Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 125 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***




Bùi Thị Thủy Chung





Lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng


Chuyên ngành : Luật
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ







Người hướng dẫn: PGS. TS. Hà Thị Mai Hiên







HÀ NỘI - 2006
MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng 7
1.1 - Khái quát về trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng và mối quan hệ giữa lỗi với trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng 7
1.2 - Cơ sở của những quy định pháp luật về lỗi trong trách nhiệm dân sự
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 13
1.3 - Khái niệm lỗi, hình thức lỗi và mức độ lỗi trong trách nhiệm dân sự
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 20
1.4 - Khái quát chung sự phát triển của những quy định pháp luật dân sự
về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 32
Chƣơng 2: Lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo Bộ luật dân sự Việt Nam 39

2.1 - Lỗi trong mối liên hệ với các điều kiện khác làm phát sinh trách
nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 39
2.2 - Lỗi với việc xác định loại trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng 46
2.3 - Lỗi với việc xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm dân sự bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng 62

1
2.4 - Lỗi với việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại 67
2.5 - Lỗi trong một số trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể 72
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về lỗi trong trách nhiệm dân
sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và một số giải pháp 89
3.1 - Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về lỗi trong trách nhiệm
dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 89
3.2 - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và việc áp dụng
pháp luật về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng 96
Kết luận 109
Tài liệu tham khảo 111
















2
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang đậm tính nhân dân
với đặc trưng là đề cao các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
nguyên tắc bình đẳng, công bằng là lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
cũng là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta Trong một
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, khi mà các giá trị quyền con người được tôn
vinh và là đích đến của toàn xã hội thì việc giải quyết kịp thời vấn đề bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng được coi là một đại lượng để đánh giá
uy tín và chất lượng của nền dân chủ đó. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
chúng ta đang phát triển một nền kinh tế thị trường năng động với nhiều thành
phần, cùng với sự tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực, những hiện tượng
tiêu cực xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người khác
trong xã hội cũng trở nên phổ biến hơn. Phần lớn thiệt hại xảy ra là thiệt hại
ngoài hợp đồng, nó không xuất phát từ sự vi phạm nghĩa vụ đã được các bên
chủ thể thiết lập sẵn. Giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
vấn đề pháp lý lớn và phức tạp, những sự kiện pháp lý này thường phát sinh
trong đời sống xã hội và là vấn đề phải giải quyết kịp thời nhằm khôi phục lại
những lợi ích đã bị xâm phạm, bù đắp những thiệt hại xảy ra do hành vi trái
pháp luật gây nên và quy trách nhiệm pháp lý ở những người có hành vi trái
pháp luật gây ra những thiệt hại đó. Trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng với mục đích đó được xem như phương tiện pháp lý cần thiết
để bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức khi bị xâm

phạm trái pháp luật; giáo dục người gây thiệt hại và mọi công dân trong xã
hội nói chung về ý thức tuân theo pháp luật, tôn trọng lợi ích của người khác,
của tập thể và lợi ích công cộng.

3
Về nguyên tắc trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
chỉ được đặt ra khi có đủ bốn điều kiện: thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại
trái pháp luật, lỗi, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi gây
thiệt hại trái pháp luật. Trong đó điều kiện lỗi có ý nghĩa quan trọng với việc
chứng minh vấn đề trách nhiệm, xác định chủ thể phải bồi thường và mức bồi
thường. Tuy nhiên, lỗi của chủ thể không phải là yếu tố hữu hình để dễ dàng
nhận biết và đánh giá đúng ngay được nó. Đây là một yếu tố nằm sâu trong ý
thức của con người. Do đó trong nhiều trường hợp việc cảm nhận và khẳng
định sự tồn tại của yếu tố lỗi phải thông qua các yếu tố có biểu hiện rõ ràng
khác. Mặc dù vậy không phải lúc nào sự vật, hiện tượng bên ngoài cũng phản
ánh đúng bản chất sự việc bên trong, cũng cho phép phân tích và kết luận
đúng về lỗi. Thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng cho thấy việc đánh giá lỗi ở chủ thể thường rất khó khăn và
nảy sinh nhiều vướng mắc. Biểu hiện cụ thể là hiện nay còn tồn tại nhiều
tranh luận khác nhau xoay xung quanh vấn đề lỗi trong trách nhiệm dân sự
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đồng thời thực tiễn xét xử cũng cho thấy
rằng: nhìn chung những quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và vấn đề lỗi nói riêng đã đáp ứng kịp thời
trong việc áp dụng để giải quyết bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật
gây ra và đã mang lại những hiệu quả không nhỏ trong việc giáo dục ý thức
pháp luật và tôn trọng pháp luật trong nhân dân. Tuy nhiên, các quy định đó
vẫn còn khá khiếm khuyết cả về mặt kỹ thuật lập pháp và về nội dung của quy
định. Việc hướng dẫn thi hành lại chưa đầy đủ nên thực tiễn áp dụng các quy
định đó gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và không thống nhất. Do đó để nhận
thức được đúng ý tưởng của nhà làm luật thì chúng ta cần thiết phải nhìn nhận

