ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUANG HUY
SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUANG HUY
SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Quang Huy
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI NÓI ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
7
SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.
KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC
7
CƠ QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự
7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi
13
hành án dân sự
1.1.3. Ý nghĩa của sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án
17
dân sự
1.2.
CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA
19
CÁC CƠ QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.2.1. Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
19
nƣớc
1.2.2. Đảm bảo việc thực thi hiệu quả bản án, quyết định dân sự
20
1.2.3. Xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
21
đƣơng sự trong thi hành án dân sự
1.2.4. Xuất phát từ thực tiễn thi hành bản án, quyết định dân sự
1.3.
NỘI DUNG VÀ NGUYÊN TẮC PHỐI HỢP TRONG THI
22
23
HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.3.1. Nội dung phối hợp của các cơ quan trong thi hành dân sự
23
1.3.2. Nguyên tắc phối hợp trong thi hành án dân sự
25
1.4.
PHƢƠNG THỨC THỰC HIỆN SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC
27
CƠ QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.5.
ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ
29
QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.5.1. Các quy định của pháp luật về sự phối hợp giữa các cơ quan
29
trong thi hành án dân sự
1.5.2. Trình độ, năng lực chuyên môn, kiến thức xã hội, kỹ năng giao
30
tiếp và tác phong làm việc của chấp hành viên
1.5.3
Nhận thức của các cấp chính quyền và cơ quan hữu quan về
32
công tác thi hành án dân sự
1.6.
LƢỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
34
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ
QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.6.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1960
35
1.6.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1989
36
1.6.3. Giai đoạn từ 1989 đến 2008
38
1.6.4. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
40
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
43
HIỆN NAY VỀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1.
QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ
43
QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1.1. Quy định về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thi hành án
43
dân sự và cơ quan ra bản án, quyết định dân sự
2.1.2. Quy định về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thi hành án
46
dân sự và ủy ban nhân dân cấp xã
2.1.3. Quy định về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thi hành án
51
dân sự và cơ quan công an
2.1.4. Quy định về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thi hành án
56
dân sự và cơ quan chuyên môn
2.1.5. Quy định về trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan thi hành án
64
dân sự
2.2.
QUY ĐỊNH VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ KHI CÁC CƠ QUAN
69
KHÔNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM PHỐI HỢP TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.2.1. Đối tƣợng và hành vi vi phạm trách nhiệm phối hợp trong thi
69
hành án dân sự
2.2.2. Biện pháp xử lý hành vi vi phạm trách nhiệm phối hợp trong
71
thi hành án dân sự
2.2.3. Quy định về thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm trách nhiệm
76
phối hợp trong thi hành án dân sự
2.2.4. Thủ tục xử lý hành vi vi phạm trách nhiệm phối hợp trong thi
77
hành án dân sự
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ NHỮNG
82
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHỐI HỢP
GIỮA CÁC CƠ QUANTRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1.
THỰC TIỄN THỰC HIỆN SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ
82
QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1.1. Những kết quả đã đạt đƣợc
82
3.1.2. Những hạn chế, bất cập
90
3.1.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
102
3.2.
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
105
PHỐI HỢP TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.2.1. Các giải pháp chung
105
3.2.2. Các giải pháp cụ thể
111
KẾT LUẬN
117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
118
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH
: Bảo hiểm xã hội
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CHV
: Chấp hành viên
KBNN
: Kho bạc Nhà nƣớc
LTHADS
: Luật Thi hành án dân sự
NHNN
: Ngân hàng Nhà nƣớc
PLTHADS
: Pháp lệnh Thi hành án dân sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân Tối cao
TCTD
: Tổ chức tín dụng
THA
: Thi hành án
THADS
: Thi hành án dân sự
THAHS
: Thi hành án hình sự
UBND
: Ủy ban nhân dân
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
LỜI NÓI ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận:
"Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan,
tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành" [48, Điều 106]. Trật tự xã hội chỉ có thể đƣợc duy trì, quyền tƣ pháp
của Nhà nƣớc chỉ đƣợc thực hiện trọn vẹn, công lý đƣợc bảo vệ, công bằng xã hội
đƣợc đảm bảo khi phán quyết của cơ quan xét xử đƣợc thực thi nhanh chóng, đầy
đủ, chính xác trên thực tế. Một trong các cơ quan thực hiện nhiệm vụ đó là cơ quan
Thi hành án dân sự (THADS).
THADS có vai trò quan trọng trong hoạt động tƣ pháp nói chung và quá trình
giải quyết vụ án nói riêng, hoạt động THA là công đoạn làm cho bản án, quyết định
dân sự của Toà án, quyết định của cơ quan, tổ chức khác đƣợc nghiêm chỉnh chấp
hành. Kết quả của công tác THADS tác động trực tiếp đến việc bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và Nhà nƣớc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cƣờng hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Đặc biệt, trong bối cảnh nƣớc ta đang xây
dựng Nhà nƣớc Việt Nam pháp quyền Xã hội chủ nghĩa thì vai trò của hoạt động
THADS càng cần đƣợc chú trọng để việc quản lý xã hội bằng pháp luật thực sự có
hiệu quả.
