Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng quyền khai sinh khai tử trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.12 KB, 86 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ THU TRANG




QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUYỀN KHAI SINH KHAI TỬ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ THU TRANG





QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUYỀN KHAI SINH KHAI TỬ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn




HÀ NỘI - 2013


3
MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN VÀ VỊ
TRÍ QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ TRONG HỆ THỐNG
QUYỀN NHÂN THÂN

6
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền nhân thân 6
1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân 6

1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân 12
1.1.3. Vai trò của quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật Việt Nam

14
1.2. Vị trí của quyền khai sinh, khai tr trong hệ thống các quyền
nhân thân
18
1.3. Sự tác động và ảnh hưởng của quyền khai sinh, quyền khai
tử với các quyền nhân thân khác
23
1.4. Quá trình phát triển của pháp luật việt nam về khai sinh khai tử 25
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1945 (thời kỳ phong kiến và thời Pháp thuộc)

25
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 28
1.4.2.1.

Quy định về hộ tịch của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

28
1.4.2.2.

Quy định về hộ tịch của chế độ cũ ở miền Nam (Việt Nam
Cộng hòa)
30

4
1.4.2.3.

Giai đoạn từ năm 1975 đến nay 31

Chương 2:
QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT DÂN SỰ

35
2.1. Sự cấn thiết của qui định về việc khai sinh, khai tử 35
2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về khai sinh 36
2.2.1. Xác định thẩm quyền đăng ký khai sinh 39
2.2.2. Trình tự, thủ tục thực hiện 40
2.2.2.1.

Đăng ký khai sinh cho con trong giá thú 40
2.2.2.2.

Đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú 40
2.2.2.3.

Đăng ký khai sinh quá hạn 43
2.2.2.4.

Khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi 46
2.2.2.5.

Đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại
Ủy ban nhân dân xã
47
2.3. Quy định của pháp luật hiện hành về khai tử 49
2.3.1 Thẩm quyền đăng ký khai tử 51
2.3.2. Thủ tục đăng ký khai tử 52
Chương 3:

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KHAI SINH,
KHAI TỬ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI

54
3.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
Thanh Trì
54
3.1.1. Điều kiện tự nhiên về đất đai 54
3.1.2. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội 55
3.1.2.1.

Về kinh tế 55
3.1.2.2.

Về y tế, văn hóa - xã hội 58

5
3.1.3. Vị trí và vai trò của huyện Thanh Trì trong sự phát triển của
Thủ đô Hà Nội
59
3.2. Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện quyền khai
sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
61
3.3. Thực trạng thực hiện pháp luật trong việc khai sinh trên địa
bàn huyện Thanh Trì
63
3.4. Thực trạng thực hiện pháp luật về khai tử trên địa bàn huyện
Thanh Trì
66

3.5. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và kiến nghị trong việc
thực thi pháp luật về khai sinh, khai tử
71
3.5.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật 71
3.5.2. Kiến nghị 73

KẾT LUẬN
76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
78


6



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Bảng tổng hợp kết quả giải quyết các sự kiện hộ tịch của
Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, Hà Nội từ năm 2005
đến năm 2012
63


7
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Quyền nhân thân là quyền cơ bản nhất của mỗi con người đã được Bộ
luật Dân sự nước ta quy định tại mục 2 chương III. Trong đó quyền được khai
sinh và khai tử là một trong những quyền nhân thân quan trọng nhất. Quyền
khai sinh được quy định tại Điều 29 và quyền được khai tử được quy định tại
Điều 30 mục 2 Bộ luật Dân sự năm 2005 của nước ta.
Quyền khai sinh là quyền đầu tiên của trẻ em được ghi nhận tại Điều 7
công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và có ý nghĩa rất lớn bởi vì chỉ
sau khi thực hiện quyền khai sinh, các quyền khác như quyền có họ tên, quốc
tịch và những quyền khác mới được thiết lập và thực hiện.
Cá nhân, tổ chức có quyền đăng ký khai sinh, khai tử đồng thời cũng
là nghĩa vụ phải thực hiện việc đăng ký khi có các sự kiện này xảy ra.
Viêc đăng ký khai sinh, khai tử trong thực tế còn một số bất cập trong
các quy định của pháp luật cũng như việc tuân thủ các quy định của pháp luật
về quyền và nghĩa vụ trong việc đăng ký khai sinh, khai tử khi có các sự kiện
trên xảy ra
Thanh Trì là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, ở đây đời
sống kinh tế cũng như trình độ nhận thức của nhân dân còn chưa cao, chưa
đồng bộ. Chính vì lý do này, mà đến nay vẫn còn tồn tại và phát sinh một số
trường hợp chưa hoặc chậm đăng ký khai sinh, khai tử khi có sự kiện hộ tịch
này xảy ra. Việc giải quyết các sự kiện hộ tịch còn tồn tại do lịch sử để lại và
một số mới phát sinh còn gặp khó khăn, vướng mắc. Một trong những khó
khăn của việc đăng ký khai sinh, khai tử muộn là do người dân còn chưa coi
trọng công tác này thậm chí một số cán bộ tư pháp - hộ tịch có nhiệm vụ thực
hiện việc đăng ký vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác này.

