Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 103 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐOÀN THU NGA





GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
GIỮA CÁC BÊN LIÊN DOANH TRONG
DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
TẠI VIỆT NAM








LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC











HÀ NỘI- NĂM 2006




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐOÀN THU NGA




GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
GIỮA CÁC BÊN LIÊN DOANH TRONG
DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
TẠI VIỆT NAM




CHUYÊN NGÀNH: PHÁP LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ QUANG







HÀ NỘI - NĂM 2006

1/101
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 4
Chƣơng 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TCKT VÀ GIẢI QUYẾT TCKT
GIỮA CÁC BÊN TRONG DNLD TẠI VIỆT NAM 12
1.1) Khái niệm TCKT theo quy định của pháp luật Việt Nam 12
1.1.1) Khái niêm « tranh chấp » 12
1.1.2) Khái niệm « tranh chấp kinh tế » 13
1.1.3) Các loại tranh chấp kinh tế 15

a) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế 15
b) Tranh chấp phát sinh không từ hợp đồng kinh tế 16
1.2) Khái niệm TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam 16
1.2.1) Một số vấn đề chung về DNLD theo quy định của pháp luật Việt Nam .16
1.2.2)

Khái niệm TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
19
a) Khái niệm 19
b) Đặc điểm chung của TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
20
c) Các loại TCKT và đặc điểm của các loại TCKT giữa các bên trong DNLD
tại Việt Nam 22
d) Nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong DNLD
26
1.3) Vấn đề giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam 29
1.3.1) Cơ chế giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
29
a) Khái niệm « cơ chế giải quyết TCKT » 29
b) Cơ chế giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
31
1.3.2) Đặc điểm cơ chế giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt
Nam
33
1.3.3) Cơ sở pháp lý về giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt
Nam
35
Chƣơng 2 - THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TCKT GIỮA CÁC BÊN TRONG
DNLD TẠI VIỆT NAM 38
2/101

2.1) Tổng quan về tranh chấp trong DNLD 38
2.2) Thực trạng TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam 39
2.3) Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết TCKT giữa các bên trong
DNLD tại Việt Nam 47
2.3.1) Vai trò của pháp luật ĐTNN tại Việt Nam trong giải quyết TCKT
giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam trong thời gian qua
48
2.3.2) Những tồn tại và bất cập của pháp luật về đầu tƣ nƣớc ngoài trong
việc giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam trong thời
gian qua
52
2.4) Một số nhận xét bƣớc đầu về phƣơng thức giải quyết TCKT giữa các bên trong
DNLD tại Việt Nam 58
2.4.1) Phƣơng thức giải quyết bằng thƣơng lƣợng
59
2.4.2) Phƣơng thức giải quyết bằng hoà giải
61
2.4.3) Phƣơng thức Trọng tài
64
2.4.4) Phƣơng thức giải quyết bằng Toà án
68
Chƣơng 3 - NHỮNG KIẾN NGHỊ VỀ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HẠN
CHẾ PHÁT SINH TCKT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TCKT
GIỮA CÁC BÊN TRONG DNLD TẠI VIỆT NAM 74
3.1) Phƣơng hƣớng và giải pháp hạn chế phát sinh TCKT giữa các bên trong DNLD tại
Việt Nam 74
3.1.1) Nâng cao ý thức pháp luật của các bên trong DNLD
74
3.1.2) Nâng cao kiến thức pháp luật và năng lực quản lý của bên Việt Nam
trong DNLD

77
3.2) Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết TCKT giữa các bên trong
DNLD tại Việt Nam 79
3.2.1) Hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định về cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
81
3.2.2) Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền trong việc giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
93
3/101
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 101





101/101

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


DN
:
Doanh nghiệp
ĐTNN
:
Đầu tư nước ngoài
TCKT

:
Tranh chấp kinh tế
DNLD
:
Doanh nghiệp liên doanh
HĐQT
:
Hội đồng quản trị
UBND
:
Ủy ban nhân dân

4/101
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế của nƣớc ta, kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (ĐTNN) là
một bộ phận quan trọng. Theo chủ trƣơng đƣờng lối, chính sách của Đảng, thu hút
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài sẽ góp phần khai thác các nguồn lực trong nƣớc và nƣớc
ngoài, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nƣớc.
Quả thực, kể từ khi ban hành Luật ĐTNN lần đầu tiên năm 1986 cho đến
nay, hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng
và tác động tích cực tới sự tăng trƣởng kinh tế của Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, tính từ năm 1988 đến hết tháng 6
năm 2006, cả nƣớc đã cấp giấy phép đầu tƣ cho trên 7.550 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài
với tổng vốn cấp mới 68,9 tỷ USD, trong đó có 6.390 dự án còn hiệu lực với tổng
vốn đầu tƣ đăng ký là 53,9 tỷ USD, vốn thực hiện (của các dự án còn hoạt động) đạt
trên 28 tỷ USD. Về hình thức đầu tƣ, hình thức 100% vốn nƣớc ngoài chiếm 75,4%
về số dự án và 53,1% về tổng vốn đăng ký; hình thức liên doanh chiếm 21,4% về số