sâu hơn về yếu tố lỗi trên cơ sở chỉ ra mối liên hệ giữa những nguyên tắc lý

4
luận chung của lỗi và đặc thù của loại trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề lỗi nói riêng và trách
nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung có liên hệ mật
thiết với việc xây dựng thành công một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung bởi vì đây
là vấn đề gắn liền với các quyền tự nhiên của con người, với vấn đề đảm bảo
công lý và công bằng xã hội.
Xuất phát từ tính cấp thiết, từ ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc
nghiên cứu vấn đề lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, tôi đã chọn đề tài “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một nội dung quan trọng trong
chế định trách nhiệm dân sự của pháp luật các nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, vấn đề này sớm được phản ánh trong các bộ luật cổ như Quốc triều hình
luật, Hoàng Việt luật lệ… và là một chế định nằm trong chương V, phần thứ
ba Bộ luật dân sự 2005 với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng đặt ra cho khoa
học pháp lý những nhiệm vụ nghiên cứu mới.
Cùng với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, một số đề tài
khoa học cấp Bộ về trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã
được đặt ra nghiên cứu và hoàn thiện; chúng ta cũng đã tổ chức được nhiều
cuộc hội thảo, toạ đàm trong nước cũng như quốc tế liên quan đến vấn đề này
như các cuộc hội thảo Bộ luật dân sự sửa đổi do Nhà pháp luật Việt Pháp tổ
chức tại Hà Nội. Ngoài ra còn có nhiều bài báo, bài nghiên cứu đăng trên các
báo, tạp chí chuyên ngành: báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, báo Pháp


5
luật Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật… Tuy nhiên, hầu hết các bài
viết, các công trình nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một số khía cạnh về
trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Một vấn đề cần phải
thừa nhận là có rất ít công trình nghiên cứu, bài viết về yếu tố lỗi trong trách
nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nếu có cũng chỉ được nhắc
đến một cách chung chung; có rất ít tác giả đề cập một cách toàn diện và sâu
sắc về vấn đề này.
Trong phạm vi luận văn này, người viết mong muốn đi sâu tìm hiểu,
phân tích về lỗi không chỉ ở khía cạnh lý luận của lỗi mà còn đưa vào một số
vấn đề mang tính thực tiễn để những người quan tâm có thể hiểu được bản
chất của lỗi. Từ đó cũng giúp cho các nhà vận dụng pháp luật có cơ sở và
định hướng rõ ràng hơn trong cách thức giải quyết tranh chấp nhằm đảm bảo
nguyên tắc công bằng và nguyên tắc mọi thiệt hại đều được bồi thường xứng
đáng.
3. Giới hạn và nhiệm vụ nghiên cứu
Do được phân chia thành nhiều ngành luật khác nhau, pháp luật Việt
Nam có sự quy định về nhiều loại quan hệ: quan hệ kinh tế, quan hệ thơng
mại, quan hệ lao động, quan hệ hành chính… Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có thể nảy sinh trong bất kỳ một quan hệ nào của đời sống xã hội. Do
đó, pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng được quy định
tương ứng với những loại quan hệ đó. Tuy nhiên xét về bản chất, quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là quan hệ mang tính chất dân sự nên mặc dù
nằm trong các quy định pháp luật pháp luật của các ngành luật khác nhưng
các quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng vẫn có tính chất là nền tảng. Hơn nữa là một đề tài thuộc chuyên ngành
pháp luật dân sự, chúng tôi chỉ tập trung khai thác các quy định của Bộ luật
dân sự về vấn đề này. Cụ thể hơn đó chính là các quy định pháp luật của Bộ


6
luật dân sự về lỗi tại Điều 308 và trong chế định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng tại chương XXI – Phần thứ ba.
Nghiên cứu đề tài “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng” nhằm đưa ra một bức tranh toàn cảnh về trách nhiệm dân sự
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nhận thức đối với vấn đề này trong xã hội
nói chung và của những người nghiên cứu áp dụng pháp luật nói riêng; đánh
giá những thành tích đã đạt được và những bất cập, hạn chế còn tồn tại; trên
cơ sở đó đưa ra ý kiến đề xuất hướng hoàn thiện. Từ mục đích đó, nhiệm vụ
đặt ra là phải chỉ ra được cơ sở của lỗi, ý nghĩa của lỗi với các vấn đề trong
trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cuối cùng đưa ra
kiến nghị giúp cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự về lỗi trong bồi
thường thiệt hại.
4. Cơ sở nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở khoa học của đề tài: Đề tài được thực hiện trên cơ sở chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công cuộc cải cách tư pháp,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó có việc hoàn thiện
hơn nữa các quy định pháp luật về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Cơ sở thực tiễn của đề tài: Đánh giá thực trạng về lỗi trong trách nhiệm
dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thông qua các số liệu thống kê và
thực tiễn nhận thức về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng qua một số bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí….
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, trong luận văn này, tôi đã sử dụng phương
pháp cụ thể như phân tích, logic và lịch sử, luật học so sánh giữa những quy

