng xã (Hương
thôn) còn có hoạt động thờ cúng, tế tự ở chùa. Song, việc thờ Thành Hoàng
thì làng nào cũng có đình làng để thờ, còn chùa thì không nhất thiết làng nào
cũng có.
- Tế tự của Quốc gia: " Mỗi năm vua phải ngự đến đàn Nam Giao là tế
đàn hình tròn xây ở phía nam cung thành để tế Trời là gốc sinh thành của vạn
vật.Sau trời là nguyên tổ chung của loài người, Vua còn phải thờ tổ tiên riêng
của nhà mình, tức là lễ Tôn miếu, ở Thái Miếu và Thế Miếu. Vì nước ta là
nước nông nghiệp nên Vua còn phải tế tự các thần đất, thần lúa cùng thần tứ
thời. Đàn Xã tắc hình vuông ở phía hữu cung thành là nơi đầu mùa xuân vua

ngự đến để tế thổ thần và cốc thần"[1, tr.154]. Ngoài ra, Văn Miếu là nơi Nhà
nước và hàng tỉnh thờ Chu Công và Khổng Tử cùng Tư phối và thất thập nhị
hiền (Nhan Uyên, Tử Tư, Tăng Sâm, Mạnh Kha và 72 học trò giỏi của Không



17
Tử); ở các phủ, huyện, các tổng, các làng lại thường có những nhà thờ, hay
đàn thờ lộ thiên gọi là Văn từ và Văn chỉ để thờ Khổng Tử và các bậc khoa
hoạn đời trước ở trong hạt gọi là Tiền hiền.
- Tế tự trong dân gian: Tế tự trong dân gian chịu ảnh hưởng của đạo
giáo, với các hình thức như thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, thờ Thái Thượng lão
quân, Thành Độc cước, Thánh Hưng Đạo và bộ hạ, Thánh Liễu Hạnh và các
chư vị Trong tín ngưỡng người Việt còn có một thứ thần rất phổ thông gọi
là Thần tự nhiên. Người Việt tin rằng có nhiều hòn đá có thần ở, nhất là
những hòn đá có hình tượng kỳ quái ở trước hang động hay trước cửa chùa, ở
giữa ghềnh thác; những cây đa, cây đề, cây đại là những cây có thần ở vì
người Việt quan niệm rằng thần ở các cây này là do người chết vào giờ thiêng
hoá thành.
Người Việt còn thờ cúng những người có công dạy nghề, truyền nghề
tạo dựng cuộc sống cho một số người, một nhóm người, được gọi là "nghệ
tổ", hoặc "Tổ sư". Một số Tổ nghề nổi tiếng được những làng nghề thờ cúng
như Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan dạy nghề dệt the lụa cho người dân vùng
Hà Tây; Nhà sư Không Lộ đầu thế kỷ XIII dạy nghề đúc đồng cho dân Phả
Lại, Hải Phòng Riêng những người hành nghề đánh bắt cá biển thì người dân
làng chài lại không thờ ông Tổ nghề cụ thể mà thờ cá Voi (còn gọi là cá Ông).
Quá trình phát triển của đất nước với cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc
lập, xây dựng đất nước xuất hiện những cá nhân có công lao to lớn trong việc
dựng nước, giữ nước nên được mọi người kính trọng và khi họ chết đi thì
được nhân dân tôn thờ trong các đền, các thánh thất. Như, Đền thờ Hùng

Vương (ngày 10 - 3 Âm lịch hàng năm), theo truyền thuyết Vua Hùng được
xem là ông tổ của người Việt, người khai sinh ra đất nước. Đền thờ Trần
Hưng Đạo - người có công lãnh đạo nhân dân ba lần đánh thắng quân Nguyên
Mông; Đền thờ Nguyễn Trãi - Người có công cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc



18
kháng chiến chống quân Minh giành độc lập dân tộc; Đền thờ Nguyễn Công
Trứ của nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình và huyện Kim Sơn, tỉnh
Ninh Bình vì Nguyễn Công Trứ là người có công khai phá lập ra 02 huyện
trên
Những tín ngưỡng thờ cúng trên tuy có sự biến đổi về hình thức và nghi
lễ theo xu hướng bớt cầu kỳ song người Việt ngày nay vẫn thực hiện đầy đủ
và trong những năm gần đây có nơi còn mở rộng về quy mô tổ chức. Riêng về
loại hình tế tự quốc gia thì ngày nay không còn đàn Xã Tắc, đàn Nam Giao,
không có việc người đứng đầu đất nước đến đàn Xã Tắc, đàn Nam Giao để
cầu trời, đất cho mưa thuận, gió hoà, cũng không có việc đến Văn Miếu, Văn
chỉ, Văn từ để thờ Khổng Tử, Chu Công. Song người Việt nam hôm nay lại
lấy ngày Giỗ tổ Hùng Vương là ngày Quốc lễ. Việc các vị Lãnh đạo cao cấp
đến dâng hương tại đền Hùng vào dịp giỗ tổ Hùng Vương cũng có thể được
gọi lại "Tế tự quốc gia". Trải qua hai cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước và hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ tổ quốc, nước ta
có rất nhiều người hy sinh, việc thờ cúng các liệt sỹ tại các nghĩa trang liệt sỹ
(gần như tất cả các huyện trong cả nước đều có ít nhất một nghĩa trang liệt sỹ,
có tỉnh như tỉnh Bến Tre thì xã nào cũng có nghĩa trang liệt sỹ, tỉnh Quảng Trị
có khoảng 100 nghĩa trang liệt sỹ). Về mặt quốc gia, Nhà nước ta đã xây dựng
đài tưởng niệm các liệt sỹ tại Hà Nội và hàng năm vào ngày 27 - 7 và dịp tết
cổ truyền, các vị Lãnh đạo từ Trung ương đều đến địa phương cùng nhân dân
đến thắp hương tại các nghĩa trang liệt sỹ. Bên cạnh đó, việc nhân dân các địa

phương về Hà Nội hàng ngày xếp hàng vào Lăng viếng Bác Hồ, một số nơi
nhân dân địa phương đã lập đền thờ thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và không ít
người thờ ảnh, tượng Bác Hồ cùng trên bàn thờ tổ tiên trong gia đình mình,
cũng có thể gọi là việc nhân dân đã "phong thần" cho những người có công
với đất nước. Tất cả những điều này phản ánh tín ngưỡng thờ cúng của người



19
Việt là một nét đẹp trong đời sống tình thần của người Việt, là một sinh hoạt
văn hoá mang đậm bản sắc truyền thống người Việt - bởi vì đó là sự biết ơn
những người đã có công sinh thành, sự nhớ ơn và trân trọng những công lao
của những người đã hy sinh cuộc đời mình cho dân tộc, cho đất nước. Cùng
với thời gian và sự phát triển của đời sống xã hội, nghi lễ và hình thức thờ
cúng có thể sẽ có những biến đổi cho phù hợp với đời sống xã hội ngày nay
song không bao giờ mất đi và là một phong tục không thể thiếu được trong
đời sống văn hoá nói chung, đời sống tâm linh nói riêng của người Việt.
1.3. Khái niệm thờ cúng và tài sản thờ cúng
1.3.1. Khái niệm thờ cúng:
Như đã phân tích ở trên, tồn tại nhiều hình thức thờ cúng trong đời
sống văn hóa tinh thần của người Việt từ xa xưa cho đến ngày nay, nhưng phổ
biến nhất, đặc trưng nhất là thờ cúng tổ tiên với ý nghĩa là biết ơn những
người đã có công sinh thành ra mình, hay nói cách khác là hoạt động thờ cúng
chủ yếu dựa trên nền tảng là quan hệ huyết thống giữa người thờ cúng và
người được thờ cúng, được chứng minh trong thực tế đời sống là bất cứ gia
đình người Việt nào từ xưa cho đến ngày nay luôn có bàn thờ tổ tiên được đặt
ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Bên cạnh đó, Điều 670 Bộ luật dân sự quy
định về di sản thờ cúng luôn gắn với di chúc nên đề tài sẽ tập trung phân tích
về di sản thờ cúng với ý nghĩa là thờ cúng tổ tiên trong gia đình chứ không đề
cập đến những hình thức thờ cúng khác.

Theo Từ điển Tiếng Việt thì khái niệm "Thờ cúng", "Thờ phụng", "Thờ
tự" hay "thờ" cùng có chung nghĩa là "Tỏ lòng tôn kính thần thánh, vật thiêng
hoặc linh hồn người chết bằng hình thức lễ nghi cúng bái theo phong tục
hoặc tín ngưỡng" [30, tr. 921].



