Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.67 KB, 120 trang )


1

Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Cao Thị Thu Phương





Sở hữu chung của vợ chồng
đối với quyền tài sản
theo pháp luật ở việt nam




Luận văn thạc sĩ Luật học










Hà nội – 2011




2



Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Cao Thị Thu Phương



Sở hữu chung của vợ chồng
đối với quyền tài sản
theo pháp luật ở việt nam


Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


Luận văn thạc sĩ Luật học




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Thị Mai Hiên



Hà nội – 2011


4
MỤC LỤC


Trang

MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỞ HỮU
CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI
SẢN VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
9
1.1.
Khái niệm, sự phân loại quyền tài sản và đặc điểm quyền
sở hữu đối với quyền tài sản
9
1.1.1.
Khái niệm quyền tài sản
9
1.1.2.
Phân loại quyền tài sản

16
1.1.3.
Đặc điểm quyền sở hữu đối với quyền tài sản
30
1.2
Đặc điểm của sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền
tài sản và nội dung điều chỉnh pháp luật quan hệ sở hữu
chung của vợ chồng đối với quyền tài sản
35
1.2.1
Đặc điểm của sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản
35
1.2.2
Vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ sở hữu chung của vợ
chồng đối với quyền tài sản
41
1.3.
Pháp luật Việt Nam về sở hữu chung của vợ, chồng đối với tài sản
qua các giai đoạn phát triển
46
1.3.1.
Quy định trước năm 1945
46
1.3.2.
Quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2000
52

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU
CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI
SẢN – NHỮNG BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

58
2.1.
Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành về sở hữu chung của vợ,
chồng đối với quyền tài sản
59
2.1.1.
Khái quát về sở hữu chung của vợ, chồng theo Luật HNGĐ Việt
59

5
Nam năm 2000
2.1.2.
Căn cứ phát sinh sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản
60
2.1.3.
Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với quyền tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ, chồng
76
2.1.4
Các căn cứ chấm dứt sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài
sản
86
2.2
Thực tiễn áp dụng pháp luật về sở hữu chung của vợ, chồng đối với
quyền tài sản - Một số vấn đề đặt ra và phương hướng hoàn thiện
92
2.2.1
Một số vấn đề bất cập trong pháp luật về sở hữu chung của vợ,
chồng đối với quyền tài sản
92

2.2.2
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu chung của vợ chồng
đối với quyền tài sản
100

KẾT LUẬN
108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
















6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT







BLDS
Bộ luật Dân sự
ĐHQGHN
Đại học quốc gia Hà Nội
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
LDN
Luật Doanh nghiệp
LĐĐ
Luật đất đai

Nghị định
NQ
Nghị quyết
SHCN
Sở hữu công nghiệp
SHTT
Sở hữu trí tuệ







7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hôn nhân và gia đình là những yếu tố đặc biệt quan trọng trong xã hội. Ở bất
kỳ quốc gia nào, hôn nhân và gia đình cũng là những yếu tố không thể thiếu để
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Vai trò của gia đình đã được Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2000 ghi nhận ngay ở lời nói đầu đó là “Gia đình là tế bào
của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành
và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia
đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.
Trong gia đình thì quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ giữ vai trò chủ
đạo và có vai trò đặc biệt quan trọng. Mỗi gia đình đều được hình thành từ quan hệ
cơ bản nhất là quan hệ hôn nhân và chủ thể của quan hệ đó là người vợ và người
chồng. Từ nền tảng quan hệ hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà
mà gia đình được tạo dựng và phát triển, sinh sôi, nảy nở. Hôn nhân chính là tiền đề
cho sự ra đời của gia đình, mục đích của hôn nhân là để xây dựng gia đình và gia
đình phải dựa trên cơ sở của hôn nhân, “hôn nhân sẽ không là đối tượng của việc
lập pháp, cũng như tình bạn nếu nó không là cơ sở của gia đình” [28, tr. 47], đồng
thời chịu tác động của các yếu tố đạo đức, tôn giáo, truyền thống, pháp luật… Khi
một người nam và một người nữ thiết lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp
luật, giữa họ sẽ phát sinh một quan hệ đặc biệt đó là quan hệ giữa vợ và chồng.
Quan hệ vợ chồng là quan hệ rất đặc thù và nội dung của quan hệ giữa vợ và chồng
bao gồm các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.
Trong các quan hệ hôn nhân gia đình nói chung thì quan hệ nhân thân có là
nhóm quan hệ chủ đạo và là yếu tố quyết định vì chỉ khi các quan hệ nhân thân
được xác lập (như quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa vợ chồng được xác lập sau sự
kiện kết hôn) thì từ đó các quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng mới phát
sinh. Quan hệ nhân thân là các quan hệ phát sinh trên đời sống tinh thần và tình cảm


8
giữa vợ và chồng. Bên cạnh các quan hệ nhân thân thì quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng cũng là những quan hệ cơ bản và đặc biệt quan trọng đối với đời sống gia
đình. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là các quan hệ được xác lập dựa trên đối
tượng là tài sản. Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện vật
chất là cơ sở kinh tế của gia đình để nuôi sống gia đình. Do vậy chế độ tài sản của
vợ chồng luôn được các nhà làm luật của tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm
xây dựng như là một chế định cơ bản của luật HN&GĐ. “Chế độ tài sản của vợ
chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ
chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản
giữa vợ và chồng theo luật định” [6, trg. 8]. Việc quy định và thực hiện chế độ sở
hữu chung của vợ chồng đối với tài sản ở nước ta trong những năm qua đã góp phần
đảm bảo sự ổn định và bền vững của các quan hệ hôn nhân gia đình, đặc biệt là bảo
đảm sự cân bằng về mặt lợi ích giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người phụ nữ. Trong xã hội hiện đại, vai trò và đóng góp của người phụ nữ đối
với gia đình cũng như đối với sự phát triển chung của toàn xã hội là rất to lớn và
cần được trân trọng và bảo vệ. Việc pháp luật quy định hợp lý về vấn đề sở hữu
chung của vợ, chồng sẽ giúp người phụ nữ bảo đảm và nâng cao vị trí của mình
trong gia đình cũng như trong xã hội, giúp tạo sự bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội
của người vợ so với người chồng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ
nữ. Pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam hiện hành điều chỉnh về vấn đề tài
sản chung của vợ chồng nhìn chung là khá đầy đủ và toàn diện, đã góp phần bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ, lợi ích chung của gia đình cũng như lợi ích của toàn xã
hội tuy nhiên trên thực tế áp dụng pháp luật vẫn nảy sinh nhiều điểm bất cập. Còn
nhiều vấn đề pháp luật chưa quy định thực sự rõ ràng dẫn đến việc các bên tham gia
quan hệ liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng cũng như các cơ quan có thẩm
quyền gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản
chung của vợ chồng.