7

định cùng loại, đánh giá, tổng hợp một số tài liệu, số liệu, thông tin trong các
báo cáo, tạp chí, bài báo, số chuyên đề, sách tham khảo, đề tài nghiên cứu
khoa học, các văn bản pháp luật có liên quan cùng các gợi ý của cô hướng dẫn
để hoàn thành luận văn này.
6. Điểm mới của đề tài
Có thể nêu ra một số điểm mới của luận văn về đề tài “Lỗi trong trách
nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” như sau:
Thứ nhất, trong phạm vi luận văn này, người viết tập trung phân tích,
đánh giá những quy định pháp luật về lỗi trên cơ sở chỉ ra ý nghĩa của lỗi, cơ
sở của lỗi với các vấn đề trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Dưới góc độ nhận thức khoa học, việc nghiên cứu chế định lỗi để
đưa ra mô hình lý luận của nó không chỉ có ý nghĩa lý luận - thực tiễn mà còn
có ý nghĩa xã hội - pháp lý quan trọng.
Thứ hai, luận văn đưa ra một số hạn chế và đề ra những yêu cầu cũng
như sự cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật về lỗi
trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, người viết đề xuất một số giải pháp cho việc hoàn thiện vấn đề
lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại về hợp đồng nói riêng và
pháp luật về trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Về kết cấu của luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I – Những vấn đề lý luận về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Chương II – Những quy định về lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự Việt Nam.

8
Chương III – Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về lỗi trong trách

nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và một số giải pháp.
Những nội dung mà luận văn đề cập là rất hẹp và phức tạp cả về lý luận
và thực tiễn, thời gian hoàn thành luận văn lại có hạn, vì vậy luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được sự đóng góp quý
báu của các nhà giáo, các nhà nghiên cứu và bạn bè đồng nghiệp để hoàn
chỉnh luận văn này.





















9
Chƣơng I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

1.1- Khái quát về trách nhiệm dân sự bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp
đồng và mối quan hệ giữa lỗi với trách nhiệm dân sự bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Trong đời sống dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hiện
tượng thường xuyên diễn ra và mang tính phổ biến, nảy sinh trong nhiều lĩnh
vực khác nhau. Nhằm kịp thời điều chỉnh cho loại quan hệ này, vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sớm được ghi nhận trong các quy
định pháp luật dân sự.
Trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý. Ở mức độ khái quát, về bản chất trách nhiệm dân sự bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một dạng cụ thể của trách nhiệm dân sự,
được hiểu là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế, áp dụng
với người có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác mà gây thiệt hại và phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt
hại. Trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phát sinh
trên cơ sở hợp đồng mà trên cơ sở do pháp luật quy định. Trong thực tế đời
sống xã hội, một quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ
phát sinh khi một chủ thể này bằng hành vi của chính mình gây thiệt hại đối
với một chủ thể khác mà trước đó không có quan hệ hợp đồng với nhau (hoặc
trước đó có tồn tại một quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không
liên quan gì đến việc thực hiện hợp đồng đó). “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là bồi thường thiệt hại gây nên không phải do vi phạm nghĩa vụ đã thoả

10
thuận trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật”. Ở đây chính sự kiện gây
thiệt hại là cơ sở tạo nên mối quan hệ pháp luật giữa người gây thiệt hại với
người bị thiệt hại và nghĩa vụ bồi thường của chủ thể mang trách nhiệm.

Trong trường hợp này, việc bồi thường được đặt ra theo yêu cầu của bên chủ
thể bị thiệt hại trên cơ sở những quy định chung của pháp luật và một chế tài
dân sự lúc này sẽ mang ý nghĩa là sự bổ sung nghĩa vụ mà chủ thể gây thiệt
hại phải gánh chịu do hành vi vi phạm pháp luật của mình. Chính vì vậy,
trong quan hệ xã hội nói chung việc bồi thường thiệt hại đó đã dần dần thay
thế cho những phong tục, tập quán lạc hậu như: ăn miếng trả miếng, trả thù cá
nhân… Trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chủ yếu phát
sinh do ngẫu nhiên, bất chợt, không được dự liệu trước. Và như vậy, mục đích
cơ bản của trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm
khắc phục hậu quả, đền bù tổn thất do hành vi vi phạm pháp luật đã gây ra
(bao gồm cả tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần), khôi phục lại quyền
và lợi ích đã bị xâm phạm của người bị thiệt hại, bảo vệ, giữ gìn sự phát triển
bình thường của các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản từ đó nhằm giáo dục
mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ Nhà nước, tôn trọng quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này
luôn mang đến những hậu quả bất lợi về tài sản của người gây ra thiệt hại để
bù đắp những thiệt hại mà họ đã gây ra cho các chủ thể khác, đặc biệt đối với
các hành vi phạm tội có động cơ vụ lợi. Vì vậy, trong pháp luật dân sự không
thể coi giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc áp dụng một
biện pháp chế tài hình sự, lại càng không thể xem nhẹ coi nó như một hình
phạt phụ được.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vừa có tính cưỡng chế nhà nước vừa có
tính tự do thoả thuận giữa các bên. Cũng như các trách nhiệm pháp lý khác,
trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng với chủ