8
Với mong muốn tìm hiểu các quy định của Bộ luật Dân sự về quyền
khai sinh, khai tử và áp dụng các quy định này vào thực hiễn để giải quyết

tình trạng đăng ký khai sinh, khai tử cho đúng các quy định của pháp luật
trên địa bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội tôi chọn đề tài "Quyền khai
sinh, khai tử theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn áp
dụng quyền khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố
Hà Nội" để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời, đã có một số công trình khoa
học nghiên cứu về quyền nhân thân dưới góc độ là một quyền của con người
trong lĩnh vực dân sự như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Bộ Tư
pháp: "Một số vấn đề về quyền dân sự và bảo vệ quyền dân sự trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam"; Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án nhân
dân tối cao với đề tài: "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền
nhân thân của công dân theo quy định của Bộ luật Dân sự", công trình này
cũng chỉ dừng lại ở việc khẳng định vai trò của Tòa án nhân dân trong việc
bảo vệ quyền nhân thân nói chung chứ chưa đưa ra được phương hướng giải
quyết tranh chấp, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân ở những trường hợp cụ
thể - trong khi đó mỗi quyền nhân thân lại có những đặc thù riêng.
Quyền khai sinh, khai tử là một trong số các quyền nhân thân đã được
quy định tại luật dân sự Việt Nam năm 1995, năm 2005. Do tính chất là quyền
quan trọng nên đã có nhiều học viên cao học, nhiều nhà nghiên cứu đã tiếp
cận và nghiên cứu về quyền nhân thân trong đó có quyền khai sinh, khai tử ở
các khía cạnh khác nhau nhưng vẫn có một số vấn đề chưa khai thác hoặc
chưa khai thác hết hầu như chỉ dừng lại ở việc xem xét, đánh giá các quy định
của pháp luật mà chưa có sự đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử.

9
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu đề tài "Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật

dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng quyền khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện
Thanh Trì, Thành phố Hà Nội", luận văn nhằm đạt được những mục đích sau:
- Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận trong việc thực hiện quyền
khai sinh, khai tử;
- Đánh giá thực tiễn của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết về
việc khai sinh, khai tử trên địa bàn huyện Thanh trì.
- Đưa ra những giải pháp giải quyết những tồn tại làm tài liệu tham
khảo cho cấp cơ sở xã, thị trấn và phòng tư pháp huyện.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Lý giải những vấn đề lý luận chung về công tác đăng ký và quản
lý hộ tịch đặc biệt là công tác khai sinh, khai tử.
- Đánh giá thực tiễn của công tác đăng ký khai sinh, khai tử cũng như
việc thực hiện quyền khai sinh,khai tử của công dân, tổ chức.
- Đưa ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể để góp phần
thực hiện tốt nhiệm vụ của cán bộ công chức cũng như quyền của công dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Việc thực hiện đăng ký khai sinh, khai tử của Ủy ban nhân dân các xã,
thị trấn trên địa bàn huyện Thanh trì.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình thực hiện đăng ký khai sinh,
khai tử. Thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực này trên địa

10
bàn huyện Thanh trì từ năm 2005 đến nay (khoảng thời gian Bộ luật Dân sự
năm 2005 và Nghị định 158/2005/NĐ-CP có hiệu lực thay thế nghị định số
83CP/NĐ-CP).
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
rên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi

mới, đề tài tập trung sử dụng một số phương pháp chủ yếu: Phân tích, tổng
hợp, so sánh… Đề tài cũng kết hợp chặt chẽ giữu lý luận và thực tiễn trong
việc nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về việc thực hiện quyền
khai sinh, khai tử theo quy định của luật dân sự trên địa bàn huyện Thanh trì.
Ngoài ra luận văn còn góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng
pháp luật trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử, làm phong phú thêm
những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận
và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác đăng ký khai sinh,
khai tử và công dân thực hiện quyền của mình.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người trực
tiếp làm công tác đăng ký khai sinh, khai tử.
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng pháp
luật trong việc thực hiện quyền khai sinh, khai tử theo yêu cầu của công dân.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
áp dụng pháp luật trong việc thực hiện quyền của công dân trên địa bàn huyện
Thanh trì và đề ra những giải pháp nhăm đảm bảo áp dụng pháp luật trong
lĩnh vực này đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

11
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền nhân thân và vị trí của quyền
khai sinh, khai tử trong hệ thống các quyền nhân thân.
Chương 2: Quyền khai sinh, khai tử theo quy định của pháp luật.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về khai sinh, khai tử trên địa
bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.