Nâng cao hiệu quả hoạt động THADS là yêu cầu không mới nhƣng luôn nóng
trong suốt tiến trình lịch sử của hoạt động này, thực tiễn đã chứng minh hiệu quả
của hoạt động THADS chịu sự tác động tổng hòa của nhiều yếu tố; bên cạnh sự tác
động của tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, tại từng địa phƣơng, hay tính
hoàn thiện của pháp luật THADS thì việc thực hiện quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan trong THADS cũng là một yếu tố có tầm ảnh hƣởng lớn.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định về trách nhiệm phối hợp của các cơ
quan có liên quan tạo ra hành lang pháp lý cần thiết để hoạt động THADS diễn ra
1
thuận lợi, có hiệu quả. Tuy nhiên, việc thực hiện trách nhiệm phối hợp giữa các cơ
quan trong THADS vẫn luôn là câu chuyện đƣợc bàn đi bàn lại trên các diễn đàn
khoa học pháp lý, nhận đƣợc nhiều sự quan tâm từ những ngƣời làm công tác
THADS và các nhà nghiên cứu pháp luật bởi giữa quy định và thực tiễn thực hiện
sự phối hợp vẫn tồn tại một khoảng cách khá xa.
Bằng đề tài “Sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về sự phối
hợp trong THADS, đƣa ra các yêu cầu của công tác phối hợp và đem đến cho ngƣời
đọc cái nhìn toàn cảnh về thực tiễn thực hiện quan hệ phối hợp trong THADS ở
Việt Nam giai đoạn hiện nay, chỉ rõ và phân tích nguyên nhân của những vƣớng
mắc từ đó kiến nghị một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp
THADS trong thời gian tới.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong khoảng thời gian năm năm trở lại đây chứng kiến sự gia tăng đáng kể
các đề tài nghiên cứu về THADS, có thể kể đến các đề tài sau: "Biện pháp bảo đảm
THADS", Phan Huy Hiếu - Luận văn Thạc sĩ Luật học - Đại học Quốc Gia Hà Nội
2009; "Xác minh điều kiện THADS", Đinh Thanh Hƣơng - Luận văn Thạc sĩ luật
học - Đại học Quốc Gia Hà Nội 2010; "Biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài
sản của người phải THADS", Nguyễn Anh Tuấn - Luận văn Thạc sĩ Luật học - Đại
học Quốc Gia Hà Nội 2010; “Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong
THADS ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Tuấn An - Luận án Tiến sĩ Luật học – Đại
học Luật Hà Nội 2014; "Thủ tục THADS trước yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Bùi Thị Vân Anh - Luận văn Thạc sĩ Luật học
- Đại học Quốc Gia Hà Nội 2014; “Xã hội hóa THADS ở Việt Nam hiện nay”, Tạ
Quỳnh Anh - Luận văn Thạc sĩ luật học - Trƣờng Đại học Luật Hà Nội 2015.
Có thể thấy phần lớn các công trình nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá
hiệu quả công tác THA tại một số mảng hoạt động nhƣ: Các biện pháp bảo đảm
THA, các biện pháp cƣỡng chế THA, xác minh điều kiện THA, vấn đề xã hội hóa
THADS, hoạt động của Thừa phát lại .v.v.. Liên quan đến quan hệ phối hợp giữa
2
các cơ quan trong THADS, có thể kể đến các đề tài sau:
Đề tài “Mối quan hệ giữa các cơ quan trong THADS” - Luận văn Thạc sĩ Luật
học, tác giả Lê Thị Hồng Hạnh, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Đề tài trên đã thực
hiện từ năm 2008, thực tiễn THA và yêu cầu về việc thực hiện quan hệ phối hợp
giữa các cơ quan trong THADS đã có sự thay đổi nhất định, kết quả nghiên cứu cần
đƣợc bổ sung cho phù hợp với công tác THADS trong thời gian tới.
Đề tài “Nguyên tắc trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ
quan THADS, CHV” - Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả Lê Hồng Suy, Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội, 2013. Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là quan hệ phối hợp nhìn
nhận dƣới góc độ trách nhiệm từ phía các cơ quan, tổ chức hay cá nhân có liên quan
đối với hoạt động của cơ quan THADS, CHV. Trong khi đó, thực tiễn việc thực
hiện quan hệ phối hợp trong THADS đòi hỏi phải có cái nhìn đa chiều, nghĩa là cần
nhìn nhận và đánh giá trách nhiệm của các cơ quan hữu quan và cả trách nhiệm của
cơ quan THADS trong việc thực hiện sự phối hợp.
Đề tài “Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức
hữu quan trong THADS ở tỉnh Thanh Hóa” – Luận văn Thạc sĩ Luật học, tác giả Vi
Trọng Thụ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2015. Luận văn viết về mối
quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong THADS, tuy vậy phạm vi nghiên cứu của
luận văn bị bó hẹp trong thực tiễn thực hiện mối quan hệ phối hợp tại địa bàn một
địa phƣơng. Mặt khác, nội dung mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong
THADS đƣợc tác giả trình bày khá sơ lƣợc, chƣa làm rõ đƣợc lý do và bản chất của
từng mối quan hệ, kết quả nghiên cứu của luận văn cần đƣợc bổ sung thêm.
Ngoài ra, sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS còn là một phần nội
dung nghiên cứu đƣợc lồng ghép trong nhiều đề tài về thực tiễn công tác THADS
hay đƣợc đề cập đến trong các bài viết trên các Tạp chí, báo, diễn đàn pháp luật
nhƣng các bài viết này chỉ mới tập trung phân tích, đánh giá những quan hệ phối
hợp riêng rẽ, trong một số hoạt động cụ thể và chủ yếu dừng lại ở mục đích trao đổi
kinh nghiệm - nghiệp vụ, thiếu đi cái nhìn tổng quan về việc thực hiện quan hệ phối
hợp giữa các cơ quan trong THADS giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy việc thực hiện
3
đề tài: “Sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS theo pháp luật Việt Nam hiện
nay” là cần thiết.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về sự phối hợp giữa các cơ quan
trong THADS.