11
thể có hành vi vi phạm, có năng lực trách nhiệm pháp lý và có lỗi. Trong đó
lỗi là căn cứ có ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy có những thiệt hại xảy ra
là do sự tác động của cả chủ thể gây thiệt hại và chủ thể bị thiệt hại. Bởi vậy,
khi nói đến lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

cũng cần xem xét đến hai khía cạnh: lỗi của chủ thể gây thiệt hại và lỗi của
chủ thể bị thiệt hại. Trước hết là trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
của người bị thiệt hại. Người bị thiệt hại là tác nhân gây ra thiệt hại cho chính
bản thân mình, tự mình thực hiện những hành vi xâm phạm đến những quyền
về nhân thân, quyền về tài sản mà mình được hưởng một cách hợp pháp. Vì
vậy, họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những việc làm của mình, về sự
thiếu trách nhiệm của chính bản thân. Điều đó là hợp lý và vấn đề trách nhiệm
không được đặt ra trong trường hợp này. Chính vì thế khi nêu vấn đề lỗi với
vấn đề trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chúng tôi
muốn tập trung tìm hiểu mối liên hệ giữa vấn đề lỗi và vấn đề trách nhiệm
dưới phương diện pháp lý.
Trong khoa học pháp lý, vấn đề trách nhiệm là một trong những vấn đề
phức tạp bậc nhất của lý luận về nhà nước và pháp luật. Trách nhiệm pháp lý
là một loại quan hệ đặc biệt giữa nhà nước, thông qua cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó bên vi phạm phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở
những chế tài pháp luật. Trách nhiệm pháp lý là sự thực hiện chế tài được xác
định trong quy phạm pháp luật đối với người có hành vi vi phạm. Việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi vi phạm phải gánh chịu
những tước đoạt tài sản hay những hạn chế về nhân thân là biểu thị thái độ
phản ứng của nhà nước trước những hành vi trái pháp luật. Với ý nghĩa đó,
trách nhiệm pháp lý gắn liền với vi phạm pháp luật và là hậu quả tất yếu của

12
việc không thực hiện hoặc không thực hiện đúng các quy tắc xử sự mà pháp
luật đã quy định.
Quan niệm trên được hình thành từ rất sớm và chịu ảnh hưởng bởi Luật
hình sự. Nhà nước La Mã cổ đại đã từng áp dụng những hình phạt nặng nề đối
với những vi phạm pháp luật như trộm cắp, giết người. Ngay cả con nợ cũng
đã từng bị bỏ tù khi không có khả năng thanh toán… Cùng với sự phát triển

của lịch sử, nhiều quan hệ xã hội mới hình thành đã dẫn đến sự ra đời của
nhiều ngành luật như Luật hành chính, Luật lao động, Luật thương mại…
Trách nhiệm pháp lý được kế thừa, áp dụng trong các ngành luật đó với
những nét đặc thù. Mặc dù vậy, với chức năng chủ yếu là bảo vệ các quan hệ
xã hội, trách nhiệm pháp lý luôn được coi là “ trách nhiệm đối với hành vi đã
xảy ra”.
Ngày nay, pháp luật đóng vai trò ngày càng tăng trong việc tác động đến
quan hệ kinh tế xã hội. Pháp luật không chỉ dừng lại ở chức năng bảo vệ các
quan hệ xã hội mà còn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ xã
hội theo những quy luật khách quan. Vì vậy pháp luật không chỉ giới hạn
trong khuôn khổ củng cố và hoàn thiện các chế tài nhằm xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm đã xảy ra mà còn có những tác động tích cực đến việc
hình thành ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên trong xã hội. Thực hiện vai
trò này, pháp luật quy định trách nhiệm thực hiện một nhiệm vụ, một hành vi
nào đó. Chẳng hạn Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 quy định: “Công dân phải trung thành với Tổ quốc” (Điều 76),
“Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn
dân” (Điều 77)… Từ góc độ này, ở mức độ khái quát, trách nhiệm là nghĩa
vụ. Pháp luật đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện những công việc nhất định
phù hợp với lợi ích của xã hội và bảo đảm trật tự quản lý kinh tế xã hội nói

13
chung. Đó là trách nhiệm xã hội tích cực cần có ở mỗi cá nhân, bởi vì: “ cá
nhân là chủ thể của xã hội, có vai trò thúc đẩy xã hội phát triển”
Như vậy, trong khoa học pháp lý hiện đại khái niệm trách nhiệm có thể
được hiểu với hai ý nghĩa: Trách nhiệm là nghĩa vụ pháp lý thể hiện trách
nhiệm xã hội tích cực trong việc thực hiện những yêu cầu của pháp luật và thứ
hai là trách nhiệm do vi phạm pháp luật, do không thực hiện nghĩa vụ pháp lý.
Mặc dù vậy thuật ngữ “trách nhiệm pháp lý” thường được sử dụng phổ biến
với ý nghĩa là trách nhiệm do vi phạm pháp luật. X.X Alecxeev- một chuyên

gia đầu đàn của khoa học pháp lý Xô viết đã từng kết luận: “Trách nhiệm
pháp lý gắn liền với vi phạm pháp luật, dẫn đến việc áp dụng những nghĩa vụ
mới đối với người vi phạm: trừng phạt, tước đoạt một số quyền khác, bắt buộc
thực hiện những nghĩa vụ bổ sung”. Mối quan hệ giữa trách nhiệm và nghĩa
vụ trong luật dân sự hiện nay đang còn nhiều tranh luận. Nghĩa vụ và trách
nhiệm cái nào có trước, cái nào có sau và mối quan hệ giữa hai yếu tố? Chủ
thể trong xã hội đều có những nghĩa vụ, nếu vi phạm các nghĩa vụ này chủ thể
sẽ phải chịu hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm. Đó là hậu quả bất lợi của
người vi phạm.
Chúng tôi muốn đề cập tới vấn đề trách nhiệm trong mối liên hệ với lỗi
dưới phương diện này. Chủ thể mang trách nhiệm là chủ thể có nghĩa vụ pháp
lý phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định nhưng đã vi
phạm nghĩa vụ ấy. Do đó họ phải gánh chịu một hậu quả bất lợi. Cụ thể trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ thể mang trách nhiệm là
chủ thể gây thiệt hại do có những hành vi vi phạm những đòi hỏi của pháp
luật, của xã hội. Vì thế nên họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của chính
bản thân mình, chứ không phải bất kỳ một chủ thể nào khác. Trong trường
hợp có đặt ra lỗi của chủ thể bị thiệt hại cũng là nhằm đánh giá lỗi và trách
nhiệm của người gây thiệt hại. Như vậy, lỗi của chủ thể gây thiệt hại chính là