12
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN
VÀ VỊ TRÍ QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ
TRONG HỆ THỐNG QUYỀN NHÂN THÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM QUYỀN NHÂN THÂN
1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân

Quyền nhân thân là một quyền dân sự của cá nhân, liên quan mật thiết
đến quyền con người. Tiếp cận quyền nhân thân không thể không tiếp cận đến
quyền dân sự, quyền con người.
Con người là trung tâm của xã hội, là đối tượng hướng tới và cần được
bảo vệ bằng nhiều thiết chế khác nhau, trong đó có thiết chế pháp luật. Dưới
góc độ pháp lý, quyền con người là quyền của cá nhân trong một xã hội có
Nhà nước và pháp luật, theo đó pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho cá nhân có
những lợi ích vật chất và tinh thần nhất định. Có thể khẳng định rằng con
người với vị trí và tầm quan trọng đặc biệt luôn được các quốc gia tôn trọng
và bảo vệ, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi điều kiện kinh tế, chính trị…
của thế giới có nhiều thay đổi thì quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền
con người đã và đang được nhiều quốc gia quan tâm như một vấn đề trọng
tâm. Quyền con người được hiểu là quyền đối với những lợi ích của con
người - với tư cách là chủ thể tham gia quan hệ xã hội, ví dụ như quyền dân
sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa… Sự ra đời của các công
ước về quyền con người được coi như là một minh chứng cho tầm quan trọng
và sự quan tâm, bảo vệ của mỗi quốc gia đối với quyền con người, điển hình là
Công ước quốc tế 1966 của Liên hợp quốc về quyền dân sự, quyền chính trị.
Quyền nhân thân theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 là một
loại quyền dân sự. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có


13
các quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự này có
thể do các bên thỏa thuận, trong một số trường hợp, pháp luật quy định cụ thể
về quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự mà các bên buộc phải thực hiện. Đảm bảo
những lợi ích chính đáng của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật
chính là đã bảo đảm quyền con người. Hay nói một cách khác quyền dân sự
được coi là một khái niệm được bao hàm trong nội dung của quyền con
người. Quyền dân sự với tư cách là một quyền con người cũng đã được pháp
luật quốc tế thừa nhận và bảo vệ. Nhà nước Việt Nam, bằng pháp luật cũng đã
thể hiện quan điểm rõ ràng trong việc bảo vệ quyền dân sự. Qua các bản hiến
pháp, cụ thể là Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ những quyền con người
cơ bản nhất được thể hiện tại Chương V. Quyền dân sự được định nghĩa là
"khả năng xử sự được phép của chủ thể có quyền năng được nhà nước quy
định hoặc công nhận khi tham gia vào quan hệ dân sự và bảo đảm cho các
quyền đó được thực hiện" [22]. Quyền dân sự ở một khía cạnh nhất định
chính là những lợi ích mà các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự mong
muốn đạt được, đó có thể là những quyền lợi liên quan đến vật chất hoặc
những lợi ích về tinh thần. Dựa vào những tiêu chí nhất định mà quyền dân sự
được phân loại thành những loại quyền khác nhau. Có thể nói sự phân loại
phổ biến nhất trong các hệ thống pháp luật dân sự trên thế giới là sự đối lập
giữa quyền nhân thân và quyền tài sản.
Về khái niệm quyền nhân thân, trên thực tế có nhiều quan điểm khi đề
cập tới khái niệm quyền nhân thân và cũng chưa có một định nghĩa thống
nhất. Luận văn trên cơ sở phân tích những quan điểm nổi bật và đưa ra những
nhận định của cá nhân.
Theo công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Tòa án nhân dân tối
cao, trong đề tài: "Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân
thân của công dân theo quy định của Bộ luật Dân sự" khái niệm quyền nhân
thân được xây dựng trên hai góc độ. Dưới góc độ chủ thể, quyền nhân thân

về dân sự là quyền con người về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân được thụ