9
Trong các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng có một loại tài sản
đặc biệt, đóng vai trò quan trọng cũng như chiếm giá trị lớn trong khối tài sản chung
đó chính là các quyền tài sản. Bản thân quyền tài sản là một loại tài sản có nhiều
đặc điểm khác biệt so với các loại tài sản khác. Quyền tài sản là tài sản vô hình, con
người không thể cảm nhận được sự tồn tại của nó bằng các giác quan như đối với
các tài sản khác mà con người nhận thức được sự tồn tại của các quyền tài sản thông
qua các quy định của pháp luật. Nhắc đến quyền tài sản là nhắc đến góc độ pháp lý
của tài sản do đó các quyền tài sản phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Do tính
chất vô hình của mình mà việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của các chủ thể đối
với quyền tài sản khá đặc biệt so với các loại tài sản khác. Đặc biệt trong quan hệ sở
hữu chung của vợ chồng thì việc thực hiện quyền sở hữu của mỗi người đối với các
quyền tài sản chung như thế nào cũng là một vấn đề rất phức tạp.
Bên cạnh đó, hiện nay khi nền kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật ngày
càng hiện đại và phát triển thì trong xã hội lại ngày càng xuất hiện nhiều loại tài sản
mới có tính chất đặc thù như các quyền SHTT, các loại tài sản ảo trong các trò chơi
trực tuyến (game online) v.v… Quyền SHTT là những quyền rất có ý nghĩa trong
đời sống không chỉ vì giá trị rất lớn của nó đối với nền kinh tế mà còn còn vì những
thành quả to lớn mà các đối tượng quyền SHTT mang lại đối với toàn xã hội. Pháp
luật Việt Nam đã có nhiều quy định để bảo các quyền này mà điển hình là Luật
SHTT được ban hành năm 2005. Luật SHTT 2005 đã ghi nhận đầy đủ các đối tượng
của quyền SHTT cũng như cơ chế điều chỉnh và bảo vệ các đối tượng đó. Trong các
loại quyền tài sản thì quyền SHTT lại là một loại quyền tài sản đặc thù nên việc
thực hiện quyền sở hữu chung của vợ, chồng trên các quyền tài sản là quyền SHTT
cũng khá khác biệt so với các loại quyền tài sản khác. Còn đối với đối tượng mới
xuất hiện như tài sản ảo thì hiện nay pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về việc
ghi nhận, bảo vệ tài sản ảo nên chưa có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền của người có
tài sản ảo cũng như để giải quyết các tranh chấp liên quan.
Một thực tế hiện nay đó các quy định của pháp luật hiện hành cụ thể là
BLDS 2005 về tài sản và quyền sở hữu nói chung cũng như các quy định về quyền


10
tài sản nói riêng vẫn còn nhiều bất cập. Ngay bản thân khái niệm quyền tài sản chưa
được định nghĩa một cách rõ ràng và chính xác, trong luật chưa có sự phân loại các
quyền tài sản và chưa nêu ra được bản chất của từng loại quyền tài sản. Do chưa
phân loại được và chưa hiểu đúng bản chất của từng loại quyền tài sản nên các quy
định về quyền tài sản trong BLDS 2005 vừa thiếu lại vừa không chính xác. Chính vì
vậy, việc thực hiện quyền sở hữu đối với quyền tài sản còn trên thực tế còn gặp
nhiều khó khăn, làm phát sinh nhiều mâu thuẫn trong việc áp dụng pháp luật, do đó
các tranh chấp liên quan đến quyền tài sản chưa được giải quyết một cách hợp lý.
Điều này khiến cho việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với các
loại quyền tài sản lại càng gặp nhiều khó khăn hơn.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập như hiện nay, quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng đang có nhiều thay đổi, sự thay đổi đó là cần thiết để tạo điều
kiện cho vợ và chồng phát huy khả năng kinh doanh của mỗi người, đảm bảo nền
tảng kinh tế cho cả gia đình cũng như sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội.
Các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành điều chỉnh về quan hệ
tài sản giữa vợ, chồng đã tỏ ra có nhiều điểm không còn phù hợp với sự phát triển
của kinh tế – xã hội ở nước ta, chính vì vậy việc nghiên cứu tìm ra những điểm bất
cập của pháp luật và đề ra các giải pháp sửa đổi là rất cần thiết. Đồng thời càng
ngày giá trị và vai trò của các quyền tài sản lại ngày càng được nâng cao hơn trong
đời sống xã hội vì vậy yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu chung
của vợ, chồng đối với quyền tài sản đang đặt ra cấp thiết.
Qua việc nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản, tác giả mong
muốn sẽ làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quyền tài sản và quan hệ sở hữu
chung của vợ chồng đối với quyền tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
từ đó chỉ ra những điểm hợp lý và những điểm còn bất cập của pháp luật Việt Nam
hiện hành quy định về vấn đề này và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật cũng như nâng cao tính hiệu quả của pháp luật trong