dự án và 36,0% về tổng vốn đăng ký; tỷ lệ còn lại thuộc các hình thức đầu tƣ hợp
doanh, BOT, công ty cổ phần và công ty quản lý vốn. Khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài ngày càng đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng đầu tƣ phát triển kinh tế-xã hội,
chiếm khoảng 20% giai đoạn 1996-2000 và khoảng 18% giai đoạn 2001-2005.
Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào GDP cũng ngày càng gia tăng.
Nếu nhƣ năm 2000 khu vực đầu tƣ nƣớc ngoài đóng góp khoảng 12,7% GDP thì
đến năm 2005, tỷ trọng này đã tăng lên khoảng 15,5%. Mức đóng góp vào ngân
sách nhà nƣớc của khu vực này cũng tăng từ gần 350 triệu USD năm 2000, đến năm
nay dự kiến sẽ đạt khoảng 1 tỷ USD.
Thực tế cho thấy đầu tƣ nƣớc ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hƣớng công nghiệp hoá hiện đại hoá: 35% giá trị
sản xuất công nghiệp của cả nƣớc thuộc khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài; nhiều
5/101
ngành công nghiệp quan trọng ra đời từ các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, chẳng hạn nhƣ
công nghiệp dầu khí, lắp ráp ô tô, xe máy, công nghệ và thông tin, hoá chất, điện tử
và điện gia dụng. Đầu tƣ nƣớc ngoài cũng kích thích các ngành dịch vụ phát triển
nhanh, đặc biệt là viễn thông, giao thông vận tải, tài chính, ngân hàng, khách sạn
cao cấp.
Quan trọng hơn, đầu tƣ nƣớc ngoài đã trở thành cầu nối giữa nền kinh tế Việt
Nam và nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thƣơng mại, du lịch và tạo điều
kiện để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn và rất quan trọng đã đạt đƣợc,
hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài những năm qua cũng đã bộc lộ những mặt
yếu kém, hạn chế, bất cập, thậm chí còn dẫn đến giải thể doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp liên doanh.
Sở dĩ có tình trạng này là do rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan làm
giảm sút hiệu quả của hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam, trong đó
có nguyên nhân xuất phát từ các tranh chấp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài (bất đồng về chiến lƣợc kinh doanh, phƣơng thức quản lý điều hành
doanh nghiệp, tài chính, quyết toán công trình, v.v.). Thực tiễn hoạt động của các

DN có vốn ĐTNN đã phát sinh nhiều vấn đề tranh chấp đòi hỏi phải có sự giải
quyết thoả đáng của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp (Trọng tài,
Toà án) cũng nhƣ thiện chí của các bên trong các vụ tranh chấp.
Nhận thức đƣợc bản chất của tranh chấp kinh tế (TCKT), đặc điểm, đặc
trƣng của TCKT, nguyên nhân dẫn đến TCKT trong các DN có vốn ĐTNN nói
chung cũng nhƣ trong doanh nghiệp liên doanh (DNLD) nói riêng, để từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cũng nhƣ tìm ra các cơ chế, giải pháp giải quyết tranh
chấp một cách phù hợp và hiệu quả nhất là vấn đề rất cần thiết đối với bản thân
những nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đã và sắp đầu tƣ vào Việt Nam cũng nhƣ đối với
những nhà quản lý hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài của Việt Nam.
6/101
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã quyết định chọn vấn đề «Giải quyết
tranh chấp kinh tế giữa các bên liên doanh trong doanh nghiệp liên doanh tại
Việt Nam » làm đề tài cho luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở trong và ngoài nƣớc
Cũng nhƣ ở Việt Nam, ở các nƣớc khác những vấn đề liên quan đến hoạt
động đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nhƣng đối với vấn
đề về giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD thì chƣa có công trình nghiên cứu
một cách toàn diện và hệ thống, mà chỉ có một số công trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề này ở góc độ này hay góc độ khác. Đó là «Liên doanh quốc tế: thực tiễn và
kỹ thuật soạn thảo hợp đồng» của tác giả ngƣời Đức Klaus Langefeld-Wirth, đã
đƣợc dịch ra tiếng Pháp và xuất bản ở Paris năm 1992 (Nhà xuất bản GLN Joly) hay
bài bình luận dài 12 trang có tên là «Trọng tài giải quyết tranh chấp về đầu tư nước
ngoài tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam» của Kajuo Iwaski - Giáo sƣ
Trƣờng Đào tạo phát triển quốc tế GSIO, Đại học Tổng hợp Nagoya, Nhật Bản, bản
dịch ra tiếng Việt.
Tại Việt Nam, từ khi có Luật ĐTNN ở nƣớc ta (ban hành lần đầu tiên năm
1987), nhất là khi trong đời sống kinh tế-xã hội của Việt Nam xuất hiện một loại
chủ thể kinh tế mới - DN có vốn ĐTNN, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu
các khía cạnh pháp lý đối với loại hình doanh nghiệp này (vốn của DNLD, môi

trƣờng pháp lý của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, các hình thức đầu tƣ
nƣớc ngoài, chính sách thuế đối với các DN có vốn ĐTNN), nhƣng rất ít đề tài
nghiên cứu về giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD. Các công trình nghiên
cứu của các học giả Việt Nam về các vấn đề nêu trên cũng có ý nghĩa quan trọng về
mặt khoa học, đã góp phần làm sáng tỏ và thống nhất đƣợc một số các vấn đề pháp
lý về DN có vốn ĐTNN tại Việt Nam, chẳng hạn nhƣ:
- Về khung pháp lý đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam - Luận văn
«Hoàn thiện khung pháp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam» của tác giả
Lê Mạnh Tuấn (bảo vệ năm 1996).
7/101
- Về thực trạng của hoạt động giải quyết TCKT tại toà án nhân dân - Luận
văn thạc sĩ Luật học «Giải quyết TCKT tại toà án nhân dân qua thực tế tại toà án
nhân dân thành phố Hà Nội» của tác giả Phạm Tuấn Anh (bảo vệ năm 1999).
- Về địa vị pháp lý về tài sản của DNLD tại Việt Nam (Bài viết của tác giả
Nguyễn Trung Tín: «Địa vị pháp lý về tài sản của DNLD trên lãnh thổ Việt Nam»
(tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 12/2000), v.v.
Tại Việt Nam, nơi mà hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tƣ nƣớc ngoài
chƣa đƣợc ban hành đồng bộ; thủ tục hành chính trong quá trình cấp giấy phép đầu
tƣ còn nhiều phiền hà; chính sách đầu tƣ nƣớc ngoài chƣa đƣợc thông thoáng, chƣa
thật sự khuyến khích các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài nên các học giả mới chỉ tập trung
nghiên cứu khắc phục những bất cập về thủ tục hành chính, về chính sách đầu tƣ mà
chƣa chú trọng đến việc ban hành các quy định pháp luật về giải quyết TCKT của
các DN có vốn ĐTNN. Đó cũng chính là lý do giải thích vì sao cho đến nay chƣa có
công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ mong muốn đƣợc đóng góp một số ý
kiến, quan điểm về vấn đề TCKT cũng nhƣ giải quyết TCKT giữa các bên trong
DNLD tại Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời có những nhìn nhận, đánh giá về
hệ thống pháp luật ĐTNN cũ cũng nhƣ các quy định pháp luật đầu tƣ mới sẽ đƣợc
áp dụng trong thời gian tới có liên quan đến vấn đề giải quyết TCKT giữa các bên
trong DNLD tại Việt Nam. Có thể nói, công trình này là luận văn cao học đầu tiên

