Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.56 KB, 95 trang )







LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thị Minh













MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


mở đầu
1

Chương 1: những vấn đề lý luận cơ bản về điều tra trong tố tụng hình sự
5
1.1.
Khái niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc, yêu cầu của hoạt động điều
tra trong tố tụng hình sự
5
1.1.1.
Khái niệm
5
1.1.2.
Nhiệm vụ

6
1.1.3.
Nguyên tắc của hoạt động điều tra
8
1.1.4.
Yêu cầu của hoạt động điều tra vụ án hình sự
11
1.2.
Các biện pháp điều tra
14
1.3.
Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện
pháp điều tra trong tố tụng hình sự
16
1.3.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1989
16
1.3.2.
Từ năm 1989 đến năm 2003
19
1.3.3.
Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
21

Chương 2: quy định của luật tố tụng hình sự việt nam về các biện pháp
điều tra
25
2.1.
Khởi tố bị can và hỏi cung bị can
25

2.1.1.
Khởi tố bị can
25
2.1.2.
Hỏi cung bị can
26
2.2.
Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
31
2.2.1.
Lấy lời khai người làm chứng
31
2.2.2.
Lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
36


sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
2.3.
Đối chất
36
2.4.
Nhận dạng
39
2.5.
Khám xét
43
2.5.1.
Khám người

46
2.5.2.
Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm
47
2.5.3.
Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại
bưu điện
48
2.6.
Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu
vết trên thân thể
50
2.6.1.
Khám nghiệm hiện trường
50
2.6.2.
Khám nghiệm tử thi
53
2.6.3.
Xem xét dấu vết trên thân thể
55
2.7.
Thực nghiệm điều tra
56
2.8.
Trưng cầu giám định
58
2.8.1.
Việc tiến hành giám định
63

2.8.2.
Nội dung kết luận giám định
64
2.8.3.
Giám định bổ sung hoặc giám định lại
65

Chương 3: giải pháp nâng cao hiệu quả các biện pháp điều tra trong tố
tụng hình sự
66
3.1.
Dự báo tình hình tội phạm và những yêu cầu đối với công tác
điều tra trong giai đoạn mới
66
3.2.
Những giải pháp
70
3.2.1.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự, đặc biệt là
pháp luật về điều tra trong tố tụng hình sự
70
3.2.2.
Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác điều tra
73

kết luận
81

danh mục tài liệu tham khảo
84




1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật tố tụng hình sự được ban hành nhằm đảm bảo việc đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Ý nghĩa đó được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng ở giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Để đạt được mục đích đó, Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người
tiến hành tố tụng (gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước, các tổ chức xã
hội và công dân) nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Trong quá trình đổi mới đất nước, do tác động của mặt trái nền kinh tế
thị trường, của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình tội phạm ở nước ta
trong thời gian vừa qua và trong những năm tới đang và sẽ diễn biến rất phức
tạp, chưa có chiều hướng giảm. Tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt về thủ
đoạn, phương thức và ngày càng nghiêm trọng về tính chất, mức độ nguy
hiểm. Điều tra là một hoạt động trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm
xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Công
tác điều tra rất quan trọng, điều tra đúng là cơ sở để xét xử đúng; điều tra sai
là sai ngay từ bước đầu, dễ dẫn tới xét xử sai, vi phạm nghiêm trọng tới
quyền, lợi ích của công dân.
Ngày 17/3/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số
388/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, đã nhận được sự hưởng
ứng đồng tình từ phía đông đảo nhân dân. Điều này không chỉ có ý nghĩa lớn
đối với những người bị oan sai mà còn ảnh hưởng lớn tới tâm lý của tất cả

mọi người, tạo cho người dân yên tâm, tin tưởng hơn nữa vào chính sách pháp
luật của Nhà nước ta. Đồng thời, Nghị quyết này còn đặt ra một thách thức,


2
yêu cầu lớn cho những người tiến hành tố tụng. Họ phải thận trọng, tỷ mỷ
trong hoạt động của mình để tránh gây ra tổn thất về tinh thần cũng như vật
chất cho những người tham gia tố tụng. Muốn như vậy, ngay từ bước điều tra
ban đầu cần phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, yêu cầu trình độ
chuyên môn cao, làm việc một cách khách quan và hoàn toàn phục vụ vì công
lý.
Điều tra trong tố tụng hình sự là giai đoạn đầu tiên có vai trò rất quan
trọng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Chính vì vậy mà pháp luật
tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về các biện pháp điều tra. Điều này được
thể hiện trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự và
các văn bản chuyên ngành khác. Vì vậy việc nghiên cứu cụ thể về các biện pháp
điều tra trong tố tụng hình sự và thực tiễn hoạt động điều tra, phân tích làm
sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp điều tra,
để từ đó có những giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng về điều tra, nâng cao
hiệu quả hoạt động điều tra có ý nghĩa rất quan trọng về lý luận cũng như thực
tiễn. Những phân tích đó lý giải cho việc chúng tôi chọn đề tài "Các biện pháp
điều tra trong tố tụng hình sự" để làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, điều tra trong tố tụng hình sự cũng là một
vấn đề đang được quan tâm nghiên cứu của các chuyên gia luật học cả về lý
luận lẫn thực tiễn, đáng chú ý là các công trình: "Sổ tay điều tra hình sự"
(Nhà xuất bản Công an nhân dân); "Khoa học Điều tra hình sự" (Trường Đại
học Luật Hà Nội), "Giáo trình Điều tra hình sự" (Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội) và một số bài báo được công bố trong một số tạp chí Đây là
những công trình nghiên cứu cơ bản các vấn đề thuộc lĩnh vực điều tra hình