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành về sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS và những vƣớng mắc
trong quá trình áp dụng các quy định đó trong thực tiễn THADS;
- Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ
quan trong THADS.
Để đạt đƣợc những mục tiêu trên, luận văn đƣa ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về sự phối hợp giữa các cơ quan trong
THADS: Khái niệm, đặc điểm của sự phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động
THADS; nguyên tắc, nội dung và phƣơng thức thực hiện sự phối hợp; Nghiên cứu
lịch sử hình thành và phát triển các quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan trong
THADS;
- Sự cần thiết và những điều kiện đảm bảo hiệu quả công tác phối hợp trong
THADS;
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật về THADS tại Việt Nam hiện nay
liên quan đến việc thực hiện quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong THADS;
- Đề cập tới những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thực hiện quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan trong THADS, chỉ ra những nguyên nhân của những khó
khăn, vƣớng mắc này;
- Kiến nghị hƣớng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về THADS, đƣa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp giữa các cơ quan trong THADS
thời gian tới.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản; những quy
4
định của pháp luật THADS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về sự
phối hợp trong THADS.
Phạm vi nghiên cứu: Sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS là một vấn
đề nghiên cứu tƣơng đối lớn, có phạm vi nghiên cứu rộng nên có thể đƣợc nghiên
cứu dƣới nhiều phƣơng diện khác nhau và với nhiều nội dung khác nhau. Trong
phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu vào những nội dung
cơ bản nhƣ sau:
- Nghiên cứu quan hệ phối hợp giữa cơ quan trực tiếp tổ chức THADS gồm cơ
quan THADS cấp tỉnh (Cục THADS) và cơ quan THADS cấp huyện (Chi cục
THADS) với các cơ quan có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan
THADS. Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan THADS với các tổ chức có liên quan,
giữa cơ quan quản lý THADS (Bộ Tƣ pháp, Tổng cục THADS) với các cơ quan
cùng cấp quản lý lĩnh vực khác, giữa các cơ quan THADS trong quân đội và giữa
Thừa phát lại với cơ quan có liên quan đƣợc nghiên cứu trong một công trình khác.
Các “cơ quan” trong phạm vi nghiên cứu của luận văn là các cơ quan Nhà
nƣớc hoặc đơn vị chuyên môn thuộc cơ quan Nhà nƣớc.
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan trong THADS và đánh giá thực tiễn thực hiện sự phối
hợp này.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu
khác nhau, trong đó đặc biệt coi trọng các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác - Lê Nin
về nhà nƣớc và pháp quyền; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật;
- Phƣơng pháp phân tích quy phạm đƣợc sử dụng khi đánh giá chuyên sâu
những quy định của pháp luật THADS liên quan đến quan hệ phối hợp trong
THADS;
- Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng để khái quát chung về những vƣớng
mắc từ thực tiễn thực hiện quan hệ phối hợp trong THADS;
5
- Phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử hình
thành và phát triển các quy định pháp luật về sự phối hợp trong THADS qua các
thời kỳ ở Việt Nam;
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn sự
phối hợp trong THADS.
6. TÍNH MỚI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến phối hợp giữa các cơ quan trong THADS, thể hiện ở các nội dung cơ bản
sau đây:
- Cung cấp cho ngƣời đọc cái nhìn toàn diện về những vấn đề lý luận cơ bản
nhất về THADS, về quan hệ phối hợp trong THADS và thực tiễn việc thực hiện
quan hệ này trong giai đoạn hiện nay.
- Qua việc đánh giá hiệu quả công tác phối hợp trong THADS, luận văn đƣa ra
những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phối hợp THADS trong thời
gian tới.
- Luận văn có thể đƣợc sử dụng nhƣ một tài liệu tham khảo cho các công trình
nghiên cứu tiếp theo về các vấn đề có liên quan.
7. CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu 3 chƣơng, gồm:
- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sự phối hợp giữa các cơ quan
trong THADS.
- Chƣơng 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về sự phối hợp giữa
các cơ quan trong THADS.
- Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
phối hợp giữa các cơ quan trong THADS.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỰ
PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA SỰ PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ
QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự
Thuật ngữ “Thi hành án dân sự” từ lâu đã trở thành đề tài tranh luận sôi nổi
trên diễn đàn khoa học pháp lý. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Thi hành” đƣợc hiểu
là: "Làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định" [31, tr. 903];
“án” ở đây là bản án, quyết định, hay văn bản pháp lý thể hiện phán quyết của Tòa
án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Phán quyết của những cơ quan
này có thể có hoặc không mang tính quyền lực Nhà nƣớc nhƣng đều yêu cầu các
chủ thể của pháp luật phải tuân thủ đầy đủ. Tuy nhiên, không phải lúc nào phán
quyết của cơ quan giải quyết vụ việc cũng đƣợc bên có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp
hành bởi nó liên quan đến tính tự giác, thái độ, quyền lợi và khả năng thi hành của
những đối tƣợng này. Nếu không đƣợc thực thi thì tính áp đặt trong những phán
quyết này mới chỉ thể hiện trên văn bản giấy tờ, hay nói cách khác là những điều đã
đƣợc chính thức quyết định chƣa đƣợc làm cho có hiệu lực. Chính vì vậy “Thi hành
án” có thể hiểu là việc thực hiện để đảm bảo hiệu lực thực tế của Bản án, Quyết
định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay thì việc THA bao gồm
THADS và THAHS, cả hai hoạt động THA này đều là thực hiện các bản án, quyết
định trên thực tế nhƣng mỗi hoạt động lại có nét đặc trƣng riêng.