nghiên cứu một cách tƣơng đối đầy đủ và toàn diện về vấn đề giải quyết TCKT giữa
các bên trong DNLD tại Việt Nam.
3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một cách khoa học các khái niệm tranh
chấp, tranh chấp kinh tế, đặc điểm của TCKT, các loại TCKT cũng nhƣ phân biệt
TCKT với các loại tranh chấp khác, tác giả đi sâu phân tích về TCKT và vấn đề
thực trạng giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD trong thời gian qua. Tác giả
cũng trình bày một số vụ án điển hình về TCKT giữa các bên trong DNLD, phân
8/101
tích và đánh giá về nguyên nhân xảy ra tranh chấp cũng nhƣ hiệu quả và hạn chế
của cơ chế giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật ĐTNN đƣợc áp dụng
để giải quyết để từ đó đề xuất giải pháp cụ thể về việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật đối với vấn đề giải quyết TCKT của các DN có vốn ĐTNN tại Việt Nam nói
chung và DNLD nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu tích cực thu hút đầu tƣ trực tiếp
của nƣớc ngoài và nâng cao hiệu quả của các DN có vốn ĐTNN tại Việt Nam trong
thời gian tới, nhất là giai đoạn gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ cụ thể
Để thực hiện mục đích nêu trên, tác giả sẽ giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau
đây:
- Phân tích để làm rõ một loạt các khái niệm nhƣ: TC, TCKT, DNLD, những
đặc điểm của TCKT, sự khác biệt giữa TCKT với các loại TC khác;
- Trình bày thực trạng giải quyết TCKT giữa các bên liên doanh trong các
DNLD tại Việt Nam;
- Nêu rõ những vấn đề cơ bản thuộc về bản chất, nguyên nhân, hậu quả của
TCKT giữa các bên liên doanh trong các DNLD tại Việt Nam;
- Nêu và phân tích các vụ tranh chấp điển hình từ đó phân tích và nhận định
rút ra những bài học kinh nghiệm đối với các nhà đầu tƣ cũng nhƣ những nhà quản
lý;
- Nêu thực tiễn áp dụng các quy định về cơ chế giải quyết TCKT của các DN

có vốn ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua;
- Đánh giá thực trạng cơ chế giải quyết TCKT phát sinh trong quá trình hoạt
động của các DN có vốn ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua, những mặt đƣợc
và chƣa đƣợc của các quy định này;
- Đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm làm hạn chế việc xảy ra
TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
- Đề xuất, kiến nghị về phƣơng hƣớng và các giải pháp nâng cao hiệu quả
giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
9/101
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến TCKT đã
và đang diễn ra giữa các bên liên doanh trong các DNLD tại Việt Nam, tìm ra
nguyên nhân, đặc điểm đặc trƣng, hậu quả của các TCKT, từ đó phân tích những
yếu tố tác động làm nảy sinh tranh chấp cũng nhƣ tác động đến quá trình giải quyết
tranh chấp (ví dụ: quy định của pháp luật về giải quyết TCKT hay ý thức pháp luật
của các nhà đầu tƣ trong giải quyết TCKT).
Luận văn cũng tập trung phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam
đã và đang đƣợc áp dụng để giải quyết TCKT giữa các bên liên doanh trong các
DNLD đang hoạt động tại Việt Nam từ đó đƣa ra những kiến nghị và giải pháp
nhằm làm hạn chế việc xảy ra TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả xin đƣợc giới hạn phạm vi nghiên cứu
ở bốn nội dung đó là:
- Các vấn đề về lý luận về TCKT giữa các bên trong DNLD.
- Thực trạng tranh chấp kinh tế giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam.
- Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh tế giữa các bên trong DNLD tại Việt
Nam.
- Các phƣơng thức giải quyết TCKT, các cơ quan giải quyết TCKT giữa các
bên trong DNLD tại Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận xuyên suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn là
những quan điểm về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác- Lê nin. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nƣớc ta cũng là cơ sở lý luận soi sáng cho việc lập luận và phân
tích nội dung của luận văn.
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên
cứu khác nhau nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, quy nạp, diễn giải, hệ thống
hoá, thống kê, liệt kê, so sánh, đối chiếu, phƣơng pháp nghiên cứu lý luận với phân
10/101
tích thực tiễn.v.v. Là luận văn Luật học nên phƣơng pháp so sánh luật học là
phƣơng pháp đƣợc đặc biệt áp dụng trong quá trình phân tích và hoàn thiện bản luận
văn này.
6. Những đóng góp của Luận văn
- Là luận văn luật học đầu tiên nghiên cứu, một cách tƣơng đối toàn diện
những vấn đề về lý luận cũng nhƣ thực tiễn giải quyết TCKT giữa các bên liên
doanh trong các DNLD ở Việt Nam.
- Đã hệ thống hoá, ở mức độ nhất định, các loại TCKT và đặc điểm của các
TCKT của các DNLD tại Việt Nam.
- Luận văn cũng đã góp phần làm rõ hơn một số khái niệm về tranh chấp,
tranh chấp kinh tế, cơ chế giải quyết TCKT và cơ chế giải quyết TCKT của các
DNLD ở Việt Nam.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá nhiều mặt của vấn đề giải quyết TCKT
giữa các bên liên doanh trong DDLD tại Việt Nam thông qua các vụ việc tranh chấp
điển hình đã và đang diễn ra.
- Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan thực trạng giải quyết TCKT trong
lĩnh vực này, luận văn đã góp phần nhất định vào việc chỉ rõ những mặt tích cực,
những thuận lợi cùng những khó khăn, hạn chế, tồn tại trong những quy định của
pháp luật về giải quyết TCKT của các DN có vốn ĐTNN nói chung và DNLD nói
riêng đã và đang đƣợc áp dụng tại Việt Nam.