việc điều chỉnh về quyền tài sản nói chung và sở hữu chung của vợ chồng đối với

11
quyền tài sản nói riêng. Vì các lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Sở hữu
chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam" có ý nghĩa
cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, vấn đề quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng đã được nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, trong đó có thể kể đến các tài liệu
sau đây: Luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành Luật dân sự khoá 11 của học viên
Nguyễn Hiển Vinh tại Khoa Luật - ĐHQGHN “Chế độ tài sản của vợ chồng theo
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành
Luật dân sự khoá 10 của học viên Đinh Thị Mai Phương tại Khoa Luật - ĐHQGHN
“Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam”; các
bài viết “Một số ý kiến về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng” – ThS. Nguyễn Thị
Lan – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội; “Khái quát tài sản của vợ chồng
trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của một số nước trên thế giới” – ThS. Nguyễn
Hồng Hải – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội; “Quan hệ về tài sản của vợ
chồng trong hoạt động hợp tác sản xuất, kinh doanh theo pháp luật của cộng hoà
Pháp” – ThS. Bùi Minh Hồng – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội (nghiên
cứu sinh tại Cộng hoà Pháp) … một trong những nghiên cứu chuyên sâu và toàn
diện nhất về quan hệ tài sản giữa vợ, chồng đó là Luận án tiến sĩ luật học của nghiên
cứu sinh Nguyễn Văn Cừ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam” năm 2005 và sau đó tác giả này cũng đã phát hành cuốn sách
chuyên khảo: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam - TS. Nguyễn Văn Cừ - Nhà xuất bản Tư pháp - năm 2008 để những người
nghiên cứu có điều kiện dễ dàng tiếp cận. Tuy nhiên trong các nghiên cứu nói trên
về quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ, chồng thì chưa nghiên cứu nào đặt vấn đề này
trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng như sự thay đổi đáng kể

trong quan hệ sản xuất của kinh tế thị trường khiến cho quan hệ sở hữu tài sản giữa
vợ và chồng cũng có những sự thay đổi đáng kể. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam

12
điều chỉnh về quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng vẫn chưa có sự thay đổi phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu để làm rõ cả vấn đề lý luận
và thực tiễn để có những quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ,
chồng cho phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước ta như hiện nay là rất cần
thiết.
Các vấn đề liên quan đến quyền tài sản cũng đã được nhiều tác giả nghiên
cứu đề cập đến trong các tài liệu chuyên sâu khác nhau, cụ thể là: “Quyền tài sản -
một loại tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam” – Luận văn thạc sỹ của Sỹ Hồng
Nam học viên cao học Khoá 9 chuyên ngành Luật Dân sự tại Khoa Luật –
ĐHQGHN; bài viết “Tổng quan về Luật tài sản” của TS. Ngô Huy Cương; bài viết
“Cần xây dựng lại khái niệm Quyền tài sản trong Luật dân sự” và “Một số vấn đề về
quyền tài sản và hướng hoàn thiện” của TS. Nguyễn Ngọc Điện; Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường “Tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của Đại học Luật Hà Nội v.v… Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay
chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về quan hệ sở hữu chung giữa vợ,
chồng đối với quyền tài sản, một loại tài sản đặc biệt trong thực tiễn.
Trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cùng với nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, vấn đề về quyền tài sản và sở
hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý
luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài
sản nói chung và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản nói riêng, đáp
ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích: Làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quyền tài sản và sở hữu
chung của vợ chồng đối với quyền tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
Việt Nam hiện hành điều chỉnh về vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải

pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền tài sản và quan hệ sở hữu chung của
vợ chồng đối với quyền tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
* Nhiệm vụ:

13
- Làm rõ cơ sở lý luận, khái niệm, đặc điểm và sự phân loại của quyền tài
sản; đặc điểm của sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản và nội dung
điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản.
- Phân tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
quyền tài sản, về sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản và thực tiễn áp
dụng các quy định đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ
chồng đối với quyền tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. Quyền tài sản
được nghiên cứu trong luận văn là một đối tượng của quyền sở hữu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là phương
pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so
sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp hệ thống.
6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về sắc về sở hữu chung của vợ
chồng đối với một loại tài sản đặc biệt đó là quyền tài sản.
- Luận văn đã đưa ra được khái niệm, đặc điểm và phân loại quyền tài sản; chỉ ra
và phân tích được các đặc điểm và nội dung của quan hệ sở hữu chung của vợ
chồng đối với quyền tài sản.
- Luận văn đã phân tích, làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về

quyền tài sản và sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản, chỉ ra những
điểm tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn
cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng các quy

14
định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản
và chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ
thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của
vợ chồng đối với tài sản nói chung và đối với quyền tài sản nói riêng.
7. Ý nghĩa của luận văn:
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên
cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ
chồng đối với quyền tài sản nói riêng, từ đó góp phần nâng cao vai trò và hiệu quả
của pháp luật đối với đời sống xã hội.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và học tập các môn học như Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình v.v… tại
các cơ sở đào tạo luật.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát một số vấn đề lý luận về sở hữu chung của vợ, chồng
đối với quyền tài sản và vấn đề điều chỉnh pháp luật
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về sở hữu chung của vợ, chồng
đối với quyền tài sản – Những bất cập và hướng hoàn thiện










15
Chương 1
KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỞ HỮU CHUNG CỦA
VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI SẢN VÀ VẤN ĐỀ
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT

1.1 Khái niệm, sự phân loại quyền tài sản và đặc điểm quyền sở hữu đối với
quyền tài sản
1.1.1 Khái niệm quyền tài sản
Theo nghĩa thông thường được ghi nhận trong từ điển tiếng Việt thì thuật
ngữ “quyền” được hiểu là “điều mà pháp luật hoặc xã hội cho được hưởng, được
làm, được đòi hỏi” còn thuật ngữ “tài sản” được hiểu là những của cải vật chất tồn
tại khách quan, nằm trong sự chiếm hữu và chi phối của con người, được con người
khai thác và mang lại lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần nhưng quyền tài sản là
một khái niệm pháp lý vì vậy cần phải xem xét ý nghĩa của nó theo các quan điểm
khoa học pháp lý và quy định của pháp luật. Tuy nhiên để có thể hiểu được khái
niệm quyền tài sản thì trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm tài sản.
Tài sản là một khái niệm khá rộng mà định nghĩa pháp lý của nó không phải
lúc nào cũng được ghi nhận ở trong các văn bản pháp luật. Thông thường, BLDS
của các nước khác không nêu ra khái niệm về tài sản mà chúng ta có thể hiểu về tài
sản trong luật của họ thông qua các học thuyết pháp lý và các quy định gián tiếp.
Theo quan niệm của luật học latinh, tài sản được hiểu là một vật có giá trị tiền tệ, có
thể được nhận dạng theo hai cách:
Ở góc độ vật lý, tài sản thực sự là một vật. Tuỳ theo vật đó có thể được dịch chuyển
hay không, người ta phân biệt giữa động sản và bất động sản.
Ở góc độ pháp lý, tài sản được hình dung như một quyền. Tuỳ theo quyền đó có thể

được thực hiện một cách trực tiếp hoặc thông quan vai trò của một chủ thể khác,
người ta phân biệt giữa vật quyền và trái quyền. Do tính chất quan trọng của vật
quyền, đặc biệt do ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sống xã hội và giao lưu

16
dân sự nói riêng, người làm luật có xu hướng đòi hỏi vật quyền phải được luật ghi
nhận mới được coi là tồn tại hợp pháp và được bảo vệ. Cũng bằng phương pháp loại
suy, người ta nói rằng những tài sản không phải là vật quyền thì được gọi là trái
quyền. Theo thời gian có một loại quyền thứ ba, gắn với giá trị kinh tế của các công
trình tim óc như tác phẩm văn chương, khoa học, nghệ thuật gọi là quyền sở hữu trí
tuệ, đứng bên cạnh vật quyền và trái quyền như là một tài sản đặc thù [17].
Cách hiểu này được ghi nhận trong trường phái luật Châu Âu lục địa đó là
coi tài sản bao gồm: tài sản hữu hình là các vật và tài sản vô hình liên quan tới các
quyền. Điển hình cho cách quy định này là BLDS 1804 của Pháp. Bộ luật kinh điển
này không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản tuy nhiên tài sản được ghi
nhận trong Bộ luật này bao gồm hai loại là bất động sản và động sản (quyển thứ hai,
thiên 1 chương I nói về bất động sản và chương II nói về động sản). Trong thiên II
quyển thứ hai của Bộ luật này nói về quyền sở hữu đã ghi nhận cách phân loại khác
đó là tài sản bao gồm vật, các vật quyền và các tố quyền nhằm đòi lại tài sản. BLDS
Đức 1900 cũng không có định nghĩa cụ thể về tài sản nhưng xuyên suốt các quy
định của bộ luật này người ta có thể hiểu rằng tài sản theo nghĩa pháp lý không chỉ
là vật mà chủ yếu là các quyền.
Cách nhận thức về tài sản của các nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa
cũng khá tương đồng với các nước theo họ Pháp luật Anh - Mỹ. Các nước theo họ
pháp luật Anh – Mỹ cho rằng tài sản là một tập hợp các quyền trên vật có hiệu lực
chống lại những sự xâm hại của các chủ thể khác. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng, tài
sản là các quyền giữa mọi người có liên quan tới vật, hay nói cách khác, bao gồm
một hệ thống các quyền được thừa nhận về mặt pháp lý do ai đó thủ đắc trong mối
liên hệ với những người khác mà liên quan tới vật. Họ coi tài sản là “một mớ quyền”
(a bundle of rights) điều này có nghĩa là tài sản là một tập hợp các quyền trên vật có

hiệu lực chống lại những người khác. Sự chống lại hay quyền loại trừ được các luật
gia Hoa Kỳ xem là xương sống của tập hợp các quyền và diễn đạt ý tưởng về sự độc
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản [8].

17
Qua các phân tích nêu trên có thể nhận thấy rằng mặc dù có sự thể hiện khác
nhau tuy nhiên các hệ thống pháp luật trên thế giới có cách hiểu này khá tương đồng
với nhau về khái niệm pháp lý của tài sản. Tài sản chính là tổng hợp các quyền của
chủ thể có tài sản và đối kháng với các chủ thể khác. Các quyền đó được phân loại
theo các tiêu chí khác nhau và được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Tuy nhiên ở Việt Nam các luật gia lại có cách quy định khác về khái niệm tài
sản. Điều 163 BLDS 2005 có đưa ra khái niệm “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản.” Cách quy định này của BLDS 2005 thực chất chỉ mang
tính liệt kê những đối tượng nào được coi là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Mặc
dù khái niệm tài sản trong BLDS 2005 đã được sửa đổi một cách hợp lý hơn so với
BLDS 1995 tuy nhiên vẫn có nhiều tranh luận khác nhau về khái niệm này. Theo
quan niệm của luật Việt Nam hiện hành thì khái niệm tài sản bao gồm cả quyền tài
sản và quyền tài sản được coi là một loại tài sản cơ bản bên cạnh các loại tài sản
khác là vật, tiền và giấy tờ có giá. Chính vì quan niệm nội hàm khái niệm tài sản
trong các hệ thống pháp luật khác nhau là khác nhau nên cách hiểu về khái niệm
quyền tài sản trong các hệ thống pháp luật cũng có điểm khác biệt. Khái niệm quyền
tài sản là một khái niệm khá mới trong nền khoa học pháp lý ở nước ta nên cho đến
hiện nay trong giới nghiên cứu luật học ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những quan
điểm khác nhau về khái niệm quyền tài sản.
Hiện nay trong giới nghiên cứu luật ở Việt Nam, các chuyên gia đã đưa ra một số
quan điểm khác nhau về khái niệm quyền tài sản như sau:
Cách hiểu chính thống của các nhà làm luật Việt Nam về quyền tài sản được
ghi nhận tại điều 181 BLDS 2005 đó là “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.
Thực ra quy định tại Điều 181 BLDS 2005 chưa phải là khái niệm quyền tài sản mà

chỉ nêu ra hai yêu cầu cơ bản để một quyền được coi là quyền tài sản đó là phải trị
giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Việc nêu ra hai
yêu cầu cơ bản này của quyền tài sản nhằm mục đích phân biệt các quyền tài sản
với các quyền không mang tính tài sản.