THAHS thể hiện quan hệ bất đối xứng giữa một bên là ngƣời phải THA và
một bên là quyền lực Nhà nƣớc, đƣợc đặc trƣng bởi hệ thống trại giam, trại tạm
giam, thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nƣớc lên cá nhân ngƣời phạm
tội, ngƣời phải THA phải thực hiện đúng các chế tài đã tuyên trong bản án hình sự,
không có quyền thỏa hiệp khi thi hành. Hoạt động THAHS tác động đến quyền
7
nhân thân của ngƣời phải THA, việc thi hành hình phạt tử hình, hình phạt tù, cấm đi
khỏi nơi cƣ trú … làm hạn chế quyền đƣợc đảm bảo an toàn về tính mạng, quyền tự
do đi lại, quyền tự do cƣ trú … của cá nhân ngƣời phạm tội. Mục đích của hoạt
động THAHS đó là giáo dục ngƣời phạm tội, thể hiện sự răn đe đối với toàn xã hội.
Đối tƣợng của THAHS là các bản án, quyết định của Tòa án đƣợc giải quyết theo
thủ tục tố tụng hình sự.
Khác với THAHS, THADS là việc thực thi nghĩa vụ dân sự của ngƣời phải
THA đối với ngƣời đƣợc THA theo nội dung bản án, quyết định dân sự. Bên đƣợc
THA có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức hay là Nhà nƣớc. Nội dung đƣa ra thi hành
tác động đến tài sản, quyền tài sản của ngƣời phải THA nhƣ việc nộp tiền án phí,
thanh toán trả nợ, buộc tháo dỡ công trình, hoàn trả tài sản ... Hoạt động THADS
nhằm khôi phục lại hiện trạng ban đầu, khắc phục hậu quả, bồi thƣờng thiệt hại do
hành vi vi phạm pháp luật gây ra, các bên đƣơng sự có quyền thỏa thuận THA.
Ở Việt Nam hiện nay, dƣới góc độ khoa học pháp lý vẫn còn có nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm THADS. Ý kiến thứ nhất cho rằng THADS là một
hoạt động của tố tụng dân sự [57, tr. 11]. Ý kiến thứ hai cho rằng THADS là một
dạng của hoạt động hành chính. Ý kiến thứ ba cho rằng THA là một dạng hoạt động
hành chính - tƣ pháp vì THADS là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành
quyết định của Tòa án - cơ quan tƣ pháp [58, tr. 10].
Đối với quan điểm thứ nhất cho rằng THADS là một hoạt động của tố tụng
dân sự, quan điểm này chỉ ra rằng THADS là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng,
kế tiếp sau quá trình xét xử của Tòa án và thuần túy mang tính tƣ pháp. Quá trình tổ
chức thi hành bản án, quyết định gắn chặt với vai trò của Tòa án thể hiện ở việc Tòa
án có trách nhiệm đảm bảo bản án, quyết định có tính khả thi khi thi hành, giải thích
những điểm tuyên chƣa rõ, khắc phục những sai sót, xem xét lại bản án khi có kiến
nghị của cơ quan THADS.
Quan điểm thứ hai cho rằng THADS là một dạng hoạt động hành chính, theo
quan điểm này quá trình tố tụng đã kết thúc từ khi Tòa án nhân danh Nhà nƣớc ra
phán quyết cuối cùng giải quyết vụ việc, Tòa án đã xác định rõ quyền lợi và nghĩa
8
vụ của các bên còn THA là giai đoạn hoàn toàn khác. Quan điểm này cho rằng THA
không còn là giai đoạn tố tụng bởi THA có mục đích khác với mục đích của tố tụng,
tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của vụ việc đã diễn ra trên thực tế, giải quyết vụ
việc thông qua các quy định của pháp luật, còn THA là quá trình thực thi những
điều đã đƣợc phân xử trong bản án, quyết định. Những học giả theo quan điểm này
cho rằng THADS là một dạng của hoạt động hành chính bởi THADS là hoạt động
mang tính điều hành và chấp hành mà điều hành và chấp hành là đặc trƣng của hoạt
động hành chính. Mặt khác, THADS ở nƣớc ta lại không do Tòa án - một cơ quan
tƣ pháp tổ chức thực hiện.
Hạn chế lớn nhất của cả hai quan điểm trên là đều tuyệt đối hóa tính hành
chính và tính tƣ pháp của hoạt động THADS. Tác giả của luận văn đồng tình hơn cả
với quan điểm thứ ba coi THADS là một dạng hoạt động hành chính - tƣ pháp.
THADS trƣớc hết là một hoạt động tƣ pháp bởi thực tế là ở Việt Nam đã từng có
giai đoạn cơ quan THADS đƣợc tổ chức nằm trong Tòa án và trên thế giới hiện nay
tại một số quốc gia cơ quan THADS vẫn đƣợc tổ chức thuộc Tòa án với nhiệm vụ là
thực thi, chấp hành phán quyết của Tòa án mà Tòa án là một cơ quan Tƣ pháp.