14
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường của chính chủ thể đó. Thực tế cho
thấy hậu quả pháp lý mà loại trách nhiệm này mang đến cho người gây thiệt
hại luôn là sự bất lợi về tài sản nên để quy trách nhiệm cho người đó nhất
thiết phải chứng minh được trong hậu quả xảy ra có tồn tại lỗi của họ hay
không và lỗi đó chiếm một phần hay toàn bộ. Trong luật Dân sự, người ta
không liệt kê cụ thể hành vi nào bị coi là trái pháp luật, việc bồi thường căn
cứ vào lỗi và hậu quả xảy ra.
Trong trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây ra thiệt
hại thì những người phải bồi thường thiệt hại bao gồm: người gây thiệt hại và

người bị thiệt hại. Mức độ bồi thường phụ thuộc vào mức độ lỗi của từng
người và nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người
gây thiệt hại không phải bồi thường.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, có một số trường hợp trách nhiệm bồi thường phát
sinh không phụ thuộc vào yếu tố lỗi. Đây là trường hợp được suy đoán là có
lỗi, vì hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành
vi đó bị suy đoán là có lỗi. Ngay cả trong trường hợp này yếu tố lỗi vẫn cần
thiết phải xem xét đến. Nó quan trọng trong việc xác định trách nhiệm và chủ
thể bồi thường.
Điều kiện chủ quan của lỗi là năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Chúng ta không thể nói đến lỗi của một người không có năng lực nhận
thức được ý nghĩa xã hội của hành vi mà mình thực hiện hoặc không có năng
lực điều khiển hành vi theo các chuẩn mực và yêu cầu của xã hội. Bởi vậy,
những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
sẽ không có lỗi.
Nghiên cứu và xác định lỗi phải đặt trong tổng thể các tình tiết xung
quanh sự thực hiện một hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cụ thể, điều kiện,

15
hoàn cảnh kinh tế- xã hội có tác động đến việc thực hiện hành vi đó. Quá trình
tâm lý diễn ra trong ý thức chủ thể có hành vi gây thiệt hại gắn liền với quá
trình thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội. Đây không phải là quá trình
tự nó, tách biệt hoàn toàn với những điều kiện, hoàn cảnh khách quan cụ thể.
Nói cách khác, việc nhìn nhận lỗi một cách phiến diện, tách biệt với các căn
cứ khác sẽ dẫn đến xét xử sai, không đảm bảo được quyền và lợi ích của cả
người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hoặc bỏ lọt tội phạm. Theo đó việc quy
định chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật
không đạt được và cũng không bộc lộ được ý nghĩa tích cực của nó.
Như vậy lỗi là yếu tố thực sự quan trọng và cần thiết để giải quyết vấn

đề trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên đây
cũng là một vấn đề hết sức phức tạp, do lỗi không phải là một yếu tố hữu hình
để dễ dàng nắm bắt mà nó nắm sâu trong ý thức của con người, chịu sự chi
phối bởi các yếu tố chủ quan và các điều kiện khách quan khác nhau.
1.2- Cơ sở của những quy định pháp luật về lỗi trong trách nhiệm
dân sự bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.
Lỗi chính là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với một người về hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại cho xã hội của họ. Vậy dựa trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc
con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ. Hay nói cách khác dựa
trên những nguyên tắc lý luận nào để nhà làm luật ghi nhận yếu tố lỗi trong
trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trong cuộc sống, giữa các hiện tượng của thực tại khách quan luôn có
mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau. Không có hiện tượng nào tồn tại
một cách độc lập, khu biệt và tách rời với hiện tượng kia Giữa các hiện
tượng của thực tại khách quan luôn có sự chi phối, quy định, ràng buộc lẫn
nhau. Hiện tượng này là cơ sở, nền tảng của hiện tượng kia, thậm chí là hệ