sự, đã đề cập đến các biện pháp điều tra hình sự. Tuy nhiên các công trình này
mới chỉ đề cập tới vấn đề mang tính bình luận các quy định của pháp luật
hoặc chiến thuật điều tra mà chưa đi phân tích thực tiễn hoạt động điều tra,


3
phân tích các bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra đề xuất về giải pháp hoàn thiện,
cũng như những kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về các biện pháp
điều tra trong tố tụng hình sự.
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một công
trình chuyên khảo nghiên cứu sâu, toàn diện, đầy đủ về biện pháp điều tra
trong tố tụng hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về điều tra hình sự cũng
như các biện pháp điều tra hình sự cụ thể, luận văn đề xuất những giải pháp
cơ bản về các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
+ Nghiên cứu một số vấn đề chung về biện pháp điều tra;
+ Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
điều tra và thực tiễn áp dụng các biện pháp đó;
+ Đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao
hiệu quả áp dụng các biện pháp điều tra trong thực tiễn.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp điều tra trong tố tụng
hình sự cả về phương diện quy phạm pháp luật cũng như về thực tiễn
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng

Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các


4
văn bản pháp luật về vấn đề điều tra trong tố tụng hình sự và các văn bản
khác, các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan tới đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng và kết hợp chặt chẽ
phương pháp lôgíc với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp; phương
pháp so sánh, thống kê, khảo sát, điều tra, tổng kết thực tiễn.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Luận văn là một công trình nghiên cứu về các biện pháp điều tra trong
tố tụng hình sự một cách hệ thống, toàn diện. Kết quả nghiên cứu góp phần
làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp điều tra
trong tố tụng hình sự; đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
điều tra trong tố tụng hình sự hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về điều tra trong tố tụng hình
sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các
biện pháp điều tra.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả các biện pháp điều tra trong
tố tụng hình sự.


5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


1.1. KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ, NGUYÊN TẮC, YÊU CẦU CỦA HOẠT
ĐỘNG ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó
cơ quan Điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra
được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên
quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời, thông qua
hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ
án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức
hữu quan.
Điều tra là hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng thu thập
chứng cứ, tài liệu, để xác định sự thật khách quan về hành vi phạm tội, người
phạm tội và những tình tiết khác liên quan đến tội phạm để làm cơ sở cho việc
xử lý tội phạm.
Cơ quan điều tra có nhiệm vụ điều tra ban đầu để làm kết luận điều tra
và đề nghị truy tố. Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều
tra vụ án của cơ quan điều tra và khi cần thiết có thể trực tiếp tiến hành các
hoạt động điều tra. Tòa án thực hiện nhiệm vụ điều tra thông qua việc xét hỏi,
kiểm tra công khai các tài liệu, chứng cứ và những tình tiết của vụ án tại
phiên tòa.
Điều tra vụ án hình sự là một dạng hoạt động nhận thức đặc biệt, bởi
vì hoạt động điều tra có đặc điểm pháp lý, thể hiện ở chỗ đối tượng nhận thức


6
của hoạt động điều tra là tội phạm đã xảy ra. Những phương tiện, biện pháp
được áp dụng trong hoạt động điều tra phải phù hợp với pháp luật, không trái
với giá trị pháp lý của kết quả điều tra vụ án.