THADS đồng thời cũng là một dạng hoạt động hành chính bởi việc THA đƣợc tổ
chức, điều hành theo những trình tự, thủ tục mang tính hành chính đã đƣợc pháp
luật quy định để nhằm mục đích cuối cùng đó là chấp hành nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật, đảm bảo hiệu lực thực tế của những quy định này.
Mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến tranh luận và mỗi quan điểm đều thể hiện
tính hợp lý riêng nhƣng cũng cần nhận thấy rằng dù THADS đƣợc hiểu dƣới góc độ
nào thì bản chất của THADS cũng không hề thay đổi đó là việc thực thi theo nội
dung phán quyết của bản án, quyết định dân sự.
Hoạt động THADS có những đặc điểm cơ bản sau:
- Bản chất của hoạt động THADS là thi hành phán quyết được tuyên trong bản
án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền giải quyết, không phải là việc giải quyết
lại nội dung vụ việc.
Về mặt nguyên tắc, trong quá trình giải quyết vụ việc tại Tòa án, cơ quan, tổ
9
chức có thẩm quyền thì các cơ quan, tổ chức này căn cứ vào chứng cứ và các quy
định của pháp luật để ra phán quyết xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Còn
khi cơ quan THADS thực hiện nhiệm vụ không phải giải quyết lại nội dung vụ việc
mà cơ quan THADS yêu cầu các đƣơng sự thực hiện nghiêm chỉnh các quyền và
nghĩa vụ đƣợc ấn định trong bản án, quyết định dân sự đồng thời phổ biến cho
đƣơng sự biết các quy định pháp luật có liên quan. Trong quá trình thi hành vụ việc,
cơ quan THADS nếu phát hiện sai sót của cơ quan ra bản án, quyết định dân sự
trong việc áp dụng pháp luật có thể kiến nghị những cơ quan này kịp thời sửa chữa,
bổ sung từ đó có căn cứ cho việc giải quyết THA tiếp theo.
- Chủ thể tổ chức thực hiện hoạt động THADS là cơ quan, tổ chức THADS mà
cụ thể là các Chấp hành viên hoặc các Thừa phát lại.
Việc THADS ảnh hƣởng trực tiếp đến tài sản, quyền nhân thân của các đƣơng
sự và những ngƣời có liên quan nên để đảm bảo việc THA đạt hiệu quả, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự và những ngƣời có liên quan thì việc
THADS phải do cơ quan nhà nƣớc chuyên trách thực hiện - cơ quan THADS. Tuy
nhiên, để việc THADS đƣợc nhanh chóng, đạt hiệu quả cao cũng nhƣ huy động các
nguồn lực trong xã hội thì một số công việc THADS đƣợc chuyển giao cho các cá
nhân, tổ chức tƣ nhân thực hiện – đó chính là các Thừa phát lại.
- Đối tượng của THADS là các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, quyết
định của Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh, cụ thể:
+ Bản án, quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao
động;
+ Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý
vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự;
+ Phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án;
+ Bản án, quyết định dân sự của Toà án nƣớc ngoài, quyết định của Trọng tài
nƣớc ngoài đã đƣợc Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
+ Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải
THA của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh;
10
+ Quyết định của Trọng tài thƣơng mại;
+ Quyết định Tòa án giải quyết phá sản.
Tuy nhiên, các bản án, quyết định dân sự nói trên để đƣợc đƣa ra thi hành theo
thủ tục THADS thì phải là các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc các
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật nhƣng đƣợc
thi hành ngay theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy đối tƣợng của hoạt động THADS có phạm vi rộng hơn đối tƣợng
của hoạt động THAHS. Nếu nhƣ đối tƣợng của hoạt động THAHS chỉ có những vụ
việc đƣợc giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự thì đối tƣợng của hoạt động
THADS gồm cả những vụ việc giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự, dân sự, hành
chính, thủ tục phá sản của Tòa án, Trọng tài thƣơng mại và Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh.
- THADS là hoạt động có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức.
Bên cạnh các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan
công an còn có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nƣớc về đất đai, tài chính,
các tổ chức tín dụng – ngân hàng, cơ quan – đơn vị nơi ngƣời phải THA làm việc
… Sự tham gia đông đảo của các cơ quan hữu quan trong THADS xuất phát từ tính
phức tạp của công tác này. THADS là giai đoạn có tác động đến lợi ích của nhiều
cơ quan, tổ chức, cá nhân, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội. Do vậy, sự tham gia đầy đủ, tích cực của các chủ thể có liên quan đƣợc xem là
một yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến hiệu quả việc THA.
Mặc dù có sự tham gia của nhiều cơ quan nhƣng cơ quan THADS giữ vị trí
trung tâm, là cơ quan trực tiếp tổ chức THA vì vậy cơ quan THADS phải thể hiện
đƣợc vai trò của cơ quan đầu mối công việc, chủ trì thực hiện sự phối hợp. CHV
cần đề cao sự chủ động trong sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức hay cá nhân có
liên quan để nhận đƣợc sự hỗ trợ từ phía các cơ quan, tổ chức này.
- Hoạt động THADS được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc nhất định và
theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật THADS quy định.
Hoạt động THADS bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của cơ quan THADS,
11
Viện kiểm sát, Tòa án, Trọng tài thƣơng mại, Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh,
đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến
THA… Do đó, để hoạt động THADS đƣợc diễn ra một cách minh bạch, khách quan
thì hoạt động THADS phải thực hiện theo đúng các nguyên tắc và trình tự, thủ tục
mà pháp luật quy định.