20
Có quan điểm cho rằng: "Thờ cúng là hoạt động có ý thức của con
người, là tổng thể phức hợp những yếu tố: ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ
tiên và lễ nghi thờ cúng trong không gian thờ cúng.
Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tâm linh, tình cảm, hướng về
cội nguồn của con cháu. Thờ tổ tiên là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn,
tưởng nhớ tổ tiên. Đồng thời cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở, bảo
hộ, trợ giúp của tổ tiên" [10, tr.28].
Trong cuốn Từ điển tín ngưỡng tôn giáo, nhà nghiên cứu Mai Thanh
Hải không đưa ra một khái niệm về thờ cúng tổ tiên mà lại giải nghĩa: "Thờ
cúng tổ tiên: Ở Việt Nam, tuy không phải là một tôn giáo, tục lệ thờ cúng tổ
tiên được nhiều thế hệ truyền qua từ đời này sang đời khác với một tấm lòng
thành kính biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, cụ kỵ đã khuất, kể cả đối với người
đã theo Công giáo. Tục lệ này dựa trên niềm tin là vong hồn tổ tiên thường
ngự trên ban thờ để gần gũi và giúp đỡ con cháu. Hình thức phổ biến để con
cháu đang sống được "tiếp xúc" với tổ tiên đã khuất là ngày giỗ kỵ, các buổi
lễ cáo gia tiên (trước khi có một việc quan trọng trong gia đình, như con gái đi
lấy chồng, hay dọn nhà đi ở hẳn nơi khác ), hoặc mùa có hoa quả mới, gạo
mới. Gia chủ đứng ra khấn vái, thưa trình các chuyện với tổ tiên, sau đó là xin
người đã khuất phù hộ giúp đỡ người đang sống. Đồ cúng có khi chỉ là lễ nhỏ,
đĩa xôi nải chuối, chén rượu, trầu cau, thậm chí nhà nghèo quá chỉ là chén
nước lạnh và hoa quả; tuy nhiên, tết đầu năm và ngày giỗ kỵ thì con cháu
thường làm cỗ bàn cúng mặn, trước cúng sau ăn, năng cúng thì càng có nhiều

cơ hội để con cháu tỏ lòng hiếu thảo. Tục lệ thờ cúng tổ tiên thường gắn với
nếp ghi chép gia phả, với tục kiêng nói đến tên ông bà, cha mẹ " [4, tr.603].
Xuất phát từ nguồn gốc, truyền thống của tín ngưỡng thờ cúng và các
hình thức thờ cúng như đã phân tích ở trên, thờ cúng tổ tiên với ý nghĩa chính
là sự biết ơn công lao của tổ tiên và sự cầu xin tổ tiên trợ giúp, có thể đưa ra



21
khái niệm về thờ cúng tổ tiên như sau: Thờ cúng tổ tiên là hoạt động có ý thức
của con người nhằm bày tỏ lòng thành kính, biết ơn đến tổ tiên, cầu mong sự
che chở, trợ giúp của tổ tiên trước, trong và sau khi con người thực hiện một
công việc mang tính trọng đại hoặc trước một sự kiện quan trọng trong đời
sống thường ngày.
1.3.2. Tài sản thờ cúng
Trước khi tìm hiểu di sản thờ cúng cần phải xác định tài sản thờ cúng là
gì? Theo nghĩa thông thường thì tài sản thờ cúng là tất cả những tài sản dùng
vào thờ cúng bao gồm những tài sản thuộc sở hữu riêng của người đang sống
chủ động dùng vào việc thờ cúng tổ tiên và cả những tài sản mà người để lại
thừa kế để lại chỉ rõ trong di chúc dùng vào việc thờ cúng. Ví dụ, ông Nguyễn
Văn A trước khi mất lập di chúc để lại ngôi nhà mình đang ở cho người con
trai trưởng để làm nơi thờ cúng. Sau khi ông A mất thì người con trai trưởng
sử dụng ngôi nhà làm nơi thờ cúng cha và bỏ tiền riêng mua thêm những bức
hoành phi, câu đối, bộ lư đồng để đưa vào phục vụ cho hoạt động thờ cúng.
Trong trường hợp này thì chỉ có ngôi nhà là di sản thờ cúng còn bức hoành
phi, câu đối, bộ lư đồng không phải là di sản thờ cúng nhưng lại là tài sản thờ
cúng. Ngoài ra, tài sản thờ cúng còn bao gồm cả những tài sản là nhà Từ
đường hoặc Nhà thờ họ. Nhà từ đường hay Nhà thờ họ có thể được hình thành
từ xa xưa nhưng nay không xác định được nguồn gốc xây dựng lên mà nó đã
được dịch chuyển tự nhiên qua các đời lần lượt quản lý hoặc do một người,

một nhóm người trong một họ hoặc cả họ góp tiền xây dựng lên để làm nơi
thờ cúng tổ tiên của dòng họ thì đây là tài sản thờ cúng chứ không phải là di
sản thờ cúng, bởi vì di sản thờ cúng chỉ được hình thành duy nhất bằng “con
đường” di chúc. Tài sản thờ cúng thì bao gồm cả di sản thờ cúng nhưng di sản
thờ cúng không đồng nhất với tài sản thờ cúng. Tài sản thờ cúng có thể được
xác định thuộc sở hữu chung của cộng đồng nhưng di sản thờ cúng lại không

×