16
quả có được từ hiện tượng kia. Mối quan hệ phổ biến này đã được khẳng định
thành một nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin “Tất cả thế giới mà chúng ta
có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng
khít với nhau…”. Với ý nghĩa là một hiện tượng của thực tại khách quan, giữa
hành vi xử sự của con người, vấn đề ý thức và vấn đề trách nhiệm cũng không
nằm ngoài mối liên hệ biện chứng đó.
Theo Mác, “Bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã
hội”. Ở con người luôn tồn tại và phát sinh những nhu cầu và để thoả mãn
những nhu cầu đó con người phải tham gia vào các quan hệ xã hội, phải tiến
hành những hoạt động cụ thể tác động vào thế giới khách quan. Những quan
hệ đó được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, rất đa dạng về tính chất,

chủ thể, về lợi ích và nội dung của quan hệ… Do đó, ngoài việc tạo ra những
cơ sở, những điều kiện cho các chủ thể xác lập nên những quan hệ dân sự tuỳ
thuộc vào nhu cầu của mình còn có một cơ chế để đảm bảo lợi ích cho các
chủ thể khi bị xâm phạm. Bồi thường thiệt hại là một thuộc tính không thể
thiếu của quan hệ dân sự để nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị thiệt hại.
Việc giải quyết trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về
bản chất chính là việc áp dụng một biện pháp thuộc về chế độ trách nhiệm dân
sự nhằm hướng đến hai mục đích là: đền bù tổn thất do hành vi vi phạm pháp
luật gây ra, bao gồm cả những tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần;
giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác và của xã hội.
Như vậy để thoả mãn các nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần con
người phải tiến hành các hoạt động cụ thể tác động vào thế giới khách quan.
Quá trình tác động đó là nhân tố quan trọng có tính quyết định đến sự hình
thành, tồn tại và phát triển của xã hội. Chính trong quá trình tác động đó, hoạt
động của con người lại chịu sự quy định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất,

17
chịu sự chi phối bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Mặc dù vậy, hành vi, xử sự của con người không bao giờ lệ thuộc hoàn
toàn vào ngoại cảnh và thể hiện sự phản ánh trực diện của con người với
ngoại cảnh. Mọi sự tác động của thực tiễn khách quan vào hành vi của con
người luôn thông qua kênh gián tiếp, đó là ý chí và ý thức. V.I. Lenin đã vạch
rõ quy luật chung nhất của hoạt động nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. Xử
sự của con người chính là kết quả của sự tương tác giữa những điều kiện của
môi trường xung quanh với những điều kiện của chính bản thân con người ấy.
Mỗi một cá nhân khác nhau sẽ có những xử sự khác nhau do có sự khác
nhau về điều kiện môi trường sống, khác nhau ở chính những điều kiện bên

trong của mỗi người. Xử sự của con người tuy chịu sự tác động của các điều
kiện kinh tế xã hội nhưng không phải là kết quả trực tiếp của riêng các điều
kiện kinh tế xã hội vì “Mọi sự tác động của một hiện tượng lên một hiện
tượng khác đều bị khúc xạ bởi các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác
động”. Ở một cá nhân cụ thể, những thuộc tính bên trong là khác nhau thể
hiện ở năng lực tri thức, năng lực hoạt động, vốn kinh nghiệm, lợi ích, nhu
cầu, phẩm chất, tâm lý, thái độ Các điều kiện bên ngoài tác động đến con
người không phải một cách máy móc, rập khuôn mà phải thông qua sự suy xét
của lý trí và sự quyết định của ý chí của chính họ. Để thoả mãn bất kỳ một
nhu cầu nào trong đời sống cũng đều có nhiều biện pháp giải quyết và việc
lựa chọn biện pháp nào là kết quả của hoạt động lý trí và ý chí của con người.
Do đó cùng chịu sự tác động của một điều kiện kinh tế xã hội như nhau nhưng
ở mỗi người có thể lựa chọn biện pháp xử sự không giống nhau. Con người
khi đã có quyền lựa chọn là có tự do.

18
Như vậy, con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì hành
vi của con người tuy có tính tất yếu nhưng đồng thời có tính tự do. Nói chung
đặt trong điều kiện bình thường, hành vi của con người khi biểu hiện ra bên
ngoài mang hai thuộc tính: tính bị quy định trước bởi các quy luật khách quan
hay tính tất yếu và tính tự do ý chí. Tính tất yếu của hành vi con người thể
hiện ở chỗ hành vi được hình thành không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời
những điều kiện xã hội mà được hình thành một cách có quy luật, là kết quả
của sự tác động qua lại giữa những điều kiện xã hội và con người. Khẳng định
điều đó cũng không có nghĩa là xử sự cụ thể của con người có tính tất yếu
tuyệt đối, không thể tránh được. Chủ nghĩa Mác Lênin tuy thừa nhận tính tất
yếu, thừa nhận tính quy định trước trong xử sự của con người nhưng dựa trên
cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa tự
do và tất yếu, giữa quy luật và hoạt động của con người, chủ nghĩa Mác Lênin
không phủ nhận tính tự do ý chí của con người. Mọi xử sự của con người đều

chịu sự chi phối rất lớn bởi quy luật khách quan nhưng con người nhờ hoạt
động ý thức có khả năng nhận thức được quy luật và lợi dụng quy luật thực
hiện theo mục đích của mình. Tính “tự do ý chí không phải là cái gì khác hơn
là cái năng lực quyết định một khi đã hiểu rõ được sự việc”. Tự do ý chí là
khả năng tâm lý của con người có thể tự mình lựa chọn và thực hiện biện
pháp xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Nói cách khác con người
khi có sự tự do ý chí tức là họ có sự tự do trong quá trình nhận thức, tự do để
lựa chọn, quyết định và thực hiện một xử sự – kết quả của quá trình nhận
thức. Đó chính là tự do của con người. Tuy nhiên tự do ở đây là một khái
niệm mang tính tương đối vì tự do của người này lại bị giới hạn bởi tự do của
người khác và khi họ thực hiện sự tự do của mình cũng phải đảm bảo cho sự
tự do của người khác cũng được thực hiện. Con người chỉ thực sự có được sự
tự do khi họ lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự phù hợp với quy luật, với