- THADS là hoạt động kết hợp và sử dụng linh hoạt nhiều biện pháp khi tổ
chức thi hành.
Mặc dù CHV khi thực hiện nhiệm vụ nhân danh và sử dụng quyền lực Nhà
nƣớc buộc các cơ quan, tổ chức hay cá nhân phải nghiêm chỉnh thi hành nội dung
phán quyết của cơ quan, tổ chức giải quyết vụ việc nhƣng quá trình tổ chức THA
đòi hỏi phải vận dụng linh hoạt các biện pháp giáo dục - thuyết phục, cƣỡng chế.
CHV phải luôn coi giáo dục – thuyết phục đƣơng sự tự nguyện THA là biện pháp
ƣu tiên hàng đầu, việc tổ chức cƣỡng chế là giải pháp cuối cùng và nếu vận dụng
tùy tiện dễ gây ra phản ứng chống đối mạnh từ phía đƣơng sự, tạo dƣ luận xã hội
tiêu cực.
- THADS là hoạt động mang tính thực tiễn, vô cùng phức tạp, chịu sự chi phối
của điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và tại từng địa phương khác
nhau.
Hoạt động THADS liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, cá
nhân, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội và ảnh hƣởng tới lợi ích của
nhiều thành phần xã hội. Đặc trƣng này của hoạt động THADS dẫn đến yêu cầu đó
là các CHV và cán bộ làm công tác THADS phải có kiến thức xã hội sâu rộng, nắm
bắt đƣợc đặc điểm xã hội từng vùng miền, địa phƣơng cụ thể để vận dụng vào công
tác, hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao. Cũng xuất phát từ đặc điểm này mà yêu cầu về
sự phối hợp giữa cơ quan THADS và các cơ quan có liên quan là một yêu cầu mang
tính khách quan, tất yếu.
Nhƣ vậy, Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính tư pháp mà trong đó cơ
quan, tổ chức THA đưa ra thi hành và đảm bảo hiệu lực thực tế của bản án, quyết
định dân sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ và khôi phục
12
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành
án dân sự
1.1.2.1. Khái niệm sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án dân sự
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “phối hợp” là “cùng hành động hoặc hoạt động
hỗ trợ lẫn nhau” [31, tr. 759]. Nhƣ vậy, theo nghĩa chung nhất thì phối hợp THADS
là sự tham gia và hỗ trợ lẫn nhau cùng thực hiện nhiệm vụ của nhiều chủ thể khi
thực hiện việc thi hành các bản án, quyết định dân sự.
Dƣới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm về sự phối hợp giữa các cơ quan
trong THADS cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất, tác giả Vi Trọng Thụ cho rằng, mối quan hệ phối hợp
giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong THADS là việc cơ
quan THADS chủ động liên hệ, đề nghị, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan hỗ
trợ cơ quan THADS trong việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo
trình tự, thủ tục nhất định, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được thi
hành” [63, tr. 11, 12].
Quan điểm thứ hai, tác giả Lê Thị Hồng Hạnh cho rằng, mối quan hệ giữa các
cơ quan trong THADS là cơ chế phối hợp thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cơ
quan có liên quan trong lĩnh vực THADS nhằm thực hiện nghiêm chỉnh triệt để,
nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án [34, tr. 20, 21].
Quan điểm thứ ba, tác giả Lê Hồng Suy cho rằng, các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải hỗ trợ thực hiện các yêu
cầu của cơ quan THADS, CHV trong việc giải quyết THADS [33, tr. 11].
Các quan điểm về sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS nêu trên đều có
điểm chung đó là việc nhận định tất cả các chủ thể tham gia phối hợp đều bị quy
định và chịu sự ràng buộc của yếu tố mục đích, mục đích sự phối hợp giữa các cơ
quan trong THADS hƣớng tới chính là bản án, quyết định dân sự sau khi ban hành
phải đƣợc thực thi trên thực tế.
13
Tuy nhiên, quan điểm thứ nhất có những điểm chƣa hợp lý: Thứ nhất, thực tế
công tác THADS đã chỉ ra rằng sự chủ động trong việc thực hiện sự phối hợp trƣớc
tiên thuộc về cơ quan THADS, nhƣng cũng có nhiều nội dung phối hợp mà sự chủ
động thuộc về các cơ quan, tổ chức hữu quan, chẳng hạn trong phối hợp chuyển
giao bản án, quyết định thì sự chủ động thuộc về cơ quan ra bản án, quyết định; sự
chủ động trong công tác giao nhận vật chứng thuộc về cơ quan công an. Thứ hai,
cần phải thấy rằng trong sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS hiện nay thì
mối quan hệ phối hợp ở đây là mối quan hệ đa chiều, tức là trách nhiệm phối hợp
không chỉ đơn thuần từ phía các cơ quan, tổ chức hữu quan mà còn có cả trách
nhiệm của cả cơ quan THADS. Thứ ba, đối tƣợng của hoạt động THADS hiện nay
gồm các bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài thƣơng mại và Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Do vậy, nếu cho rằng sự phối hợp giữa các cơ quan
trong THADS chỉ để “bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được thi hành”
là chƣa hoàn toàn chính xác.