- Luận văn đã đề xuất đƣợc một số phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm làm
hạn chế việc xảy ra TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam cũng nhƣ nâng
cao hiệu quả giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam trong thời
gian tới. Trong điều kiện Việt Nam đang tích cực chủ động hội nhập có hiệu quả
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, góp phần tích cực làm cho các nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài an tâm tiếp tục đầu tƣ vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho nƣớc ta tăng
cƣờng thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nƣớc.
11/101
Trong chừng mực nhất định, Luận văn có giá trị cả về mặt khoa học lẫn thực
tiễn. Tuy nhiên, vì việc nghiên cứu về vấn đề giải quyết TCKT nói chung và giải
quyết TCKT giữa các bên liên doanh trong các DNLD tại Việt Nam nói riêng, là
vấn đề tƣơng đối mới mẻ, có phạm vi rộng và còn gây không ít tranh cãi ở Việt
Nam. Còn rất nhiều vấn đề cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu nhƣ trình tự giải quyết
TCKT của các DNLD bằng trọng tài hoặc toà án Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp
luật trong giải quyết TCKT của các DNLD tại Việt Nam, việc thi hành các phán
quyết của trọng tài theo sự lựa chọn của các bên, luật áp dụng giải quyết tranh chấp
khi các bên lựa chọn toà án hoặc trọng tài nƣớc ngoài, v.v.
7. Bố cục Luận văn
Luận văn này bao gồm Lời nói đầu và 03 chƣơng:
- Chƣơng I - Những vấn đề chung về TCKT và giải quyết TCKT giữa
các bên trong DNLD tại Việt Nam.
-
Chƣơng II - Thực trạng giải quyết TCKT giữa các bên liên doanh
trong các DNLD tại Việt Nam.

- Chƣơng III - Những kiến nghị về phƣơng hƣớng và giải pháp hạn
chế tranh chấp và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế giữa
các bên trong DNLD tại Việt Nam.
Cuối cùng là phần Kết luận.

Những vấn đề trình bày trong luận văn này mới chỉ là công trình nghiên cứu
đầu tay của tác giả. Do vậy, tác giả mong nhận đƣợc những nhận xét cũng nhƣ
những đóng góp quý báu để việc nghiên cứu đƣợc hoàn thiện hơn.

12/101
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TCKT VÀ GIẢI QUYẾT TCKT
GIỮA CÁC BÊN TRONG DNLD TẠI VIỆT NAM

1.1) Khái niệm TCKT theo quy định của pháp luật Việt Nam
Trong mục này, tác giả sẽ phân tích các khái niệm cơ bản về tranh chấp,
TCKT, TCKT giữa các bên liên doanh và vấn đề giải quyết TCKT giữa các bên
trong DNLD tại Việt Nam nói riêng để làm cơ sở lý luận cho việc giải quyết các
vấn đề tiếp theo của đề tài.
1.1.1) Khái niêm « tranh chấp »
Để tìm hiểu khái niệm TCKT, trƣớc hết cần phải tìm hiểu khái niệm “tranh
chấp”. Thuật ngữ “tranh chấp”, theo từ điển Pháp luật còn đƣợc gọi là: “phân
tranh”, “tranh biện”. Theo giải thích trong các từ điển khác thì tranh chấp đƣợc hiểu
theo hai nghĩa: đó là “giành giật”, “giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào”
(vùng tranh chấp giữa hai nước) và “bất đồng, trái ngƣợc nhau” (tranh chấp ý
kiến). Thƣờng thì khi nói đến tranh chấp, ngƣời ta hay liên tƣởng đến mâu thuẫn,
bất đồng hoặc xung đột giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật.
Theo quan điểm triết học Mác – Lê nin về quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) - hạt nhân của phép biện chứng duy vật –
thì bất kỳ một hiện tƣợng xã hội nào cũng có mâu thuẫn tiềm ẩn. Do đó, tranh chấp
là một hiện tƣợng hoàn toàn khách quan và sự tồn tại của nó có tính chất tất yếu.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài ngƣời, các tranh chấp cũng phát sinh ngày
càng nhiều hơn, đa dạng hơn, ở mọi lúc, mọi nơi, dƣới mọi hình thức và trong mọi
lĩnh vực. Việc giải quyết các mâu thuẫn này chính là nguồn gốc, động lực cho sự
phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Việc

ứng dụng quy luật này, theo tác giả, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong
việc giải quyết TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam, đây là loại tranh
chấp mà theo tác giả không nên triệt tiêu mà nên duy trì nó nhƣ một yếu tố, một
động lực cho sự phát triển của các DNLD.
13/101
Từ những phân tích trên đây, có thể đƣa ra khái niệm chung về tranh chấp
một cách dễ hiểu nhƣ sau:
Tranh chấp là sự bất đồng, sự xung đột về quyền lợi, về quan điểm giữa
người này với một người khác, giữa nhóm người này với một hoặc nhóm người
khác.
Tranh chấp có thể rất đa dạng: xung đột về quan điểm, về hệ tƣ tƣởng hoặc
các quyền lợi vật chất, tinh thần. Trong số các tranh chấp phát sinh, tranh chấp về
kinh tế thƣờng hay đƣợc đề cập tới nhiều nhất.
Tranh chấp mang tính chất kinh tế khác với tranh chấp mang tính chất tƣ
tƣởng ở chỗ: tranh chấp mang tính chất tƣ tƣởng thông thƣờng phát sinh khi có sự
đối lập về quan điểm, tƣ tƣởng, trình độ, nhận thức xã hội. Những yếu tố này cũng
có những chuẩn mực chung và đƣợc quy định bởi trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và đặc thù của từng dân tộc. Loại tranh chấp này thƣờng đƣợc biểu hiện trong quá
trình tổ chức hoạt động xã hội nói chung và từng lĩnh vực nói riêng. Trong luận văn
này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu loại TCKT để phục vụ cho mục đích nghiên
cứu của đề tài.
1.1.2) Khái niệm « tranh chấp kinh tế »
Hiện nay, các văn bản pháp luật của Việt Nam cũng chƣa làm rõ khái niệm
TCKT cũng nhƣ chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu nhằm mục đích làm
rõ khái niệm pháp lý của TCKT.
Nhìn chung, chúng ta chỉ biết đến các thuật ngữ tƣơng tự cùng chỉ một hiện
tƣợng nhƣ tranh chấp thƣơng mại, tranh chấp trong kinh doanh, tranh chấp về hợp
đồng kinh tế, v.v. Các tranh chấp trong kinh doanh, trong phạm vi nhất định, có sự
khác biệt với TCKT. Khái niệm “kinh tế” cũng nhƣ quan hệ kinh tế thông thƣờng
đƣợc hiểu theo nghĩa rộng hơn so với khái niệm “kinh doanh” với “quan hệ kinh