14
hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm người đó
được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị
pháp lý của mình trong giao lưu dân sự, do đó quyền này không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Dưới góc độ khách thể, quyền nhân thân về dân sự của cá nhân được hiểu là
chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân để bảo đảm địa vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở
pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền con người về dân sự [30, tr. 19]. Theo
đó, quyền nhân thân mà chúng ta đang tìm hiểu được hiểu là quyền con người
trong lĩnh vực dân sự, quyền nhân thân này có từ khi mỗi cá nhân sinh ra, là
quyền nhân thân để phân biệt các cá nhân với nhau và không thể chuyển giao.
Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp lại có cách
định nghĩa khác về quyền nhân thân:
Quyền nhân thân: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân
mà không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác. Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên;
quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền
được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được
bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư;
quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền có quốc tịch; quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động; quyền
tự do sáng tạo, quyền tác giả đối với tác phẩm; quyền đối với các
đối tượng sở hữu công nghiệp.
Khi quyền nhân thân của một người bị xâm phạm thì người
đó có quyền: yêu cầu người vi phạm hoặc tòa án buộc người vi
phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; tự
mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; tự mình

yêu cầu hoặc yêu cầu tòa án buộc người vi phạm bồi thường thiệt

15
hại vật chất hoặc tinh thần. Không ai được lạm dụng quyền nhân
thân của mình xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác [37, tr. 653].
Có thể thấy từ điển luật học này đã đưa ra khái niệm khá súc tích,
quyền nhân thân được khẳng định là một loại quyền dân sự, gắn liền với mỗi
cá nhân, các cá nhân không thể chuyển giao quyền nhân thân của mình cho
người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định. Nội dung khái niệm về quyền
nhân thân trong cuốn từ điển này hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng của Bộ
luật Dân sự năm 2005. Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định:
"Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là quyền dân sự gắn liền
với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác" [27].
Bên cạnh những quan điểm trên còn một số quan điểm của các nhà
nghiên cứu luật học mà ngay sau đây xin được trích dẫn một số quan điểm
tiêu biểu. Trong bài viết "Khái niệm và phân loại quyền nhân thân", Tạp chí
Luật học, số 7/2009, TS Bùi Đăng Hiếu đã thể hiển quan điểm không đồng
thuận với quy định tại Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2005 ở hai điểm: Thứ
nhất, Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2005 định nghĩa rằng quyền nhân thân là
quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao trừ khi pháp luật có
quy định là một khẳng định không thấu đáo, bởi lẽ trên thực tế có một số
quyền dân sự thỏa mãn các đặc điểm trên đây nhưng không được xác định là
quyền nhân thân. Tác giả bài viết đưa ra những dẫn chứng cụ thể như trong
lĩnh vực hôn nhân gia đình, Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định
rằng: "nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị
em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo
quy định của luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ
khác và không thể chuyển giao cho người khác" [24], tương ứng với nghĩa vụ

cấp dưỡng Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định quyền yêu cầu cấp
dưỡng gắn với những chủ thể nhất định. Theo tác giả, quyền dân sự về cấp

16
dưỡng chính là một loại quyền tài sản. Quyền tài sản này rõ ràng gắn với một
cá nhân cụ thể và không thể chuyển giao. Thứ hai, tác giả của bài viết này
không đồng ý với quy định cho rằng quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá
nhân. Trong các văn bản mà tác giả dẫn chứng có liên quan đến yếu tố pháp
lý của pháp nhân - chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tại Điều 604 và
Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2005 có đề cập đến "danh dự, uy tín của pháp
nhân, chủ thể khác" hay tại Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004
và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, đều nhắc đến thiệt hại do tổn thất về tinh thần
của cá nhân¸và pháp nhân được bồi thường thiệt hại về tinh thần. Tác giả của
bài viết cho rằng những quy định này đã khẳng định quyền nhân thân của
pháp nhân được pháp luật bảo vệ, đồng nghĩa với việc cho rằng quyền nhân
thân chỉ gắn với cá nhân như tại Điều 24 Bộ luật Dân sự là không chính xác.
Từ những phân tích đó, TS. Bùi Đăng Hiếu cũng đã đưa ra quan điểm cá nhân
khi xây dựng định nghĩa về quyền nhân thân: "Quyền nhân thân là quyền dân
sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền
và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác" [9, tr. 40].
Một quan điểm khác khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân:
quan điểm của TS. Lê Đình Nghị trong luận án tiến sĩ Luật học Quyền bí mật
đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2008), tác giả đã
xây dựng khái niệm về quyền nhân thân trên hai phương diện khách quan và
chủ quan. Nghĩa khách quan: "quyền nhân thân được hiểu là một phạm trù pháp
lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó
có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với
bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình" [15].