1.1.2. Nhiệm vụ
Nhanh chóng khám phá từng vụ án xảy ra: Nhanh chóng khám phá
từng vụ án xảy ra còn là một yếu tố đảm bảo hiệu quả của hoạt động điều tra,
bởi vì nếu không nhanh chóng thì nhiều dấu vết, tài liệu, đồ vật có liên quan
đến vụ án có thể bị thay đổi, bị phá hủy và do đó sẽ gây khó khăn cho việc
phát hiện, thu thập, đưa hoạt động điều tra vào chỗ bế tắc, không khám phá
được vụ án.
Một vụ án hình sự chỉ được thừa nhận là đã được khám phá khi cơ
quan điều tra đã làm rõ được những vấn đề cần phải chứng minh được quy
định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, đó là bốn yếu tố cấu thành tội phạm, những
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, nguyên nhân và điều
kiện phạm tội và những tình tiết khác liên quan đến vụ án.
Nhiệm vụ thứ hai của giai đoạn điều tra là lập hồ sơ và đề nghị truy tố
bị can của vụ án. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, Điều tra viên phải có tác
phong thận trọng, khách quan khi đánh giá những tài liệu chứng cứ đã thu
thập được về vụ án hình sự và hành vi phạm tội của bị can. Điều tra viên cần
phải có thái độ vô tư, không định kiến khi thu thập, đánh giá và sử dụng
những tài liệu, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can.
Giai đoạn này cũng tạo điều kiện thuận lợi để truy tố, xét xử vụ án.
Trong quá trình điều tra, Điều tra viên phải mô tả, thu thập, kiểm tra, củng cố
và đưa vào hồ sơ vụ án tất cả những tài liệu chứng cứ chứng minh tội phạm
và hành vi phạm tội của bị can. Chứng minh sự thật của vụ án là một quá trình
liên tục, bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án và kết thúc vào thời điểm Tòa án
ra bản án cuối cùng kết luận bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và các


7
biện pháp tư pháp khác. Sự thật của vụ án được làm sáng tỏ trong giai đoạn
điều tra khi Điều tra viên đã thu thập, kiểm tra một cách đầy đủ những tài

liệu, chứng cứ của vụ án và đưa vào hồ sơ vụ án. Để tạo điều kiện cho quá
trình truy tố, xét xử một cách khách quan, toàn diện, trong quá trình điều tra,
Điều tra viên cần phải áp dụng mọi biện pháp được pháp luật cho phép để
thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là
quyền khiếu nại, tố cáo của người bị hại, của bị can, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự.
Nhiệm vụ tiếp theo của giai đoạn điều tra là đảm bảo bồi thường thiệt
hại: nhiệm vụ này phải được thực hiện nhanh chóng từ giai đoạn điều tra, nếu
thực hiện chậm trễ sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không thực hiện được do
những đối tượng liên quan đến vụ án đã cất giấu, tẩu tán, tiêu thụ, hợp lý hóa
nguồn gốc của những tài sản chiếm đoạt được bằng con đường phạm tội.
Nhiệm vụ này được thực hiện khi trong quá trình điều tra, Điều tra
viên thu giữ được những tài sản, tiền bạc và những giá trị vật chất khác bị bọn
tội phạm chiếm đoạt và trao trả cho cơ quan, tổ chức và công dân có lợi ích bị
bọn phạm tội xâm hại. Trong những trường hợp không thực hiện được việc
trao trả tài sản, tiền bạc và những giá trị vật chất khác cho cơ quan, tổ chức xã
hội và công dân có lợi ích bị bọn phạm tội xâm hại, thì hoạt động điều tra phải
làm rõ chính xác mức độ thiệt hại, những bị can nào phải bồi thường và mức
độ bồi thường của từng bị can.
Trong quá trình điều tra, Điều tra viên cần khẩn trương tiến hành các
biện pháp như khám xét, kê biên tài sản, tiền bạc và những giá trị vật chất
khác để bảo đảm khả năng thực tế bồi thường thiệt hại. Đặc biệt, Điều tra
viên, cán bộ điều tra phải giải thích cặn kẽ cho những người tham gia tố tụng
quyền khiếu nại dân sự và thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền
lợi của nguyên đơn dân sự.


8
Một nhiệm vụ không kém phần quan trọng trong giai đoạn điều tra là
làm rõ các nguyên nhân, điều kiện phạm tội để đề xuất những biện pháp khắc

phục, ngăn ngừa không để vụ án tương tự xảy ra trong tương lai.
Những nguyên nhân, điều kiện phạm tội này có thể là những sơ hở,
không đầy đủ, chặt chẽ của những văn bản pháp luật, nguyên tắc quản lý kinh
tế, công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới,
những thiếu sót của công tác quản lý về trật tự, an toàn xã hội, những sơ hở,
mất cảnh giác của người bị hại… Những tình tiết này hoàn toàn có thể làm rõ
được trong quá trình điều tra. Để phòng ngừa tội phạm, Điều tra viên phải
giáo dục mọi người nắm được pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật, vận
động quần chúng nhân dân giúp đỡ cơ quan Điều tra trong quá trình điều tra
vụ án; giáo dục, làm cho bị can nhận thức được hành vi phạm tội của mình, ăn
năn hối cải một cách thành thực, tự nguyện trở lại con đường làm ăn lương
thiện.
1.1.3. Nguyên tắc của hoạt động điều tra
Hoạt động điều tra là một trong những hoạt động tố tụng hình sự. Vì
vậy, hoạt động điều tra phải tuân thủ toàn bộ các nguyên tắc tố tụng được quy
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh một số nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc đầu tiên là tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Nguyên tắc này có thể được hiểu là khi kết thúc giai đoạn điều tra vụ
án thì những hành vi phạm tội của bị can phải được làm rõ, đúng sự thật như
trong thực tế đã xảy ra, không được xuyên tạc, cố ý bóp méo hay làm sai sự
thật do nhiều động cơ, mục đích khác nhau.
Hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo đúng trình tự, thủ
tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm chứng minh sự thật của vụ án