doanh”. Trong kinh tế có sự bao hàm cả yếu tố quản lý và các yếu tố chính trị - xã
hội khác liên quan đến hoạt động kinh doanh. Trong khi đó kinh doanh chỉ là một
hoạt động mang tính chất nghề nghiệp nhƣ sản xuất, buôn bán, dịch vụ gắn với mục
đích lợi nhuận. Do tính chất của quan hệ kinh doanh nhƣ vậy, việc giải quyết tranh
14/101
chấp trong kinh doanh cũng mang những đặc thù nhất định so với việc giải quyết
TCKT nói chung.
Có một số quan điểm đồng nhất TCKT là vi phạm hợp đồng kinh tế. Theo
tác giả, nếu cho rằng TCKT chỉ là tranh chấp do vi phạm hợp đồng kinh tế thì chƣa
đủ, bởi vì còn nhiều loại tranh chấp nữa cũng mang tính chất kinh tế thuộc thẩm
quyền giải quyết của toà kinh tế nhƣ tranh chấp giữa các thành viên của công ty liên
quan đến hoạt động, tổ chức của công ty.
Có tác giả quan niệm một cách đơn giản rằng, miễn là có bất đồng xảy ra
giữa các bên cùng có quan hệ kinh tế thì đó gọi là TCKT.
Theo tác giả tranh chấp về kinh tế cần phải đƣợc hiểu theo hai nghĩa: nghĩa
rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, bản thân khái niệm TCKT là một khái niệm rộng, nó bao
trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả đời sống vật chất, đời sống tinh thần và
cả trong quan hệ quốc tế. TCKT có đƣợc phát sinh khi quyền và lợi ích kinh tế của
một chủ thể (hoặc một nhóm chủ thể) xác định bị xâm phạm (hoặc đƣợc coi là bị
xâm phạm). Quyền và lợi ích của chủ thể ở đây phải mang tính hợp pháp, tức là
đƣợc quy định bởi pháp luật hoặc do các chủ thể cam kết trong hợp đồng nhƣng
không trái với quy tắc xử sự chung của pháp luật và đạo đức xã hội. Hiểu theo nghĩa
rộng này, TCKT là tất cả các tranh chấp, có liên quan và chỉ liên quan đến kinh tế,
phát sinh giữa các chủ thể pháp luật.
Theo nghĩa hẹp, thì chỉ có những tranh chấp nào mà pháp luật quy định là
TCKT thì mới gọi là “TCKT”. Cách hiểu này nhằm mục đích phân biệt giữa TCKT
với một số biểu hiện của tranh chấp mang tính chất dân sự khi có sự thiệt hại về
quyền lợi kinh tế. Với cách hiểu này, các nhà lập pháp không đƣa ra định nghĩa về
TCKT và tranh chấp dân sự. Pháp luật thực định chỉ xác định loại tranh chấp nào

thuộc loại TCKT và tranh chấp nào mang tính chất dân sự đồng thời liệt kê những
loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án kinh tế (do đó gọi là
TCKT) và những loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền tài phán của toà án dân sự
(và đƣợc gọi là tranh chấp dân sự). Và ý nghĩa chủ yếu của sự xác định này là khi
15/101
có phát sinh tranh chấp thì ngƣời ta chỉ cần căn cứ vào tính chất để xác định đó là
tranh chấp kinh tế hay tranh chấp dân sự để lựa chọn cơ quan tài phán phù hợp.
Từ phân tích trên cho thấy quan điểm trên đây chƣa thực sự đầy đủ và chính
xác. Vấn đề mà tác giả nhất trí với quan điểm vừa trình bày ở trên chỉ là bất đồng về
kinh tế bao giờ cũng là nguyên nhân hay nguồn gốc của TCKT.
Và cũng theo nghĩa hẹp này, tác giả cho rằng, TCKT là tất cả những tranh
chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp hoặc trong nội bộ các doanh nghiệp (thuộc
mọi thành phần kinh tế), trong việc ký kết, thực hiện các hợp đồng kinh tế hoặc
trong việc thực hiện các hoạt động kinh tế khác mà pháp luật quy định là TCKT.
Nhƣ vậy, khái niệm TCKT theo quy định của pháp luật Việt Nam đƣợc hiểu
nhƣ sau:
Thứ nhất, đây là loại tranh chấp giữa các doanh nghiệp hoặc trong các doanh
nghiệp, phát sinh trong quá trình thực hiện các hợp đồng kinh tế, hợp đồng liên
doanh hoặc trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, tranh chấp phải đƣợc pháp luật quy định là TCKT. Việc quy định
tính chất tranh chấp phụ thuộc vào pháp luật thực định của từng quốc gia. Ở Việt
Nam, toà kinh tế thuộc hệ thống toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp kinh tế thuộc các lĩnh vực nhƣ: tranh chấp về hợp đồng kinh tế; tranh chấp
giữa các thành viên trong công ty liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể công
ty; tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các trƣờng hợp khác
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, pháp luật cũng đã quy định mở rộng thẩm
quyền của toà kinh tế trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
và yêu cầu công nhận phán quyết trọng tài và toà án nƣớc ngoài.
1.1.3) Các loại tranh chấp kinh tế
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, TCKT có thể đƣợc phân thành hai loại chủ