18
Một quyền muốn được coi là tài sản thì trước hết quyền đó phải trị giá được
bằng tiền. Đây là đặc điểm nhằm phân biệt quyền tài sản với quyền nhân thân.
Quyền nhân thân được ghi nhận trong BLDS là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá
nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác (điều 24 BLDS 2005). Quyền nhân thân là các quyền liên quan đến giá trị tinh
thần và gắn liền với mỗi cá nhân, quyền nhân thân cũng là nội dung cơ bản của
phạm trù nhân quyền. Chính vì vậy quyền nhân thân không thể trị giá được bằng
tiền mà chỉ có các quyền tài sản mới có thể trị giá được bằng tiền. Giá trị của quyền
tài sản có được thông qua các hình thức pháp lý khác nhau như : thông qua hợp
đồng dân sự như quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê hoặc do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giao cho như quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản
hoặc thông qua hoạt động sáng tạo ra tác phẩm hoặc được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận quyền sở hữu công nghiệp Có một số quyền tài sản gắn
liền với yếu tố nhân thân như quyền tác giả và các quyền liên quan và trong một số
trường hợp yếu tố nhân thân ảnh hưởng lớn đến giá trị của quyền tài sản đó ví dụ
như tác phẩm của một họa sĩ nổi tiếng sẽ có giá trị lớn hơn rất nhiều so với tác
phẩm của một họa sĩ bình thường. Các quyền sở hữu trí tuệ là các quyền vô hình và
giá trị của các quyền đó có thể thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố khác nên việc định giá tài sản trí tuệ là rất khó.
Đặc tính cơ bản thứ hai của quyền tài sản theo quy định của pháp luật dân sự
hiện hành đó là quyền đó có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự. Điều này
có nghĩa quyền tài sản phải là quyền được tự do lưu thông trong các giao dịch dân
sự. Tuy nhiên với yêu cầu này của điều 181 BLDS 2005 thì còn nhiều loại quyền
mang tính chất tài sản có nghĩa là có thể được định giá bằng tiền nhưng không thể

tự do chuyển giao trong giao dịch dân sự như các quyền tài sản gắn liền với nhân
thân (quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế…) thì không phải là quyền tài
sản. Như vậy nội hàm của khái niệm quyền tài sản trong pháp luật Việt Nam dường
như có sự khác biệt so với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới. Ví dụ:
trong Luật về quyền tài sản của Trung Quốc được ban hành vào ngày 16 tháng 3

19
năm 2007 thì khái niệm quyền tài sản được ghi nhận như một loại quyền đối lập
hoàn toàn với quyền nhân thân đó chính là “quyền tài sản là quyền có thể được định
giá bằng tiền”. Khái niệm quyền tài sản trong Luật Trung Quốc có nội hàm rộng
hơn khái niệm đó trong luật Việt Nam vì còn bao gồm cả các quyền gắn với nhân
thân nhưng lại có tính cách tài sản.
Cũng theo quan điểm của các nhà làm luật thì thông qua định nghĩa tại điều
181 và các quy định khác của BLDS 2005, khác với vật (tài sản hữu hình) quyền tài
sản là tài sản vô hình. Để tồn tại với ý nghĩa là tài sản vô hình thì ngoài việc đáp
ứng được hai điều kiện được nêu ở điều 181, các tài sản vô hình còn phải có một số
đặc điểm sau [2, tr. 426]:
Đầu tiên, tài sản vô hình cần phải nhận dạng được. Việc nhận dạng tài sản vô
hình có thể thông qua một số chứng cứ hữu hình để có thể mô tả được loại tài sản
vô hình đó. Ví dụ: một sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa
học – công nghệ nếu mới chỉ hình thành trong ý nghĩ của người sáng tạo chúng thì
chưa được coi là tác phẩm và người có ý nghĩ đó chưa được bảo hộ quyền tác giả
mà ý nghĩ đó phải được thể hiện dưới một dạng vật chất nhất định thì mới được bảo
hộ (điều 737 BLDS 2005); hay các quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa thì quyền sở hữu các đối tượng này
được thể hiện bằng giấy chứng nhận do các cơ quan nhà nước cấp. Quyền sử dụng
đất hay quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề thể hiện ở giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và thỏa thuận sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được đăng ký
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các trái quyền được ghi nhận trong hợp đồng,
trong quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc một số loại quyền được

ghi nhận tại giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như là giấy phép khai
thác khoáng sản Đây là một điều kiện quan trọng để một quyền vô hình được coi
là tài sản vì nếu không thể nhận biết được thì pháp luật cũng như các chủ thể khác
không thể công nhận và tôn trọng quyền của chủ sở hữu đối với loại tài sản đó và
nếu không thể nhận biết được thì bản thân chủ sở hữu quyền tài sản đó cũng không
thể thực hiện quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình.