9
đúng như trong thực tế đã xảy ra, không suy diễn theo ý muốn chủ quan của
Điều tra viên. Điều tra viên phải có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết đúng

đắn, kịp thời những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa đối với việc giải
quyết đúng đắn vụ án của những người tham gia tố tụng, nhất là người bị hại,
bị can.
Toàn diện trong hoạt động điều tra có nghĩa là hoạt động điều tra phải
làm rõ tất cả những tình tiết của vụ án bằng cách xây dựng tất cả những giả
thuyết điều tra nhằm giải thích các tình tiết chưa rõ của vụ án và kiểm tra
những giả thuyết đó. Toàn diện của hoạt động điều tra đòi hỏi Điều tra viên
phải điều tra làm rõ sự thật của vụ án ở mọi phương diện.
Đầy đủ trong hoạt động điều tra có nghĩa là hoạt động điều tra phải
làm rõ tất cả những vấn đề cần chứng minh theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự đủ để giải quyết đúng đắn vụ án. Điều tra viên không những phải xác
định chính xác những vấn đề cần chứng minh mà còn phải lập luận chứng
minh từng vấn đề đó bằng những chứng cứ cần thiết để có đủ cơ sở chắc chắn,
tin cậy đi đến kết luận cuối cùng về sự thật của vụ án. Khi lập hồ sơ vụ án và
đề nghị truy tố, Điều tra viên cần đưa vào hồ sơ những tài liệu, chứng cứ cần
thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xét xử vụ án.
- Nguyên tắc thứ hai: Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo pháp
luật, chấp hành các nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong quá trình điều tra, Điều tra viên không chỉ đơn thuần chấp hành
những yêu cầu của pháp luật, nhất là Bộ luật Tố tụng hình sự mà còn áp dụng
hiệu quả những thủ thuật, chiến thuật, những phương tiện kỹ thuật trong hoạt
động điều tra. Nguyên tắc này không cho phép áp dụng trong hoạt động điều
tra những biện pháp, phương tiện trái pháp luật, chống lại pháp luật. Tất cả
những biện pháp được áp dụng trong hoạt động điều tra phải theo đúng thủ
tục, trình tự, kết quả tiến hành phải được phản ánh chính xác, khách quan
trong các văn bản tố tụng.


10
Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định không được tiết lộ bí mật

của hoạt động điều tra. Những tài liệu về vụ án chỉ được thông báo công khai
khi có quyết định của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
phạm vi cho phép. Quy định này giúp cho Điều tra viên tránh được âm mưu,
thủ đoạn đối phó với hoạt động điều tra của bị can và những người có lợi ích
đối với vụ án. Bản chất của bọn tội phạm là tìm mọi cách che giấu tội phạm
để tránh bị trừng phạt và những người có lợi ích trong vụ án thường tìm cách
nắm được những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra
để đối phó với cơ quan điều tra và Điều tra viên.
Mặt khác, trong quá trình điều tra, Điều tra viên có thể sử dụng bí mật
của hoạt động điều tra như là một vũ khí chiến thuật, nhất là trong quá trình hỏi
cung bị can để thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án. Ngoài ra, giữ bí mật của
hoạt động điều tra còn nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị can, quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác.
Nguyên tắc thứ ba: Hoạt động điều tra được thực hiện trên cơ sở tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói
chung, người tham gia tố tụng nói riêng.
Hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự đụng chạm nhiều đến quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân. Các biện pháp điều tra được áp dụng, nhất là
các biện pháp cưỡng chế tố tụng phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật cho phép, không được xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm, tài sản,
sức khỏe của công dân.
Đặc biệt, người tiến hành tố tụng không được có hành vi bức cung,
dùng nhục hình… đối với bị can, bị cáo. Bộ luật Hình sự nước ta quy định
hành vi bức cung, dùng nhục hình trong tố tụng hình sự là tội phạm. Đó là
một trong những bảo đảm pháp lý quan trọng để thực hiện nguyên tắc này.