Theo nghĩa chủ quan, tác giả cho rằng "quyền nhân thân là quyền dân sự chủ
quan gắn liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân
không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có

17
quy định khác" [15]. Có thể thấy tác giả đồng tình với quan điểm của nhà làm
luật khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân.
Phân tích một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể thấy rằng
chưa thể có một khái niệm thống nhất về quyền nhân thân. Quyền nhân thân
là một loại quyền dân sự đặc biệt, có thể nói là một loại quyền dân sự gắn với
mỗi chủ thể từ khi chủ thể đó hình thành cho đến khi chấm dứt, không còn tồn
tại. Xã hội phát triển làm cho các quan hệ xã hội trở nên phức tạp, đa dạng và
biến hóa hơn, đồng thời do nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, duy trì cuộc sống xã
hội dần hình thành nhiều các chủ thể với các hình thức tổ chức khác nhau. Cá
nhân là chủ thể chủ yếu, trung tâm trong mọi quan hệ xã hội, tuy nhiên xã hội
cũng đã hình thành và pháp luật đã công nhận nhiều loại chủ thể khác. Pháp
luật dân sự quy định các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm: cá nhân,
pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quyền nhân thân là một loại quyền con người, tuy nhiên quyền
nhân thân không chỉ gắn với con người với tư cách là cá nhân trong các quan
hệ pháp luật dân sự. Đối với pháp nhân, luật dân sự đã có quy định liên quan
đến nhân thân của pháp nhân, ví dụ như quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự
năm 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng đã nhắc
đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Bằng cách gián tiếp, Bộ luật Dân sự
đã công nhận quyền nhân thân cho các pháp nhân. Như vậy có thể khẳng định
quyền nhân thân không chỉ gắn với cá nhân mà có thể gắn với chủ thể khác.
Như ở phần đầu luận văn chúng tôi đã đề cập tới sự phân loại quyền
dân sự thành quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền tài sản được hiểu là
những quyền có khả năng định giá được bằng tiền và có thể chuyển giao một
cách hoàn toàn bình thường với tư cách là một loại tài sản. Quyền nhân thân

thì không thể định giá được bằng tiền, nó không mang những giá trị vật chất
mặc dù trong một số trường hợp nó có thể là tiền đề để người có quyền năng
hưởng một khoản lợi ích vật chất nhất định. Quyền nhân thân có thể xem như
"là một loại quyền vô giá" [22].

18
Từ những lập luận và phân tích trên, chúng tôi xin đưa khái niệm về
quyền nhân thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi
chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể
khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với cá nhân mà không thể
chuyển giao cho chủ thể khác. Quyền nhân thân có các đặc điểm sau đây:
Đặc điểm thứ nhất: Quyền nhân thân là một quyền dân sự và là một
quyền dân sự đặc biệt. Con người là nhân vật trung tâm của xã hội và luôn là
đối tượng hướng tới của các cuộc cách mạng tiến bộ trong lịch sử xã hội loài
người. Dưới góc độ pháp luật dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường
xuyên, quan trọng và phổ biến của quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật
quy định cho cá nhân là vì con người và hướng tới con người, trong đó có
các quyền nhân thân. Sở dĩ nói quyền nhân thân là quyền dân sự đặc biệt và
các quyền này gần như chỉ thuộc về cá nhân, trong khi đó các quyền khác
(quyền tài sản) có thể thuộc về chủ thể khác (pháp nhân, hộ gia đình). Bên
cạnh các quyền nhân thân được Bộ luật Dân sự quy định thuộc về cá nhân, có
trường hợp ngoại lệ đặc biệt quyền nhân thân có thể thuộc về pháp nhân (theo
quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự thì danh dự, uy tín của pháp nhân cũng
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ).
Đặc điểm thứ hai: Mọi cá nhân đề có sự bình đẳng về quyền nhân thân.
Mọi người đều có quyền nhân thân kể từ khi họ được sinh ra, không
phân biệt giới tính, tôn giáo, thành phần giai cấp Chúng ta thấy quyền nhân
thân có một sự khác biệt cơ bản với quyền tài sản vì quyền bình đẳng về mặt

dân sự không quy định tất cả mọi người đều có khả năng hưởng những quyền
như nhau. Nguyên tắc bình đẳng về mặt dân sự có nghĩa là mọi cá nhân đều
có những quyền như nhau, đó không phải là một khả năng trừu tượng mà là