20
Tiêu chí thứ hai là phải nhận biết được thời điểm bắt đầu cũng như kết thúc
quyền tài sản đó. Việc nhận biết sự tồn tại của quyền tài sản cũng việc dựa trên các
bằng chứng, tài liệu xác nhận quyền tài sản như đã phân tích ở trên. Đối với các vật
quyền thì ngoài các căn cứ nói trên, ở một số nước có thiết lập hệ thống đăng ký các
vật quyền tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể quan tâm có thể biết được về sự tồn
tại của vật quyền đó.
Tiêu chí thứ ba là chủ sở hữu tài sản vô hình được pháp luật bảo vệ khi
quyền sở hữu bị xâm phạm thì chủ sở hữu cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi
thực hiện quyền sở hữu các loại tài sản vô hình này [58, tr. 51]. Thực ra đây là yếu
tố luật định mà không phải chỉ là đặc điểm riêng của quyền tài sản mà còn là đặc
điểm của tài sản nói chung.
Cách hiểu thứ hai về khái niệm quyền tài sản đó là “quyền tài sản hiểu theo
nghĩa rộng là quyền của các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện
hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một
nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình” [57, tr. 7]. Thông qua khái niệm quyền
tài sản nêu trên, chúng ta có thể hiểu quyền tài sản được thể hiện dưới hai dạng đó
là “quyền của các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử
sự đối với tài sản của mình” và “quyền yêu cầu người khác phải thực hiện một
nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình”. Tuy nhiên việc ghi nhận quyền tài sản
là “quyền của các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử
sự đối với tài sản của mình” khiến người ta có thể hiểu ngay đó là quyền sở hữu tuy
nhiên quyền tài sản không chỉ là quyền sở hữu mà còn bao gồm rất nhiều quyền đối

vật khác ví dụ như quyền hưởng dụng (quyền hưởng dụng là một vật quyền có thời
hạn trên tài sản của người khác), quyền địa dịch mà các quyền này không thực
hiện trên tài sản thuộc sở hữu của chính người đó mà được thực hiện trên tài sản của
người khác. Quyền sở hữu bản chất là một quyền tài sản tiêu biểu nhưng không thể
cấu thành khái niệm quyền tài sản một cách đầy đủ. Còn việc quy định quyền tài
sản là “quyền yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật
chất cho mình” đã nêu lên bản chất của các trái quyền, là quyền đối nhân. Như vậy

21
khái niệm quyền tài sản nêu trên chỉ bao gồm hai bộ phận cấu thành là quyền sở
hữu tài sản và quyền đối nhân mà thiếu đi sự ghi nhận của nhiều loại quyền tài sản
khác (các quyền đối vật khác ngoài quyền sở hữu và các quyền SHTT) do đó khái
niệm này chưa thật đầy đủ và chính xác.
Cách hiểu thứ ba về khái niệm quyền tài sản đó là quyền tài sản được hiểu là
cách cư xử của con người với nhau liên quan đến tài sản. “Trong quyền tài sản bao
giờ cũng có hàm ý tập trung quyền kiểm soát cho người này, giới hạn và loại trừ
quyền đó đối với người khác. Quyền tài sản được hiểu là tập hợp của rất nhiều
quyền và lợi ích cơ bản như quyền kiểm soát việc sử dụng tài sản, quyền thụ hưởng
lợi nhuận thu được từ việc sử dụng tài sản, các quyền chuyển nhượng, thế chấp tài
sản” [34]. Đây là cách hiểu về quyền tài sản có nội hàm khá rộng theo đó quyền tài
sản là khả năng của chủ thể thu được những lợi ích vật chất nhất định từ việc sử
dụng, khai thác quyền của mình và quyền đó hạn chế, loại trừ các chủ thể khác.
Cách hiểu này đặt quyền tài sản trong mối tương quan giữa các quan hệ xã hội chứ
không coi quyền tài sản là một loại tài sản đặt bên cạnh các loại tài sản khác như
quy định của BLDS 2005.
Sở dĩ còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về quyền tài sản là do BLDS
chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ và chính xác về quyền tài sản. “Có thể thấy rằng
khái niệm quyền tài sản được nêu tại điều 181 BLDS 2005 là một loại tài sản đối
lập với tài sản hữu hình và là một yếu tố có tác dụng đặt cơ sở cho việc xây dựng
một hệ thống phân loại tài sản đặc thù, bên cạnh các hệ thống phân loại kinh điển -

động sản và bất động sản, vật chính và vật phụ, Với cách quy định đó của BLDS
2005 quyền tài sản trở thành một khái niệm rất hẹp và không đủ tầm vóc để đảm
đương vai trò đối trọng với quyền nhân thân, là những quyền không có giá trị tài
sản, trong luật dân sự” [15]. Vậy thế nào là quyền tài sản và nội hàm của khái niệm
này được mở rộng đến đâu vẫn còn là một vấn đề lớn mà các nhà làm luật của Việt
Nam phải giải quyết.



22
1.1.2 Phân loại quyền tài sản
Hiện nay trong khoa học pháp lý ở Việt Nam tồn tại nhiều cách phân loại quyền tài
sản khác nhau dựa trên các tiêu chí khác nhau.
Cách phân loại thứ nhất dựa trên đặc điểm vật chất của đối tượng mang
quyền tài sản, người ta chia quyền tài sản thành bất động sản và động sản. Đây là
cách phân loại tài sản truyền thống trong lịch sử pháp luật của nhiều quốc gia và
được hình thành từ thời La Mã cổ đại. Việc phân biệt động sản và bất động sản đã
tạo lập hai chế độ pháp lý khác nhau đối với tài sản. Vì quyền tài sản cũng là tài sản
nên cũng có thể được phân loại thành động sản và bất động sản.
Luật Việt Nam hiện hành cũng phân chia tài sản thành động sản và bất động sản.
Tại Điều 174 BLDS 2005, các nhà làm luật đã liệt kê những tài sản được coi là bất
động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà,
công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định
Ngoài các bất động sản nêu trên thì tất cả các tài sản khác là động sản.
Căn cứ vào quy định nêu trên thì quyền tài sản có thể là bất động sản nếu rơi vào
hai trường hợp: thứ nhất là quyền tài sản đó gắn liền với đất đai; trường hợp thứ hai

là quyền tài sản là bất động sản khi pháp luật quy định. Theo đó các quyền tài sản là
bất động sản bao gồm: quyền sử dụng đất; quyền sở hữu nhà và các tài sản khác gắn
liền với đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất… Đây là các vật quyền có đối tượng
là bất động sản nên về các vật quyền này là bất động sản. Đây là các phân loại
quyền tài sản dựa trên bản chất đối tượng của quyền tài sản. Vì các trái quyền có đối
tượng không phải là vật mà là một nghĩa vụ nên việc phân loại các trái quyền là
động sản hay bất động sản trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên theo nguyên tắc thì các
trái quyền là động sản. Ở trường hợp trong quan hệ nghĩa vụ là quan hệ giữa chủ nợ
và con nợ đối với một khoản tiền thì điều này là hoàn toàn đúng vì tiền là động sản.