11
Nguyên tắc thứ tư: Cơ quan điều tra cấp dưới chịu sự chỉ đạo nghiệp
vụ của cơ quan điều tra cấp trên.

Cơ quan điều tra cấp dưới chịu trách nhiệm báo cáo với cơ quan điều
tra cấp trên về phương hướng công tác điều tra khám phá tội phạm trong từng
thời kỳ để xin ý kiến chỉ đạo của cơ quan điều tra cấp trên. Cơ quan điều tra
cấp trên có trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo cơ quan điều tra cấp dưới về tất cả
những vấn đề liên quan đến công tác điều tra nói chung và hoạt động điều tra
từng vụ án cụ thể nói riêng.
Pháp luật còn quy định cụ thể mối quan hệ giữa Thủ trưởng cơ quan
Điều tra với Điều tra viên nhằm gạt bỏ sự chuyên quyền, độc đoán, tự tiện
trong hoạt động điều tra.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt
động điều tra, đòi hỏi cơ quan điều tra các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình và mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo giữa cơ quan điều tra
cấp trên và cơ quan điều tra cấp dưới do pháp luật quy định. Mặt khác, công
tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra phải mang tính trực tiếp để đảm bảo
sự nhanh chóng của hoạt động điều tra, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo
của cơ quan điều tra các cấp, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và
Điều tra viên trong quá trình điều tra v.v…
1.1.4. Yêu cầu của hoạt động điều tra vụ án hình sự
Để hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành bảo đảm chặt chẽ
và đúng quy định của pháp luật, đạt hiệu quả cao, khi điều tra vụ án hình sự
cần phải chú ý tới những yêu cầu sau:
- Thứ nhất: Hoạt động điều tra phải được tiến hành có kế hoạch
Khi làm bất cứ công việc gì, việc lập kế hoạch cũng mang lại hiệu quả
lớn. Trước tiên, nó giúp hoạt động điều tra thực hiện một cách có khoa học hơn,


12
có trình tự hơn và đầy đủ hơn. Hoạt động điều tra là một hoạt động phức tạp
nhằm xác minh sự thật của một vụ án. Sự thành công, tính hiệu quả của hoạt
động điều tra phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết là việc lập kế

hoạch điều tra vụ án có hợp lý, có khoa học hay không. Để lập kế hoạch điều
tra vụ án có hiệu quả, đạt kết quả tốt, thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra
viên và các cán bộ tham gia điều tra chẳng những phải có tri thức về điều tra
vụ án hình sự mà còn phải có sự hiểu biết về khoa học và kiến thức xã hội sâu
rộng.
Hoạt động điều tra được tiến hành theo kế hoạch sẽ được tiến hành
một cách khoa học, có trình tự hợp lý, hạn chế đến mức thấp nhất những chi
phí cho quá trình điều tra. Đồng thời, hoạt động điều tra được tiến hành theo
kế hoạch sẽ đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ, yêu cầu chính trị trong quá trình
điều tra vụ án.
- Thứ hai: tiến hành nhanh chóng và linh hoạt
Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động có tính chất phức tạp
nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Mỗi một vụ án hình sự diễn
ra đều có tính chất và mức độ khác nhau, không vụ nào giống vụ nào. Đồng
thời, mỗi một tình tiết của vụ án xảy ra đều lưu giữ lại thế giới vật chất một
dấu hiệu nào đó rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, những dấu hiệu này chỉ tồn tại
trong một thời gian nhất định rồi sẽ mất đi. Chính vì vậy, hoạt động điều tra
phải được tiến hành nhanh chóng và linh hoạt để có thể khai thác được tối đa
các dấu hiệu được lưu lại. Điều đó giúp cho các Điều tra viên có thể tìm tới sự
thật khách quan của vụ án được thuận lợi hơn. Sự nhanh chóng, linh hoạt của
hoạt động điều tra còn được thể hiện ở chỗ Điều tra viên có thể sử dụng nhiều
biện pháp điều tra cùng một lúc để tìm hiểu sự thật khách quan ở nhiều
phương diện hơn. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định nhiều biện pháp
điều tra, mỗi biện pháp được sử dụng trong một điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau. Đối với một vụ án hình sự, có thể chỉ cần sử dụng một biện pháp điều


13
tra cũng có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, nhưng cũng có
những vụ án hình sự cần phải áp dụng đồng thời nhiều biện pháp. Điều này

không được quy định quy chuẩn trong văn bản pháp luật hay một hướng dẫn
nghiệp vụ nào mà đều phụ thuộc vào khả năng, kinh nghiệm của Điều tra
viên.
- Thứ ba: sử dụng có hiệu quả những biện pháp trinh sát, những
phương tiện kỹ thuật trong quá trình điều tra
Biện pháp trinh sát là một biện pháp được sử dụng để khám phá tội
phạm, nhưng khác với biện pháp điều tra là nhằm chứng minh sự thật khách
quan của vụ án, biện pháp trinh sát lại có nhiệm vụ tìm kiếm, xác định và phát
hiện những chứng cứ có liên quan đến vụ án, có thể nói, biện pháp trinh sát
được thực hiện nhằm hỗ trợ cho hoạt động điều tra một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, hoạt động điều tra còn được hỗ trợ bởi các phương tiện kỹ thuật
hiện đại. Yếu tố con người trong hoạt động điều tra là yếu tố chủ yếu, song
không phải là tất cả. Tội phạm càng tinh vi thì cán bộ điều tra cần phải sử
dụng nhiều phương tiện kỹ thuật để giúp tìm kiếm ra những chứng cứ quan
trọng mà con người, bằng mắt thường có thể không phát hiện ra. Phương tiện
kỹ thuật không chỉ quan trọng trong quá trình tìm ra chứng cứ, mà có nhiều
phương tiện còn có tác dụng lưu giữ chứng cứ lâu dài, điều đó phục vụ tốt cho
các giai đoạn sau của quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
- Thứ tư: vận động quần chúng tham gia vào hoạt động điều tra
Quần chúng nhân dân luôn đóng một vai trò quan trọng trong mọi
hoạt động. "Đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân", hay "lấy dân làm
gốc" là đạo lý bao đời nay của các nhà lãnh đạo kiệt xuất. Thế mới hay vai trò
của quần chúng nhân dân là rất quan trọng nếu ta biết tận dụng khôn khéo.
Trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, mặc dù pháp luật có quy định: Tổ
chức, công dân có quyền, nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; có
trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan điều tra và các cơ