19
một thực tế. Lợi ích của quyền nhân thân được quy định như một thực tế chứ
không phải là quy định mang tính hình thức.
Đặc điểm thứ ba: Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản.
Quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn
với tài sản hay không gắn với tài sản mà thôi. Vì không phải là tài sản nên quyền
nhân thân không bao giờ trị giá được thành tiền. Về mặt pháp lý, chúng ta cần
phân định rõ tính chất phi tài sản của quyền nhân thân, ví dụ: một người sáng tạo
ra một sáng chế hay giải pháp hữu ích. Sáng chế hay giải pháp hữu ích do con
người sáng tạo nên mang giá trị kinh tế, chứ bản thân "Quyền tự do sáng tạo"
(Điều 47 Bộ luật Dân sự) không phải là tài sản, không mang giá trị kinh tế.
Đặc điểm thứ tư: Quyền nhân thân luôn gắn liền với cá nhân, không
thể chuyển giao cho chủ thể khác.
Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền
với mỗi cá nhân mà không thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Các quyền dân sự
nói chung, quyền nhân thân nói riêng là do Nhà nước quy định cho các chủ thể
dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do vậy về mặt nguyên tắc, cá nhân
không thể chuyển dịch quyền nhân thân cho chủ thể khác, nói cách khác thì
quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự giữa các cá
nhân. Ví dụ, người này không thể đổi họ tên cho người khác và ngược lại hoặc
một người không thể ủy quyền cho người khác thực hiện quyền tự do đi lại của
mình và mình nhận quyền tự do kết hôn của người khác. Điều này có nghĩa rằng
bản thân chủ thể hưởng quyền nhân thân chứ họ không thể ủy quyền cho ai đó
và thông thường, không ai có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền này trừ
những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định (Theo quy định của pháp luật,
việc thay đổi họ tên của người chưa thành niên có thể do cha mẹ của người này

thực hiện trong trường hợp pháp luật quy định - Điều 27 Bộ luật Dân sự). Tuy
nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật thì quyền
nhân thân có thể chuyển giao cho chủ thể khác, ví dụ: Quyền công bố, phổ biến

20
tác phẩm của tác giả, khi tác giả chết đi thì quyền này có thể chuyển giao cho
chủ thể khác (người thừa kế của tác giả). Mặc dù vậy thì có những yếu tố luôn
gắn liền với chủ thể mà không thể thay đổi được, ví dụ: quyền đứng tên tác giả,
quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Khoản 1 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ
quy định cho phép chủ sở hữu quyền tác giả có quyền chuyển giao quyền công
bố tác phẩm cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng (Điều 19, Luật Sở hữu
trí tuệ quy định quyền công bố tác phẩm, cho phép người khác công bố tác
phẩm là một quyền nhân thân). Trong các quyền nhân thân được Luật Sở hữu
trí tuệ quy định cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì chúng ta có thể hiểu
có cả các quyền nhân thân có thể chuyển giao và quyền nhân thân không thể
chuyển giao, mặt khác quy định của pháp luật về quyền nhân thân của cá nhân
là những quyền nhân thân gắn liền với chủ thể mà không thể chuyển giao.
Đặc điểm thứ năm: Quyền nhân thân là một quyền dân sự do Nhà nước
quy định cho cá nhân, Nhà nước không cho phép cá nhân hạn chế quyền nhân
thân của mình cũng như hạn chế quyền nhân thân của người khác.
Quyền nhân thân là một quyền nằm trong nội dung năng lực pháp
luật dân sự của cá nhân. Pháp luật dân sự quy định cho các cá nhân có các
quyền nhân thân là một sự tuyên bố chính thức về các quyền con người cụ
thể được pháp luật thừa nhận. Việc pháp luật quy định cho cá nhân có các
quyền nhân thân khác nhau là dựa vào các điều kiện kinh tế - xã hội. Do vậy,
ở mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử xã hội loài người, phụ thuộc vào bản
chất giai cấp, chế độ chính trị xã hội mà quyền nhân thân của cá nhân
được quy định một cách khác nhau. Quyền nhân thân do Nhà nước "trang
bị" cho cá nhân, Nhà nước không cho phép bất cứ cá nhân nào làm thay đổi
hay chấm dứt quyền đó.