23
Nếu trái quyền không phải là quyền đòi nợ một khoản tiền mà là một nghĩa vụ cung
cấp dịch vụ thì trái quyền này cũng là động sản vì nếu bên có nghĩa vụ không thi
hành nghĩa vụ thì nghĩa vụ đó cũng sẽ chuyển thành một khoản tiền, bên có nghĩa
vụ phải bồi thường bằng tiền [47, tr. 108]. Theo luật của Pháp thì nghĩa vụ làm hoặc
không làm một việc luôn có tính chất động sản ngay cả trong trường hợp nghĩa vụ
có liên quan đến một bất động sản (ví dụ: quyền thuê nhà phát sinh từ hợp đồng
thuê nhà giữa chủ nhà và bên thuê nhà là một trái quyền có tính chất động sản vì đối
tượng của nó không phải là ngôi nhà mà là nghĩa vụ của chủ nhà phải cho bên thuê
nhà sử dụng ngôi nhà theo đúng thỏa thuận). Còn nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu có
thể có tính chất bất động sản nếu đối tượng là một bất động sản. Luật Việt nam chưa
giải quyết rõ vấn đề này nhưng có thể áp dụng các giải pháp trong luật của Pháp vì
không trái với tinh thần của luật Việt Nam: nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc,
nếu không thực hiện thì có thể trở thành nghĩa vụ bồi thường một khoản tiền do đó
là động sản còn nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu, nếu bên có nghĩa vụ không chuyển
quyền sở hữu thì bên được chuyển nhượng thực hiện đến cùng nhằm xác lập quyền
sở hữu của người này đối với động sản hoặc bất động sản là đối tượng của việc
chuyển quyền sở hữu đó [18, tr. 33].
Đối với các quyền tài sản là quyền sở hữu trí tuệ thì việc phân loại dựa trên nguyên
tắc loại trừ. Do đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ không phải là một vật cũng

không phải là một nghĩa vụ nên quyền sở hữu trí tuệ không thể là bất động sản do
có đối tượng là bất động sản và quyền sở hữu trí tuệ cũng không thuộc trường hợp
luật quy định là bất động sản do đó chúng ta có thể suy ra quyền sở hữu trí tuệ là
động sản. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng không nên phân loại quyền sở hữu
trí tuệ thành động sản hay bất động sản bởi tính chất đặc thù của nó nên cần phải
xem xét nó một cách độc lập bên cạnh các tài sản khác.
Cách phân loại thứ hai dựa trên tính chất quyền tài sản có thể chia quyền tài
sản thành 3 nhóm: quyền đối vật hay còn gọi là vật quyền, quyền đối nhân hay còn
gọi là trái quyền và quyền sở hữu trí tuệ (trước đây có cách gọi khác của quyền sở
hữu trí tuệ đó là quyền sở hữu vô hình). Cách phân loại này không được ghi nhận

24
trong luật thực định của Việt Nam mà được hình thành và phát triển trong khoa học
pháp lý. Theo cách hiểu truyền thống thì vật quyền là một quyền mà đối tượng là
một vật hữu hình, chính vì vậy mà nó được gọi là quyền đối vật. Vật quyền là một
khái niệm được xây dựng đối trọng với trái quyền và vật quyền và trái quyền cũng
là các công cụ phân loại tài sản giống như động sản và bất động sản. Đây là khái
niệm vật quyền trong cổ luật, tuy nhiên hiện nay đã hình thành các quan điểm khác
cho rằng cách hiểu về quyền đối vật phải được mở rộng bao gồm cả các quyền gắn
liền với những tài sản vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền tài sản phát sinh
từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền
khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền đối với phần vốn góp trong doanh
nghiệp [35, tr. 24]. Tuy nhiên cách hiểu mở rộng phạm vi nội hàm của vật quyền
như vậy chưa hẳn đã chính xác vì những quyền mà tác giả này nêu trên không phải
là quyền đối nhân mà cũng không được thực hiện trên một vật nào cụ thể như quyền
tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Trong khoa học pháp lý đã hình thành khái
niệm khác về vật quyền đó là “vật quyền được hiểu là quyền của một chủ thể đối
với một tài sản, cho phép chủ thể trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật
thừa nhận đối với một tài sản” [19]. Cách hiểu này bắt nguồn từ quan niệm về vật
quyền của các nước theo văn hóa pháp lý romano – germany. Quan niệm về vật

quyền như vậy tỏ ra khá đầy đủ và chính xác, phản ánh đúng bản chất của vật quyền
so với một loại quyền tài sản khác đó là trái quyền. Từ các phân tích trên ta có thể
thấy rằng bản thân khái niệm quyền đối vật hiện nay vẫn chưa được các nhà nghiên
cứu luật học thống nhất. Tuy nhiên theo quan điểm chung của các nhà nghiên cứu
luật học thì các quyền đối vật vẫn có thể được nhận biết dựa trên các đặc điểm sau:
Quyền đối vật được thực hiện trực tiếp trên đối tượng mà không cần có sự
tham gia của bên thứ ba. Quyền sở hữu là một vật quyền điển hình mà chủ sở hữu
tài sản có thể thực hiện quyền của mình trực tiếp trên tài sản (ở đây có sự đồng nhất
quyền sở hữu với chính đối tượng của nó). Kể cả các vật quyền được xác lập trên tài
sản của người khác thì chủ thể có quyền cũng có thể trực tiếp thực hiện quyền năng
của mình trên chính đối tượng đó mà không cần thông qua hành động của bên thứ