14
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Thủ trưởng,

Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra [14, Điều 7]. Nhưng
không phải lúc nào cũng có thể khai thác được yêu cầu này một cách đơn
giản, có những tổ chức, cá nhân không hoàn toàn tự nguyện cung cấp cho cơ
quan điều tra, cán bộ điều tra những thông tin hữu ích cho hoạt động điều tra.
Điều này sẽ gây cản trở cho quá trình điều tra tìm ra sự thật của vụ án. Quần
chúng nhân dân có thể là những người trực tiếp biết được nội dung tình tiết của
vụ án, đồng thời cũng giúp cho cơ quan điều tra, Điều tra viên thực hiện các
biện pháp ngăn chặn cần thiết để đảm bảo cho hoạt động điều tra được tiến
hành tốt.
1.2. CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA
Nhiệm vụ chính của hoạt động điều tra là xác định sự thật khách quan
của vụ án một cách đầy đủ, toàn diện, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Hay
nói cách khác, nhiệm vụ chính đó là chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó và các nhiệm vụ khác, Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định các biện pháp cụ thể nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho quá
trình chứng minh. Đó chính là các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự.
Như vậy, biện pháp điều tra là những biện pháp do Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định mà cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để thu thập tài liệu,
chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Là hoạt động thu thập chứng cứ, các biện pháp điều tra được xác định
trên cơ sở các loại chứng cứ và biện pháp thu thập chứng cứ được quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự nước ta.
Theo khoản 2 Điều 64 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chứng cứ bao gồm:
- Vật chứng;


15
- Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt,

người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo;
- Kết luận giám định;
- Biên bản hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Để thu thập được những chứng cứ đó, Điều 65 Bộ luật Tố tụng hình
sự quy định cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có quyền triệu tập những
người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan
đến vụ án; trưng cầu giám định; tiến hành khám xét; khám nghiệm và các
hoạt động điều tra khác…; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài
liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Xuất phát từ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, theo chúng tôi
các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự bao gồm:
- Khởi tố bị can và hỏi cung bị can;
- Lấy lời khai;
- Thu giữ vật chứng;
- Đối chất;
- Nhận dạng;
- Khám xét, thu giữ tài liệu, vật chứng;
- Khám nghiệm hiện trường, tử thi, xem xét dấu vết;
- Thực nghiệm điều tra;
- Trưng cầu giám định.
Trong quá trình điều tra, tùy từng vụ án cụ thể mà các biện pháp điều
tra được thực hiện toàn bộ hay một phần. Có những biện pháp luôn luôn bắt
buộc phải thực hiện (như khởi tố bị can, hỏi cung bị can, lấy lời khai người


16
tham gia tố tụng), có những biện pháp có thể không bắt buộc phải thực hiện
tùy theo nhu cầu điều tra.
Trong nhiều trường hợp, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định biện pháp
điều tra này hay biện pháp điều tra khác là bắt buộc. Ví dụ: Trong các vụ án

có hậu quả chết người, gây thương tích cho người khác, vụ án mà đối tượng
phạm tội là chất độc, chất phóng xạ… thì bắt buộc cơ quan điều tra phải trưng
cầu giám định về nguyên nhân cái chết, mức độ thương tật, xác định chất độc,
chất phóng xạ…
Cũng đều là biện pháp điều tra nhưng mỗi biện pháp có đối tượng, cách
thức và phương pháp khác nhau nên Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định các
điều kiện, trình tự, thủ tục tiến hành khác nhau nhằm thu thập đầy đủ, chính
xác, khách quan các chứng cứ của vụ án thông qua biện pháp được tiến hành.
Việc xác định phạm vi, giới hạn các biện pháp điều tra có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc điều
tra phiến diện, không đầy đủ là một trong những căn cứ để Viện kiểm sát, Tòa án
trả hồ sơ điều tra bổ sung (Điều 168, 179 Bộ luật Tố tụng hình sự) hoặc kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (Điều 273 Bộ luật Tố tụng hình sự) v.v…
1.3. KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc năm 1989
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với nhân dân toàn thế giới về
sự độc lập, tự chủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong chế độ mới,
mọi công dân không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, giàu nghèo đều
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nông dân nghèo chiếm đại đa số trong xã
hội, được giảm tô, giảm tức. Lần đầu tiên, người lao động được làm chủ vận
mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân tài tích cực góp