1.1.3. Vai trò của quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Quyền nhân thân là một loại quyền dân sự được Nhà nước ghi nhận
cho các cá nhân. Việc ghi nhận các quyền nhân thân chịu ảnh hưởng rất lớn

21
bởi các yếu tố: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Với việc ghi nhận các
quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan,
quyền nhân thân có vai trò rất lớn, điều này được thể hiện ở những khía cạnh
sau đây:
Thứ nhất, quyền con người nói chung, quyền nhân thân nói riêng là
đối tượng được giải quyết dưới nhiều góc độ: triết học, chính trị học, sử học,
văn học, luật học Bộ luật Dân sự quy định các quyền nhân thân là sự khẳng
định của Nhà nước trong việc tôn vinh và bảo vệ các giá trị tinh thần của con
người. Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc ghi nhận các quyền nhân thân
đánh dấu sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống pháp luật ở mức độ cao. Con
người là mục tiêu của mọi cuộc cách mạng, sự ghi nhận các quyền của cá
nhân, trong đó có quyền nhân thân trong một văn bản pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao của Nhà nước ta thể hiện tính ưu việt của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền của con người. Xã hội
ngày càng phát triển, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi theo hướng
tích cực thì các giá trị tinh thần của con người càng được chú trọng. Trong bối
cảnh quốc tế hiện nay, việc ghi nhận các quyền nhân thân một lần nữa khẳng
định bản chất của Nhà nước ta - đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Qua việc quy định các quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật, một lần nữa
chúng ta lại thấy rằng một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ
càng được mở rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu,
và do đó các quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng
hơn cùng với những biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả.
Thứ hai, các quy định về quyền nhân thân của cá nhân trong hệ thống
pháp luật là cơ sở để cá nhân thực hiện các quyền của mình. Ghi nhận các

quyền nhân thân của cá nhân trong hệ thống pháp luật là sự đảm bảo của Nhà
nước trong việc tôn vinh các giá trị của con người. Tuy nhiên, đây cũng là sự
thể hiện quan hệ giữa Nhà nước với công dân, theo đó Nhà nước đảm bảo
quyền cho cá nhân và cá nhân sẽ thực hiện quyền do Nhà nước ghi nhận.

22
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đầy đủ cùng với hệ thống các cơ
quan thực thi sẽ tạo điều kiện cho cá nhân thực hiện các quyền của mình.
Bằng sự khẳng định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá
nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ trường hợp pháp luật có
quy định pháp luật đã thực hiện việc đảm bảo quyền dân sự cho chính cá
nhân chứ không phải đảm bảo cho chủ thể khác. Sự khẳng định này không chỉ
có ý nghĩa trong lĩnh vực dân sự mà còn có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực
khác như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Thứ ba, các quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật là cơ
sở pháp lý quan trọng để Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khi các quyền, lợi ích đó bị xâm phạm.
Pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Các quy định của pháp luật về quyền nhân thân chính là những cơ sở pháp lý
quan trọng để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc
bảo vệ quyền lợi của cá nhân khi các quyền nhân thân bị xâm phạm.
Ngoài việc quy định nội dung các quyền nhân thân, các cơ quan có
thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khi quyền nhân
thân bị xâm phạm, các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân cũng được pháp luật
chú trọng. Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Nhà nước ta quy định:
Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó
có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,

cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại [27].

23
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, các quy định về quyền nhân
thân nói riêng luôn được Nhà nước ta quan tâm. Trong quá trình hoàn thiện hệ
thống pháp luật, một loạt các quy định về quyền nhân thân được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với điều kiện xã hội mới.
Ở nước ta, trước đây các quyền nhân thân được pháp luật quy định
chưa nhiều. Trong cuộc sống hàng ngày, tên họ, hình ảnh, bí mật đời tư, danh
dự, nhân phẩm uy tín của cá nhân dễ bị xâm phạm với nhiều động cơ, mục
đích khác nhau, thậm chí người xâm phạm cũng không có động cơ và nhằm
mục đích nào. Nhiều trường hợp, người bị xâm phạm dù chịu rất nhiều khó
khăn khổ sở, nhục nhã mà không biết làm cách nào để tự vệ, buộc người vi
phạm chấm dứt hành vi xâm phạm đến bản thân mình, gia đình mình. Một số
vụ việc được giải quyết thì người bị xâm phạm chỉ được đền bù tượng trưng
bằng cách xin lỗi, chứ không có biện pháp nào để buộc họ phải bồi thường thỏa
đáng về những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần cho người bị xâm phạm.
Những năm gần đây, cùng với những thành quả của công cuộc đổi
mới, sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005, nhiều
quyền nhân thân của công dân đã được Nhà nước ghi nhận và thực hiện nhiều
biện pháp bảo vệ. Chẳng hạn họ tên, hình ảnh (bao gồm ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh
do quay phim, tượng), bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân đã được pháp luật quy định ở nhiều văn bản pháp luật với các hình thức
bảo vệ cụ thể.
Nhiều vụ án đã được tòa án thụ lý xét xử, buộc người vi phạm dù là cá
nhân hay tổ chức đều phải có nghĩa vụ xin lỗi và bồi thường bằng tiền cho
người bị xâm phạm. Các cơ quan nhà nước tiến hành tố tụng (cơ quan điều
tra, truy tố, xét xử) gây oan; các cơ quan thông tấn, báo chí thông tin sai sự

thật, xuyên tạc, vu khống hoặc cá nhân, tổ chức đạo văn, đạo nhạc, xâm phạm
bản quyền, tự ý sử dụng họ tên, hình ảnh của công dân trên các mẫu quảng
cáo, in lịch mà không hỏi ý kiến và không được sự đồng ý của người đó hoặc