Đối với quan điểm thứ hai, tác giả của luận văn đồng tình với nhận định mối
quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong THADS là việc thực hiện chức năng
nhiệm vụ của các cơ quan có liên quan đến hoạt động THADS. Tuy vậy, cũng
giống nhƣ quan điểm thứ nhất, quan điểm thứ hai cũng có điểm hạn chế đó là việc
làm “hẹp” đi phạm vi thẩm quyền của cơ quan THADS khi cho rằng hoạt động
THA nhằm thực hiện có hiệu quả “bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án” trong khi đó ngay từ PLTHADS năm 2004 tại Điều 2 đã quy định những
bản án, quyết định dân sự đƣợc cơ quan THADS tổ chức thi hành còn có quyết định
của Trọng tài thƣơng mại Việt Nam.
Quan điểm thứ ba rất phù hợp với đề tài mà tác giả đã lựa chọn là “Nguyên tắc
trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS, CHV”.
Tuy nhiên quan điểm này đã vô tình đánh mất đi tính chủ động trong việc thực hiện
trách nhiệm phối hợp từ phía các cơ quan hữu quan đối với cơ quan THADS khi
cho rằng “sự hỗ trợ” chỉ phát sinh khi có “yêu cầu” từ cơ quan THADS và CHV.
Nhƣ đã phân tích ở quan điểm thứ nhất, trong nhiều nội dung phối hợp thì sự chủ
14
động trƣớc tiên thuộc về phía các cơ quan hữu quan, trách nhiệm phối hợp của các
cơ quan này tự động phát sinh khi có đủ căn cứ do pháp luật quy định, chẳng hạn cơ
quan Công an có trách nhiệm chuyển vật chứng sang cơ quan THADS khi có quyết
định chuyển vật chứng của VKSND [62, Mục 21.2], bởi vậy nếu cho rằng trách
nhiệm phối hợp chỉ phát sinh khi có “yêu cầu” từ phía cơ quan THADS và CHV là
không chính xác.
Nhƣ vậy, sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS được hiểu là sự tham
gia và hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan có liên quan đến việc THA, trong đó mỗi
cơ quan thực hiện trách nhiệm của mình, cùng nhau thực hiện công việc để hướng
tới mục đích cuối cùng đó là thực thi phán quyết của cơ quan, tổ chức ra bản án,
quyết định dân sự, đảm bảo công lý được thực thi, công bằng và trật tự xã hội được
duy trì.
1.1.2.2. Đặc điểm của sự phối hợp trong thi hành án dân sự
- Bản chất của sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS là trách nhiệm của
các cơ quan có liên quan đến việc THADS hỗ trợ lẫn nhau trong việc thi hành các
bản án, quyết định dân sự.
Pháp luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan có liên
quan tùy thuộc vào vị trí, vai trò của cơ quan đó trong công tác THADS, điều này
thể hiện sự chuyên môn hóa trong phân công nhiệm vụ. Ví dụ: Cơ quan Công an có
trách nhiệm bảo đảm sự an toàn cho hoạt động THADS; UBND cấp xã có trách
nhiệm hỗ trợ cơ quan THADS xác minh, vận động ngƣời phải THA tự nguyện thi
hành.
Về phía cơ quan THADS, khi thực hiện sự phối hợp CHV cần có cái nhìn đa
chiều về vị trí, vai trò của các cơ quan tham gia phối hợp, cơ quan THADS là bên
có yêu cầu phối hợp cần có sự chủ động liên hệ làm việc, xây dựng kế hoạch làm
việc cụ thể trƣớc khi đề nghị các cơ quan có liên quan tham gia.
Hiệu quả của sự phối hợp phụ thuộc vào việc các cơ quan thực hiện trách
nhiệm của mình đến đâu, chẳng hạn: cơ quan Công an không cử lực lƣợng tham gia
bảo vệ cƣỡng chế, buổi cƣỡng chế gặp sự chống đối quyết liệt từ gia đình đƣơng sự
15
dẫn đến việc cƣỡng chế không thành công.
- Tùy từng hoạt động THADS mà mức độ, phạm vi phối hợp và số lượng các
cơ quan tham gia là khác nhau.
Ví dụ: Trong hoạt động xác minh điều kiện THA thì cơ quan THADS cần sự
phối hợp của UBND cấp xã hoặc cơ quan chuyên môn; Trong hoạt động cƣỡng chế
THA thì cần sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan từ UBND cấp xã, cơ quan
Công an, cơ quan chuyên môn quản lý về đất đai, xây dựng …
Số lƣợng các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động THADS ít hay
nhiều phụ thuộc vào mức độ phức tạp của việc THA do vậy khi đƣợc phân công
nhiệm vụ tổ chức thi hành vụ việc CHV cần có sự nghiên cứu kỹ lƣỡng hồ sơ và
yêu cầu của việc THA để xây dựng kế hoạch phối hợp thực hiện, phối hợp với cơ
quan nào và nội dung phối hợp là gì do CHV chủ động quyết định.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS không bị giới hạn trong thời
gian cơ quan THADS giải quyết một vụ việc cụ thể.
Xuất phát từ bản chất của sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS đó là
việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan đối với công tác THADS, trách nhiệm
phối hợp có thể nảy sinh trƣớc khi cơ quan THADS thụ lý giải quyết vụ việc hoặc
sau khi việc THA đã kết thúc, ví dụ: Cơ quan Cảnh sát điều tra và cơ quan THADS
phối hợp chuyển giao vật chứng trƣớc thời điểm cơ quan THADS thụ lý giải quyết
vụ việc; Các cơ sở giam giữ của cơ quan Công an có thể phối hợp với cơ quan
THADS trong thực hiện thủ tục hồ sơ xét đặc xá, giảm án phạt tù cho ngƣời phải
THA là ngƣời đang chấp hành hình phạt tù dù việc THADS đã kết thúc. Nhƣ vậy có
thể thấy sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS không hề bị “bó hẹp” trong
thời gian cơ quan THA giải quyết một vụ việc cụ thể.