17
phần xây dựng đất nước. Tệ tham ô, lạm nhũng của những "quan cách mạng"
chớm nhú đã bị lên án, đấu tranh. Chính sách tăng gia sản xuất đã chấm dứt
nạn đói khủng khiếp. Quân đội quốc gia và dân quân, tự vệ là chỗ dựa và
niềm tin của chế độ mới, nhanh chóng phát triển đã chứng tỏ tinh thần và sức

mạnh của mình trên chiến trường.
Trong thời kỳ mới thành lập nước, chính quyền non trẻ có rất nhiều
việc phải làm, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là kiện toàn hệ thống pháp
luật. Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn, không thể gấp rút hoàn thành một
hệ thống pháp luật đầy đủ. Vì lẽ đó, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 47 về việc cho
đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam,
các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam Bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như
cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong Sắc
lệnh này. Đồng thời xóa bỏ toàn bộ những văn bản quy định đặc quyền đặc
lợi của thực dân, tay sai, phong kiến trên đất nước ta.
Liên quan đến hoạt động điều tra, ngày 21/2/1946, Chủ tịch Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 23/NV,
thành lập Việt Nam công vụ thuộc Bộ Nội vụ trên cơ sở hợp nhất Sở Cảnh
sát với Sở Liêm phóng trên toàn quốc. Việt Nam công vụ có nhiệm vụ tìm
kiếm và tập trung các tin tức và tài liệu liên can đến sự an toàn của quốc gia
hoặc bề trong hoặc bề ngoài; đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng
những hành động có thể làm rối việc trị an và trật tự trong nước, bất cứ sự
hoạt động đó là do người Việt Nam hay người nước ngoài; điều tra về những
hành động trái phép nói trên và truy tìm người can phạm để giúp tòa án trong
sự trừng trị.
Ngày 20/7/2946, Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã ban hành Sắc lệnh số 131 về tổ chức công an tư pháp, trong đó quy
định Tư pháp công an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại


18
hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang chứng, bắt giao người phạm
pháp cho các Tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định. Sắc lệnh này có
quy định cụ thể trường hợp khám nhà: Muốn khám nhà ngoài trường hợp

phạm pháp quả tang thì phải khám sau 6 giờ sáng và trước 6 giờ chiều. Nếu
đã bắt đầu khám trước 6 giờ chiều thì vẫn có quyền tiếp tục khám nhà đến khi
xong.
Trong các nhà mở cho công chúng tự do xuất nhập, thí dụ hàng cà
phê, nhà hay gá cờ bạc thì giờ có thể khám nhà lùi đến lúc khách hàng hoặc
người làm việc phạm pháp ra về hết.
Ngoài ra, còn có ba trường hợp đặc biệt được vào nhà tư nhân ban
đêm: cháy nhà, lụt hoặc có tiếng cấp cứu ở trong nhà phát ra.
Sau khi khám nhà, nếu bắt được hay không bắt được tang vật, đều
phải có biên bản. Biên bản này phải kê rõ đã tịch thu những tang vật gì, niêm
phong như thế nào, giao cho ai. Chủ nhà bị khám sẽ ký vào biên bản; chủ nhà
vắng mặt thì thân nhân ký thay. Nếu chủ nhà hoặc thân nhân không chịu ký,
không biết ký hoặc không thể ký được thì nói rõ trong biên bản. Có thể nói
Sắc lệnh số 131 đã nêu ra được một số vấn đề cơ bản của biện pháp điều tra
cụ thể là biện pháp khám nhà. Tiếp theo đó, Sắc lệnh 117-SL ngày
18/10/1949 đã bổ sung thêm một số quy định trong trường hợp đặc biệt được
vào nhà tư nhân ban đêm, đó là trường hợp khi chủ nhà chứa chấp những kẻ
đào thoát, bị giam cứu, thành án hay bị án trí, hoặc đang bị truy nã theo lệnh
của Ủy ban kháng chiến hành chính hay Tòa án.
Về thủ tục giám định pháp y, ngày 12/12/1956, Liên bộ Y tế - Bộ Tư
pháp có Thông tư số 2795/HC-TP quy định về một số điểm cụ thể trong công
tác giám định pháp y. Trong đó có nêu rõ giám định viên pháp y cũng như cơ
quan điều tra cần có quan niệm đúng về công tác giám định pháp y. Về phía
giám định viên là đem sự hiểu biết chuyên môn của mình đóng góp vào việc
điều tra, khám phá các vụ phạm pháp để bảo vệ trật tự an ninh, trấn áp bọn