19
đòi hỏi của xã hội. Ngược lại khi tiến hành những xử sự đi ngược lại với lợi
ích của xã hội, làm phương hại đến lợi ích của người khác khi có thể xử sự
phù hợp với đòi hỏi của xã hội tức là họ đang xâm phạm đến tự do của người
khác đồng thời cũng tước bỏ tự do của chính mình. Khi đó tất yếu họ phải
chịu trách nhiệm về chính hành vi sai trái của mình. Trách nhiệm đó do Nhà
nước đặt ra nhằm thực hiện sự ổn định và công bằng trong xã hội. Như vậy tự
do ý chí là cơ sở để lên án người có hành vi trái pháp luật.
Như vậy giữa tự do trong xử sự của con người với trách nhiệm của họ
với xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tự do luôn gắn liền với trách
nhiệm và trách nhiệm chỉ được đặt ra khi con người thực hiện hành vi mà
hoàn toàn có tự do. Trong điều kiện có đầy đủ những khả năng khách quan và
chủ quan để lựa chọn một xử sự thoả mãn những đòi hỏi của xã hội nhưng họ
đã vứt bỏ những khả năng ấy để đặt mình vào xử sự vi phạm tức là họ đã có
lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm. Trách nhiệm khi đó sẽ được đặt ra với họ.
Tuy nhiên, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vẫn

phát sinh trong một số trường hợp không phụ thuộc vào yếu tố lỗi. Đó là khi
một người do yếu tố thể chất mà mất đi năng lực nhận thức hay do tác động
của người khác mà hoàn toàn không có sự tự do về ý chí, tự do để lựa chọn và
quyết định xử sự khi thực hiện hành vi vi phạm, người đó không phải chịu
trách nhiệm. Ngoài ra trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra hoàn toàn
nằm ngoài sự kiểm soát của ý chí, ý thức, không nằm trong sự lựa chọn và
quyết định của cá nhân thì cá nhân đó cũng không bị áp dụng một loại trách
nhiệm nào cả. Trong những trường hợp nêu trên, cá nhân không có lỗi với
hành vi xử sự của mình. Theo đúng lý luận về lỗi trong trách nhiệm pháp lý
nói chung và trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
riêng thì chủ thể thực hiện xử sự đó không phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên
trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đối với những

20
trường hợp nêu trên trách nhiệm bồi thường vẫn phát sinh, không phụ thuộc
vào yếu tố lỗi. Nghĩa là khi về mặt thực tế hành vi gây thiệt hại không phải là
kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định của chủ thể, họ hoàn toàn bị động khi
bị đặt trước tình huống có sự xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vậy tại sao chủ thể đó vẫn bị quy
trách nhiệm trong khi họ không có lỗi. Điều đó không hề mâu thuẫn với
nguyên tắc trách nhiệm phát sinh trên cơ sở có lỗi mà chúng tôi đã phân tích ở
trên.
Con người là vốn quý nhất trong xã hội. Quyền được bảo vệ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công
dân, tổ chức. Pháp luật của Việt Nam cũng như pháp luật của nhiều nước trên
trên thế giới đều chú trọng những quy định nhằm bảo vệ quyền con người,
quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản
cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Cụ thể Điều 71 Hiến pháp năm
1992 quy định rõ “ Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, về danh dự nhân phẩm”. Cụ thể hơn

Điều 2 Bộ luật dân sự quy định nguyên tắc chung của pháp luật “không được
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác”. Và trong các quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam
cũng khẳng định lại nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền nhân thân tại Điều 5,
nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản tại
Điều 6. Thực tế cho thấy, quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, về danh
dự, nhân phẩm, về tài sản là quyền tuyệt đối của con người. Nó là quyền tự
nhiên của con người, từ khi sinh ra con người đã có quyền được hưởng và có
quyền đòi hỏi xã hội thừa nhận. Vì vậy sự đảm bảo bằng pháp luật cho những
quyền và lợi ích hợp pháp này được thực hiện cũng đòi hỏi là sự đảm bảo
mang tính tuyệt đối. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của các

21
chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm” đến các
quyền tuyệt đối đó. Mọi hành vi vi phạm đến quyền nhân thân, quyền tài sản
hợp pháp đó đều là hành vi trái pháp luật và có khả năng phải gánh chịu một
hay một số loại trách nhiệm pháp lý cụ thể. Chủ thể bị xâm hại có quyền yêu
cầu chủ thể xâm hại hoặc Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác buộc
người gây thiệt hại phải bồi thường. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong Luật Dân sự là một nét đặc thù của pháp luật Việt Nam, nó là
sự cụ thể hoá các nguyên tắc chung trong những trường hợp cụ thể.
Điều 3 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Nhà nước đảm bảo và không
ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, xây dựng đất nước
giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội”. Công bằng là một giá trị xã hội quan
trọng của pháp luật dân sự nói chung. Sự cưỡng chế của Nhà nước được xem
là công bằng khi các chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý nếu có hành
vi vi phạm và mức độ vi phạm phải tương xứng với mức độ trách nhiệm. Do
vậy, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần phải được
xây dựng trên cơ sở công bằng, hợp lý; công bằng là cái thước đo trách nhiệm
bồi thường thiệt hại đã thực sự hợp lý và phù hợp hay chưa.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối
với tư liệu sản xuất và nhiều lợi ích khác nhau, vấn đề đặt ra là phải làm sao
để đảm bảo được lợi ích của chủ thể và công bằng xã hội. Nhà nước không
những phải đảm bảo về mặt pháp lý mà còn về mặt thực tế cho lợi ích của các
chủ thể. Chính vì thế, trong lưu thông dân sự, các chủ thể phải thực hiện
những hành vi của mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép để không gây
thiệt hại đến lợi ích của chủ thể khác và không làm tổn hại đến lợi ích của xã
hội. Do vậy, khi có hành vi trái pháp luật của một chủ thể nào đó gây thiệt hại
cho một chủ thể khác thì đương nhiên họ phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại đã gây ra, trên cơ sở mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không