24
thân nhân của họ (nếu họ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự) đã phải chịu
trách nhiệm về hành vi xâm phạm của mình. Qua đây, chúng ta thấy được các
quy định về quyền nhân thân cùng các biện pháp bảo vệ các quyền đó đã phát
huy tính tích cực trong việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân.
Thứ tư, các quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật
ngoài sự thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc ghi nhận và bảo vệ các
quyền của cá nhân còn có tác dụng tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp như hiện
nay, các quy định về quyền nhân thân của Nhà nước ta không những thể hiện
đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với quyền con người, khẳng
định vị trí và vai trò của cá nhân trong xã hội, bảo đảm cho cá nhân thực hiện
các quyền của mình mà còn là công cụ hữu hiệu để chống lại các quan điểm
phản động của các thế lực thù địch khi chúng xuyên tạc các quy định liên quan
đến quyền con người nói chung, quyền nhân thân nói riêng của Nhà nước ta.
Thứ năm, các quy định về quyền nhân thân ngoài ý nghĩa đảm bảo các
quyền của cá nhân được thừa nhận và bảo vệ còn thể hiện sự công bằng, bình
đẳng trước pháp luật của cá nhân. Sự bình đẳng của cá nhân không chỉ thể
hiện ở các quy định về quyền nhân thân của cá nhân mà còn thể hiện trong
việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền này, theo đó bất cứ ai có hành vi xâm
phạm quyền nhân thân cũng phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
1.2. VỊ TRÍ CỦA QUYỀN KHAI SINH, KHAI TỬ TRONG HỆ THỐNG
CÁC QUYỀN NHÂN THÂN
Quyền khai sinh, khai tử là quyền cơ bản của con người. Trong hệ
thống các quyền con người, quyền khai sinh, khai tử nằm trong nhóm quyền
dân sự, chính trị và là một trong các quyền nhân thân của cá nhân.Quyền khai

sinh, quyền khai tử đã được quy định trong Bộ luật Dân sự của nhiều nước
trong đó có Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp năm 1919.

25
Điều 55 (Luật ngày 20/11/1919):
Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày sinh trẻ, việc khai sinh
cho trẻ phải được thực hiện trước viên chức hộ tịch tại nơi trẻ sinh ra.
Trong trường hợp trẻ sinh ra không được khai sinh trong thời
hạn pháp luật quy định, thì viên chức hộ tịch chỉ có thể ghi việc sinh
vào sổ hộ tịch khi có bản án, quyết định của Tòa án quận nơi trẻ sinh
ra, nhưng phải ghi chú tóm tắt vào lề của trang tương ứng với ngày
sinh. Nếu không xác định được nơi sinh của trẻ thì Tòa án có thẩm
quyền sẽ là Tòa án nơi cư trú của người yêu cầu khai sinh [19].
Điều 78 (Luật ngày 07/2/1924): "Khi một người chết, giấy chứng tử
do viên chức hộ tịch của xã nơi người đó chết lập theo lời khai của thân nhân
người chết hoặc theo lời khai của người biết được những thông tin chính xác
và đầy đủ nhất về hộ tịch của người chết" [19].
Điều 79 (Pháp lệnh số 45-509 ngày 29/3/1945): "Việc một người chết
được ghi chú vào lề giấy khai sinh của người đó" [19].
Sau khi Liên hợp quốc ra đời, quyền khai sinh, khai tử trở thành mối
quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Quyền khai sinh, khai tử được ghi
nhận trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 và nhiều
công ước khác của Liên hợp quốc. Khoản 2 Điều 24 của Công ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị năm 1966 ghi nhận: "Mọi trẻ em đều phải được
đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời và phải có tên gọi" [11].
Bên cạnh những quy định trong các công ước mang tính toàn cầu, áp
dụng cho mọi đối tượng không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc… , một
số công ước quốc tế của Liên hợp quốc điều chỉnh những quan hệ trong từng
lĩnh vực, đối với từng đối tượng cụ thể cũng đề cập đến việc ghi nhận và bảo
vệ quyền khai sinh, quyền khai tử là một bộ phận không thể thiếu của quyền

con người. Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em quy định tại
Điều 7: "1. Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có

×