yếu sau:
a) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế đƣợc xác lập hợp pháp sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của các bên. Thực hiện hợp đồng kinh tế là hành vi của các bên nhằm làm cho các
16/101
nội dung đã cam kết trong hợp đồng trở thành hiện thực. Nếu một bên bằng, hành vi
của mình, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với thỏa thuận đã cam kết,
dẫn đến thiệt hại cho bên kia thì coi là vi phạm hợp đồng kinh tế và làm phát sinh
tranh chấp.
Tuy nhiên, không phải khi nào vi phạm hợp đồng cũng dẫn đến tranh chấp
bởi có vi phạm không dẫn đến hậu quả pháp lý. Theo tác giả, xuất phát từ nguồn
gốc tự nhiên của tranh chấp, có hoạt động kinh tế tất yếu có phát sinh tranh chấp về
kinh tế. Do đó, TCKT là hiện tƣợng tất yếu tồn tại gắn liền trong đời sống kinh tế -
xã hội. Đó cũng là để lý giải cho loại TCKT có nguồn gốc không phải từ việc vi
phạm hợp đồng kinh tế đƣợc đề cập ở dƣới đây.
b) Tranh chấp phát sinh không từ hợp đồng kinh tế
Bên cạnh tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế, cũng có nhiều trƣờng hợp
phát sinh tranh chấp hoàn toàn không phải do hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế
hoặc có phát sinh nhƣng không phải là từ hợp đồng kinh tế. Ví dụ: hợp đồng dân sự
về góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc hợp đồng hợp tác cùng kinh doanh theo
nguyên tắc cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ. Những trƣờng hợp tranh chấp này rất
đa dạng và thƣờng gặp trong quá trình hoạt động của một công ty; khi những bất
đồng ý kiến của các bên tham gia công ty không đƣợc giải quyết thì cũng dẫn đến
tranh chấp.
Những tranh chấp không phát sinh từ hợp đồng kinh tế có rất nhiều loại khác
nhau. Trong phạm vi của luận văn này sẽ nghiên cứu một loại tranh chấp mang tính
chất đặc thù nhất trong những loại tranh chấp không phát sinh từ hợp đồng, đó là
những TCKT phát sinh giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam.
1.2) Khái niệm TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
1.2.1) Một số vấn đề chung về DNLD theo quy định của pháp luật Việt Nam

DNLD là một trong hai hình thức của DN có vốn ĐTNN, đƣợc thành lập trên
cơ sở Luật đầu tƣ nƣớc ngoài (Luật ĐTNN) năm 1996. Theo khoản 7, điều 2 của
Luật ĐTNN thì “Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều
bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định
17/101
ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với
doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư
nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”.
Từ định nghĩa trên có thể nghiên cứu một số khía cạnh của hình thức này
nhƣ sau:
Về cơ sở thành lập DNLD: DNLD đƣợc thành lập trên cơ sở hợp đồng liên
doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam - là nƣớc nhận đầu tƣ và Chính
phủ của nƣớc đầu tƣ.
Theo Luật Đầu tƣ và Luật Doanh nghiệp mới đƣợc ban hành và có hiệu lực
từ ngày 01/7/2006, thì DNLD sẽ đƣợc thành lập theo thủ tục quy định trong Luật
Doanh nghiệp và trên cơ sở những quy định của Luật Đầu tƣ. Nhƣ vậy, nếu nhƣ
trƣớc đây DNLD chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật ĐTNN thì nay sẽ chịu sự điều
chỉnh của hai đạo luật là Luật Doanh nghiệp về thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động
và Luật Đầu tƣ về quản lý hoạt động đầu tƣ tại Việt Nam.
Về tên gọi: Tên gọi của DNLD cũng có sự thay đổi theo sự thay đổi của pháp
luật. Hiện nay khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tƣ đƣợc ban hành và đã có hiệu
lực thì thuật ngữ DNLD không đƣợc quy định trực tiếp trong hai văn bản này mà
chỉ đƣợc quy định gián tiếp tại khoản 2, điều 21 của Luật Đầu tƣ với tƣ cách là một
trong các hình thức đầu tƣ trực tiếp của nhà đầu tƣ đó là “Thành lập tổ chức kinh tế
liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài”. Tuy nhiên,
về bản chất, liên doanh vẫn là sự hợp tác nhằm mục đích kinh doanh cùng hƣởng lợi
và cùng chịu rủi ro trên cơ sở thành lập một pháp nhân.
Về nội dung: Đến nay DNLD tại Việt nam vẫn luôn đƣợc hiểu là có bao hàm
yếu tố nƣớc ngoài, trong khi ở các nƣớc khác, khái niệm liên doanh có thể hiểu là