25
ba ví dụ quyền cầm cố, thế chấp Đây là đặc điểm để phân biệt quyền đối vật với
quyền đối nhân vì quyền đối nhân cũng có thể được xác lập liên quan đến tài sản
nhưng chủ thể có quyền không thể thực hiện quyền của mình trực tiếp trên tài sản
mà phải thông qua hành động của bên thứ ba.
Quyền đối vật là một quyền tuyệt đối nghĩa là nó có hiệu lực với tất cả mọi
người và buộc mọi người phải tôn trọng. Và để đối kháng với người thứ ba thì
người thứ ba phải nhận biết về sự tồn tại của vật quyền đó, chính vì vậy mà nhiều
quốc gia trên thế giới đã hình thành cơ chế đăng ký vật quyền để công khai cho tất
cả mọi người được biết.
Quyền đối vật có tính cách hạn định, có nghĩa là phải do luật quy định. Sở dĩ
quyền đối vật có đặc điểm này vì vật quyền cho phép người có quyền thực hiện
quyền năng trực tiếp trên vật mà không cần vai trò của người thứ ba nên sự can
thiệp của luật là cần thiết để đảm bảo ngăn ngừa tình trạng chiếm đoạt tài sản gây
mất trật tự, ổn định trong xã hội.
Để đảm bảo thực hiện quyền đối vật thì chủ thể của quyền đối vật có hai
quyền đặc biệt là đó là quyền truy tùy hay còn gọi là quyền theo đuổi và quyền ưu
tiên. Quyền theo đuổi được hiểu là người có quyền đối vật có thể thực hiện quyền

của mình đối với tài sản cho dù tài sản đó đang nằm trong tay của người thứ ba nào.
Ví dụ: chủ sở hữu tài sản có quyền kiện đòi lại tài sản của mình bị chiếm đoạt bất
hợp pháp kể cả khi tài sản đó đã được chuyển giao cho người thứ ba; người có
quyền về lối đi qua bất động sản liền kề có quyền sử dụng lối đi đó kể cả khi bất
động sản liền kề đó đã được chuyển giao cho người khác Quyền ưu tiên là quyền
của người có quyền đối vật có thể được ưu tiên thực hiện quyền đối với tài sản liên
quan hơn tất cả các chủ thể có quyền đối nhân hoặc chủ thể có quyền đối vật khác
(có thứ tự ưu tiên sau). Quyền này đặc biệt ý nghĩa trong trường hợp quyền đối vật
mang tính chất của một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như cầm cố, thế
chấp

26
Các vật quyền được biết đến trong đời sống thực tiễn tồn tại rất đa dạng do
đó để hiểu được bản chất của từng loại vật quyền thì người ta phải phân loại nó dựa
trên các tiêu chí khác nhau. Dựa vào tiêu chí đối tượng của vật quyền có thuộc
quyền sở hữu của người có quyền hay không, người ta phân loại vật quyền thành
quyền sở hữu (quyền trên tài sản của mình) và các vật quyền khác (quyền trên tài
sản của người khác). Quyền sở hữu là một vật quyền tuyệt đối và trọn vẹn nhất vì
đối tượng của quyền này thuộc về người có quyền. Dựa trên quyền sở hữu, chủ sở
hữu có độc quyền đối với tài sản từ việc nắm giữ, kiểm soát về mặt vật chất đối với
tài sản cũng như khai thác công năng kinh tế đồng thời có thể quyết định số phận
pháp lý của tài sản. Các quyền đối vật khác được hiểu là các quyền xác lập trên tài
sản của người khác hay còn được gọi là dịch quyền. Bản thân dịch quyền cũng có
thể được chia thành hai loại là dịch quyền thuộc người và dịch quyền thuộc vật.
Dịch quyền thuộc người là một quan hệ trong đó một tài sản gánh chịu dịch quyền
vì lợi ích của một người như quyền hưởng dụng, quyền ngụ cư, quyền thuê dài hạn,
quyền bề mặt…Dịch quyền thuộc vật hay còn gọi là địa dịch là quan hệ mà trong đó
một bất động sản gánh chịu dịch quyền vì một bất động sản khác [11, tr. 20].
Cách phân loại vật quyền thứ hai dựa trên tiêu chí tính chất tác động mà
người có quyền có thể thực hiện đối với vật là đối tượng của quyền, vật quyền được

chia thành hai nhóm là quyền đối vật chính và quyền đối vật phụ. Quyền đối vật
chính cho phép người có quyền thực hiện các hành vi giao tiếp vật chất hoặc pháp
lý tác động một cách trực tiếp lên tài sản ví dụ như quyền sở hữu, quyền sử dụng
hạn chế bất động sản liền kề, quyền sử dụng đất… Nhóm thứ hai là các quyền đối
vật phụ gồm các quyền có đối tượng là giá trị tiền tệ của tài sản. Gọi là phụ vì nó
không cho phép người có quyền khai thác lợi ích từ việc tác động lên tình trạng vật
chất của tài sản mà trong những trường hợp nhất định chỉ được khai thác giá trị tiền
tệ của tài sản để thỏa mãn nhu cầu thực hiện một nghĩa vụ cũng mang tính chất tiền
tệ theo nguyên tắc bảo đảm tương đương. Các quyền này được gắn với một quyền
chủ nợ nhằm tăng cường hiệu lực của quyền đó [19, tr. 40]. Về bản chất, quyền này
chính là quyền mang tài sản đi bảo đảm cho các khoản nợ như quyền cầm cố, thế

×