- Các cơ quan có liên quan đến việc THADS không thực hiện trách nhiệm phối
hợp trong THADS phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
Trách nhiệm là những việc phải làm, những điều phải thực hiện, đƣợc phân
công theo chức trách của mỗi cơ quan và đảm bảo phải hoàn thành. Khi một cơ
quan đƣợc pháp luật quy định trách nhiệm tham gia phối hợp với cơ quan THADS
16
đồng nghĩa với việc cơ quan đó phải thực hiện những điều, những công việc nhất
định cùng cơ quan THADS hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.
Nếu một cơ quan từ chối thực hiện trách nhiệm, thực hiện không đúng hoặc
thực hiện không đầy đủ trách nhiệm phối hợp trong THADS làm ảnh hƣởng đến kết
quả việc THA thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật. Trách nhiệm
trƣớc pháp luật ở đây đƣợc hiểu là việc cơ quan không thực hiện đúng trách nhiệm
phối hợp THADS sẽ bị xử lý theo những biện pháp đã đƣợc pháp luật quy định,
phải chịu những hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm đem lại. Việc quy định trách
nhiệm pháp lý đối với các cơ quan tham gia phối hợp THADS nhằm mục đích ràng
buộc, răn đe, phòng ngừa việc các chủ thể này chối bỏ trách nhiệm, đảm bảo cho
các quy định về sự phối hợp đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh.
1.1.3. Ý nghĩa của sự phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án dân sự
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS góp phần nâng cao hiệu quả tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [48, Điều 2]. Phân công quyền lực nhà nƣớc
không phải là sự thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực mà mục đích của nó là tránh việc
tập trung quyền lực vào một chủ thể dẫn đến chuyên quyền, độc đoán. Mỗi hệ thống
cơ quan đƣợc giao một nhánh quyền lực, thực hiện quản lý chuyên sâu một lĩnh vực
nhƣng sự độc lập trong hoạt động của các cơ quan chỉ có tính chất tƣơng đối bởi
giữa các lĩnh vực, các mảng hoạt động vẫn có sự giao thoa nhất định. Hơn nữa, mặc
dù có sự phân công nhƣng mục đích cuối cùng của việc phân công quyền lực là
thực hiện có hiệu quả quyền lực nhà nƣớc để quản lý nhà nƣớc và xã hội. Do vậy
yêu cầu đặt ra là các cơ quan phải liên kết, phối hợp để cùng thực hiện nhiệm vụ
chung. Sự phối hợp giữa các cơ quan diễn ra đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội trong đó bao gồm cả công tác THADS, chính vì vậy thực hiện
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan trong THADS cũng góp phần nâng cao
hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc.
17
- Thực hiện trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan trong THADS là điều kiện
đảm bảo việc THADS được thực hiện một cách liên tục.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay thì cơ quan THADS đƣợc độc
lập trong tổ chức và hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự. Các CHV đƣợc
chủ động trong việc THA. Sau khi đƣợc phân công nhiệm vụ, CHV tổ chức THA
theo những trình tự, thủ tục luật định nối tiếp nhau về mặt thời gian. Tuy nhiên,
trong quá trình THADS chỉ cần một cơ quan không thực hiện trách nhiệm phối hợp
hoặc chậm thực hiện trách nhiệm phối hợp đều đƣa đến hệ quả là sự ngắt quãng của
quá trình tổ chức THA, kéo dài thời gian, thậm chí đình trệ không thể THA đƣợc.
Vì vậy, sẽ không sai khi nói rằng nếu không nhận đƣợc sự phối hợp, hỗ trợ từ phía
các cơ quan hữu quan thì hoạt động của cơ quan THADS từ chỗ độc lập sẽ trở thành
phụ thuộc còn sự chủ động của CHV sẽ biến thành sự bị động.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS nhằm nâng cao hiệu quả công
tác THADS.
Sự tham gia phối hợp của các cơ quan mới là điều kiện cần, mức độ thực hiện
trách nhiệm phối hợp đến đâu mới là điều kiện đủ để đem lại hiệu quả cho công tác
THADS. Thực tiễn công tác THADS đã chứng minh: Ở đâu các cơ quan thực hiện
đúng, thực hiện đầy đủ trách nhiệm, thực hiện sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng thì
công tác THADS đạt kết quả tốt; ngƣợc lại ở đâu trách nhiệm phối hợp không đƣợc
thực hiện đầy đủ, thực hiện thiếu sự đồng bộ, nhịp nhàng thì hiệu quả THADS đạt
đƣợc thấp.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong THADS nhằm thực hiện bản án, quyết
định dân sự, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được
thực hiện trên thực tế
Phán quyết của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết vụ việc là sự vận
dụng các quy định của pháp luật để đem lại sự công bằng về quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị hành vi trái pháp luật xâm hại. Tuy nhiên sự
công bằng này mới chỉ tồn tại trên giấy tờ trong khi đó các quyền và lợi ích bị xâm
hại là những gì đã diễn ra trên thực tế. Nhiệm vụ của cơ quan THADS và các cơ
18