sự liên kết giữa các công ty trong nƣớc. Điều này có nghĩa là khái niệm DNLD ở
Việt Nam dùng để chỉ một hình thức của DN có vốn ĐTNN trong đó một bên là đối
tác Việt Nam và một bên - phải là ít nhất một đối tác nƣớc ngoài.
18/101
Về chủ thể tham gia thành lập DNLD: Theo quy định của pháp luật về đầu tƣ
nƣớc ngoài thì các đối tƣợng chủ thể tham gia thành lập DNLD ngày càng đƣợc mở
rộng. Điều 6 Luật ĐTNN năm 1996 quy định chủ thể tham gia thành lập DNLD là
do “hai bên hoặc nhiều bên hợp tác với nhau thành lập DNLD trên cơ sở hợp đồng
liên doanh; DNLD đƣợc hợp tác với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài hoặc với doanh nghiệp
Việt Nam để thành lập DNLD mới tại Việt Nam”. Theo Luật Đầu tƣ hiện nay thì
chủ thể tham gia thành lập DNLD là “các nhà đầu tƣ trong nƣớc và nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài” (Điều 21). Theo các quy định trên thì chủ thể của loại hình doanh nghiệp này
rất rộng, có thể nói một cách tổng quát là Bên nƣớc ngoài và Bên Việt Nam, bao
gồm các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Về vốn góp vào doanh nghiệp: Luật ĐTNN năm 1996 quy định vốn pháp
định của DNLD ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tƣ. Tỷ lệ góp vốn của Bên nƣớc
ngoài cũng đƣợc quy định chặt chẽ hơn bên Việt Nam, cụ thể không đƣợc thấp hơn
30% vốn pháp định; tỷ lệ này có thể thấp hơn tuỳ thuộc vào từng dự án nhƣng
không đƣợc thấp hơn 20% và phải đƣợc cơ quan cấp phép chuẩn y. Luật Đầu tƣ
mới đã bỏ những quy định về tỷ lệ góp vốn bắt buộc của Bên nƣớc ngoài trong
DNLD mà tôn trọng quyền tự thoả thuận giữa các nhà đầu tƣ. Đây là một trong
những quy định nhằm mục đích thu hút hơn nữa nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài vào
Việt Nam.
Về cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp: Bên cạnh pháp
luật về đầu tƣ nƣớc ngoài, DNLD còn chịu sự điều chỉnh của Hợp đồng liên doanh,
Điều lệ, quy chế tài chính, quy chế hoạt động của doanh nghiệp, v.v. Các tài liệu
này có thể coi là “luật nội bộ” của DNLD vì chúng là những căn cứ pháp lý quan
trọng điều chỉnh hoạt động bên trong của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt
động và cũng là một trong những căn cứ quan trọng để giải quyết những tranh chấp
phát sinh giữa các bên liên doanh.

* Đánh giá chung về hình thức DNLD
Ưu điểm: Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, mặt tích cực của
DNLD là góp phần làm vực dậy nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam bị suy
19/101
thoái nhiều năm do thiếu vốn, thiếu vật tƣ, công nghệ lạc hậu, mất thị trƣờng khi
Liên Xô và các nƣớc Đông Âu tan rã; cung cấp nhiều sản phẩm quan trọng cho nền
kinh tế của nƣớc ta mà trƣớc đây vẫn phải nhập khẩu; đào tạo đội ngũ cán bộ quản
lý, cán bộ kỹ thuật của Việt Nam trong việc tiếp thu đƣợc công nghệ mới, kiến thức
và kinh nghiệm quản lý của nƣớc ngoài.
Hạn chế: Tuy có một số ƣu điểm, nhƣng chúng ta cũng nhận thấy đầu tƣ theo
hình thức DNLD cũng có một số hạn chế. Thứ nhất, đứng về phía nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài do tính an toàn cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài không cao bằng hình thức
DN100% vốn nƣớc ngoài vì có sự chia sẻ trong quản lý, hoạt động doanh nghiệp
với các nhà đầu tƣ của nƣớc sở tại nên nhiều nhà đầu tƣ không chọn hình thức này.
Thứ hai, đứng về phía nhà đầu tƣ trong nƣớc, do nhiều lý do khác nhau, liên doanh
không phải là hình thức ƣu việt nổi trội trong việc bảo vệ lợi ích kinh tế của phía
Việt Nam so với các hình thức đầu tƣ khác. Nhiều trƣờng hợp do bên Việt Nam
không đủ khả năng tài chính để tham gia liên doanh, nên sau một thời gian triển
khai thực hiện dự án, dù không mong muốn cũng buộc phải đứng trƣớc hai lựa
chọn, hoặc giải thể hoặc chuyển nhƣợng vốn góp cho các đối tác nƣớc ngoài.
So với hình thức DN 100% vốn nƣớc ngoài, hình thức DNLD đƣợc nhiều
nƣớc (ví dụ các nƣớc ASEAN) áp dụng bởi vì nó có những mặt thuận lợi cho cả
Nƣớc đầu tƣ và Nƣớc nhận đầu tƣ vì bản thân họ là các nƣớc đang phát triển nên
ngoài thiếu vốn, họ còn thiếu cả công nghệ; do đó DNLD có vị trí quan trọng,
không những chỉ đầu tƣ vốn mà còn đầu tƣ công nghệ và trí thức kinh doanh, nên dễ
thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế. Ngoài
ra, sau khi kết thúc thời hạn liên doanh thì toàn bộ cơ sở vật chất của doanh nghiệp
sẽ đƣợc chuyển giao không điều kiện cho bên nƣớc nhận đầu tƣ (ví dụ nhƣ ở Việt
Nam, hầu hết các hợp đồng liên doanh đều có điều khoản này).
1.2.2)


Khái niệm TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
a) Khái niệm
Trong quá trình hoạt động của mình, DNLD tại Việt Nam cũng phải đối mặt
với nhiều loại tranh chấp. Trong phạm vi luận văn này chỉ đề cập đến các tranh
20/101
chấp giữa các bên trong nội bộ DNLD mà không nghiên cứu về tranh chấp giữa
DNLD với các loại hình DN khác. Những tranh chấp trong nội bộ DNLD sẽ đƣợc
nghiên cứu ở các góc độ: nguyên nhân tranh chấp, hậu quả của tranh chấp, các cơ
chế giải quyết tranh chấp, thực tế giải quyết tranh chấp ở Việt Nam cũng nhƣ các
vấn đề có liên quan. Tuy nhiên, để giải quyết đƣợc vấn đề một cách cụ thể, trƣớc
hết chúng ta cần hiểu đƣợc khái niệm TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt
Nam.
Vì DNLD có tƣ cách pháp nhân nhƣ các doanh nghiệp khác của Việt Nam
nên DNLD cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Do đó, TCKT của
DNLD về cơ bản cũng giống nhƣ TCKT của các doanh nghiệp khác của Việt Nam.
Trên cơ sở khái niệm TCKT nói chung của các chủ thể hoạt động kinh tế tại Việt
Nam đã đề cập cụ thể ở phần trên, có thể đƣa ra khái niệm tổng quát về tranh chấp
kinh tế giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam nhƣ sau:
Tranh chấp kinh tế giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam là các tranh
chấp diễn ra giữa “các bên” trong DNLD, giữa hai chủ thể mang cùng “quốc
tịch”hoặc các chủ thể mang “quốc tịch” khác nhau liên quan đến việc tổ chức,
hoạt động phát sinh trong nội bộ của DNLD, được pháp luật Việt Nam quy định
là “TCKT”.
Khác với tranh chấp diễn ra trong nội bộ các công ty của Việt Nam, tranh
chấp trong DNLD chỉ liên quan đến tổ chức và hoạt động, chứ không có tranh chấp
trong quá trình thành lập. Tuy nhiên, vì DNLD có những đặc điểm khác với các
doanh nghiệp khác của Việt Nam nên tranh chấp của DNLD tất yếu cũng mang
những nét đặc trƣng quy định đặc điểm của vấn đề giải quyết tranh chấp của các
loại hình doanh nghiệp khác.