22
phân biệt đối xử như tôn giáo, dân tộc, thành phần xã hội… Trong những điều
kiện như nhau thì các chủ thể phải chịu trách nhiệm như nhau, sự bình đẳng
cả về năng lực pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khác với trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi người phạm tội có lỗi
thì trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trong
một số trường hợp không cần tính đến yếu tố lỗi của người gây thiệt hại. Điều
này được giải thích dựa trên nguyên tắc lớn nhất là nguyên tắc bảo vệ quyền
nhân thân, quyền tài sản hợp pháp của con người đồng thời có sự chi phối của
tính chất và mục đích khi xây dựng từng loại trách nhiệm. Trách nhiệm hình
sự đặt ra mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội trong đó người thực
hiện tội phạm phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm mà họ gây ra. Mục đích của hình phạt là nhằm trừng trị
người có hành vi phạm tội và có lỗi đồng thời nhằm giáo dục, cải tạo họ. Vì
vậy nếu như áp dụng hình phạt với người không có lỗi khi thực hiện tội phạm
thì thực chất đang trực tiếp xâm phạm đến quyền nhân thân, quyền tài sản
hợp pháp của người đó. Do đó luật hình sự không chấp nhận việc quy tội
khách quan.
Với trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tồn tại mối

quan hệ giữa người gây thiệt hại, người bị thiệt hại. Khi có thiệt hại thực tế do
hành vi vi phạm pháp luật gây nên cũng đồng nghĩa là đang có sự xâm phạm
đến các quyền nhân thân, quyền tài sản hợp pháp của chủ thể nào đó và đặt ra
yêu cầu cần được bảo vệ. Với mục đích nhằm khắc phục thiệt hại, bảo vệ, giữ
gìn sự phát triển bình thường của các quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản trong
đời sống dân sự, trên cơ sở đó đề cao nguyên tắc tôn trọng quyền thiêng liêng,
hợp pháp của con người đồng thời ghi nhận một nguyên tắc chung nhất đã
được pháp luật và tập quán các nước thừa nhận là “người gây ra thiệt hại phải
bồi thường cho người bị thiệt hại”, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại

23
ngoài hợp đồng vì thế xuất hiện ngay cả khi không tồn tại yếu tố lỗi. Tuy
nhiên để đảm bảo quyền nhân thân, quyền tài sản cho chính chủ thể phải
mang trách nhiệm không phải mọi trường hợp không có lỗi, việc áp đặt trách
nhiệm bồi thường đều được đặt ra. Pháp luật dự liệu một số trường hợp loại
trừ trách nhiệm bồi thường cho chủ thể không có lỗi. Điều này hoàn toàn hợp
lý, công bằng và nó nằm trong sự thống nhất với nguyên tắc mang tính chất
bao trùm là bảo vệ tuyệt đối quyền và lợi ích hợp pháp về nhân thân, về tài
sản của con người trong xã hội.
1.3- Khái niệm lỗi, hình thức lỗi, mức độ lỗi trong trách nhiệm dân
sự bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
1.3.1- Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Viện ngôn ngữ học đưa ra định nghĩa
về lỗi như sau: “Lỗi là điều sai sót, không nên, không phải trong cách xử sự,
trong hành động”. Đây là cách hiểu thông thường về lỗi trong đời sống hàng
ngày. Định nghĩa này mới mô tả lỗi ở hiện tượng bề ngoài là xử sự, là hành
động. Nó chưa nói lên được bản chất bên trong của lỗi, thái độ tâm lý của
người thực hiện hành vi bị cho là có lỗi. Chính vì vậy, dưới góc độ là một
thuật ngữ luật học và trong mối liên hệ với vấn đề trách nhiệm, định nghĩa

trên chưa thật cụ thể, không lý giải được vì sao lỗi là cơ sở phát sinh trách
nhiệm.
Hiện nay, trong các quy định pháp luật, chưa có một quy định nào ghi
nhận hay đưa ra một định nghĩa chính xác, đầy đủ về lỗi. Do đó, chúng ta chỉ
có thể bàn về lỗi dựa trên cơ sở các quan điểm khoa học pháp lý.
Luật gia người Pháp Planiol cho rằng: “ Lỗi là sự vi phạm nghĩa vụ đã
sẵn có”. Quan điểm đó mới chỉ xác định là lỗi khi có sự vi phạm các nghĩa vụ
đã được quy định xác lập sẵn, chẳng hạn như nghĩa vụ trong hợp đồng

×