b) Đặc điểm chung của TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam
Là một trong các hình thức của TCKT, TCKT giữa các bên trong DNLD
tại Việt Nam mang những đặc điểm chung vốn có của TCKT. Bên cạnh đó có
những đặc điểm đặc thù để phân biệt chúng với các TCKT khác. Những đặc
điểm đó thể hiện ở những khía cạnh sau:
21/101
Tính chủ thể: TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt Nam phát sinh
khi quyền và lợi ích của một bên hoặc các bên trong DNLD bị xâm phạm. Quyền
và lợi ích đó mang tính hợp pháp và đƣợc quy định trong pháp luật hoặc “luật
nội bộ” của công ty nhƣ điều lệ, hợp đồng liên doanh, quy chế hoạt động, quy
chế tài chính. Điểm khác nhau cơ bản giữa DNLD với các doanh nghiệp thể hiện
ở chỗ hầu hết các trƣờng hợp đều có “yếu tố nước ngoài” của chủ thể tham gia
tranh chấp. Chính đặc điểm này giải thích tại sao tuy các DN có vốn ĐTNN nói
chung và DNLD nói riêng đƣợc pháp luật Việt Nam nhìn nhận là pháp nhân Việt
Nam, nhƣng về bản chất pháp lý các chủ thể này vẫn là chủ thể đặc biệt đƣợc
quy định bởi “yếu tố nƣớc ngoài” của nó. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp giữa
các bên liên doanh phải tuân theo các quy tắc của tƣ pháp quốc tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, toà kinh tế thuộc hệ thống Toà án
nhân dân có thẩm quyền giải quyết các TCKT của các doanh nghiệp bao gồm cả
DN có vốn ĐTNN trong các lĩnh vực sau:
1. Các tranh chấp hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
2. Các tranh chấp giữa công ty và các thành viên, giữa các thành viên
trong công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể công ty.
3. Các tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
4. Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật (nhƣ công nhận phán
quyết của trọng tài nƣớc ngoài).
5. Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Đối chiếu với các quy định trên ta thấy TCKT giữa các bên trong DNLD
tại Việt Nam nếu theo Luật ĐTNN năm 1996 thì chỉ bao gồm loại thứ hai nhƣng

hiện nay, khi Luật Đầu tƣ và Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì các TCKT sẽ bao
gồm loại thứ 2, loại thứ 3, loại thứ 4 và loại thứ 5. Nhƣ vậy, nếu so sánh với Luật
ĐTNN năm 1996 thì các loại TCKT giữa các bên trong DNLD ngày càng nhiều
và phức tạp hơn. Trƣớc đây luật không cho phép DNLD đƣợc tự tuyên bố phá
sản thì hiện nay DNLD cũng có quyền bình đẳng nhƣ các doanh nghiệp khác của
22/101
Việt Nam trong việc tự tuyên bố phá sản nếu thoả mãn các điều kiện luật định.
Vì vậy, sẽ phát sinh các TCKT mới nảy sinh giữa các thành viên trong việc tuyên
bố phá sản của doanh nghiệp. Khi xảy ra TCKT các bên liên doanh có thể lựa
chọn hình thức giải quyết là trọng tài nƣớc ngoài và để các quyết định của trọng
tài có hiệu lực tại Việt Nam, toà án phải ra quyết định công nhận phán quyết đó.
Vì vậy, sẽ phát sinh những TCKT liên quan đến việc công nhận phán quyết của
trọng tài nƣớc ngoài.
Nhƣ vậy, đặc điểm của DNLD đƣợc quy định bởi hệ thống pháp luật về
ĐTNN. Do đó, khi pháp luật có sự điều chỉnh, có sự thay đổi thì các TCKT cũng
sẽ có những thay đổi nhất định. Hiện nay, khi pháp luật cho phép các DNLD
đƣợc chuyển đổi hình thức sang công ty cổ phần thì sẽ xuất hiện loại tranh chấp
liên quan đến cổ phiếu. Chính vì vậy, trong khái niệm về TCKT tác giả đã nhấn
mạnh tính đặc thù của TCKT theo quy định của pháp luật Việt Nam, đó là tính
chất kinh tế của tranh chấp đƣợc quy định bởi pháp luật thực định.
c) Các loại TCKT và đặc điểm của các loại TCKT giữa các bên trong DNLD tại
Việt Nam
Việc phân loại TCKT giữa các bên trong DNLD chỉ mang tính chất tƣơng
đối, bởi thông thƣờng một tranh chấp phát sinh thì trong đó có nhiều các mâu thuẫn
tác động. Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng quát khi nghiên cứu về các tranh chấp kinh
tế diễn ra trong nội bộ DNLD, tác giả cho rằng cần phải nghiên cứu về tính chất,
đặc điểm TCKT của loại chủ thể kinh tế này thông qua việc phân loại các TCKT
nhằm làm rõ các đặc điểm nổi bật của TCKT giữa các bên trong DNLD tại Việt
Nam so với TCKT giữa các DN có vốn ĐTNN với nhau cũng nhƣ TCKT của các
doanh nghiệp khác của Việt Nam.

Qua việc nghiên cứu, phân tích các TCKT giữa
các bên liên doanh trong các DNLD tại Việt Nam đã xảy ra trong thời gian qua,
tác giả sẽ phân ra ba loại tranh chấp điển hình dƣới đây, trên cơ sở đó sẽ phân
tích đặc điểm của từng loại:
c1) Loại tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.

×