19
phá hoại. Do đó cần nhận rõ trách nhiệm chính của mình để có thái độ tích
cực, chủ động trong phạm vi trách nhiệm của mình; không có thái độ bàng

quan, trái lại, cộng tác chặt chẽ với cơ quan điều tra tiến hành cuộc khám
nghiệm cho có kết quả tốt.
Về phía cơ quan điều tra cũng cần quan niệm đúng về công tác giám
định pháp y để không có thái độ ỷ lại vào giám định viên hoặc đòi hỏi quá khả
năng của giám định viên. Trên sự hiểu biết khoa học, giám định viên cho ta
biết những hiện tượng khách quan để làm gợi ý cho cuộc điều tra. Do đó cơ
quan điều tra cần phối hợp chặt chẽ với giám định viên để giúp cho giám định
viên biết sự việc đã xảy ra, đời sống lý lịch của người được khám nghiệm.
Như vậy, cuộc khám nghiệm mới tiến hành đúng hướng và phúc đáp được
yêu cầu của cuộc điều tra. Dĩ nhiên là cơ quan điều tra không phải nói hết kết
quả của cuộc điều tra, những điểm cần giữ bí mật nếu tiết lộ thì trở ngại cho
việc khám phá ra việc phạm pháp mà chính giám định viên biết cũng không
có lợi ích gì cho việc khám nghiệm.
Có thể nói, trong giai đoạn trước năm 1989, các quy định pháp lý về
hoạt động điều tra hình sự được ban hành với số lượng chưa lớn và chủ yếu
dưới dạng các văn bản dưới luật, nội dung chưa đầy đủ, phần lớn mới chỉ quy
định về tổ chức cơ quan điều tra và thẩm quyền điều tra. Về nội dung này,
tính hợp lý vẫn chưa cao. Điều đó không chỉ làm giảm hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm mà còn cho thấy hoạt động lập pháp tố tụng
hình sự còn rất nhiều nhiệm vụ khá nặng nề phía trước.
1.3.2. Từ năm 1989 đến năm 2003
Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên ra đời năm 1989 là một điểm mốc lớn
trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, có tác động tích
cực trong quá trình tố tụng hình sự nói chung và hoạt động điều tra hình sự
nói riêng. Bộ luật đã dành 6 chương với 49 điều luật để quy định những vấn
đề quan trọng liên quan đến hoạt động điều tra hình sự. Phần lớn các điều luật


20
này được dành để quy định về trình tự, thủ tục tiến hành các biện pháp điều

tra cụ thể.
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các biện pháp điều tra cụ thể sau đây:
- Khởi tố bị can và hỏi cung bị can;
- Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đối chất, nhận dạng;
- Khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;
- Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều
tra, giám định.
Bám sát thực tiễn điều tra hình sự, các cơ quan chức năng đã kịp thời
ban hành bổ sung các văn bản pháp luật theo thẩm quyền nhằm khắc phục
những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong hoạt động này.
Theo quy định tại Điều 17 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989
và Thông tư số 79/TT ngày 15/9/1989 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn thực hiện Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, cơ quan điều tra Viện kiểm sát
được thành lập ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự Trung
ương, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát quân sự quân khu, quân
chủng, quân đoàn, tổng cục. Trong khi đó, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh vừa ít việc và cũng rất ít khi trực tiếp điều tra. Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định cơ quan điều tra chỉ được thành
lập ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ương.
Đối với cơ quan cảnh sát điều tra, sau 3 năm tổ chức và hoạt động
theo mô hình được quy định trong Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm
1989 đã bộc lộ một số hạn chế như thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra ở Bộ
rất khó khăn trong việc chỉ đạo điều hành, phối hợp giữa các lực lượng ở từng
cấp trong hoạt động điều tra, không nắm được tình hình điều tra tội phạm,
diễn biến của những vụ án nghiêm trọng, không chỉ đạo được cơ quan điều
tra. Vì vậy, Bộ Công an đã ban hành Chỉ thị số 26 ngày 22/12/1993 và Quyết


21
định số 262 ngày 27/5/1993, trong đó quy định: Ở Bộ công an, Phó Tổng cục

trưởng Tổng cục cảnh sát làm thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, Cục
trưởng Cục cảnh sát điều tra là phó thủ trưởng thứ nhất, Cục trưởng các Cục
cảnh sát kinh tế, cảnh sát hình sự và các Phó Cục trưởng Cục cảnh sát điều tra
làm Phó thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra. Ở công an cấp tỉnh, Phó giám
đốc phụ trách cảnh sát làm Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, Trưởng
phòng cảnh sát điều tra làm Phó thủ trưởng thứ nhất, các Trưởng phòng cảnh
sát kinh tế, cảnh sát hình sự và cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy làm
Phó thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra.
Những thay đổi của Bộ luật Hình sự năm 1999 về phân loại tội phạm
còn có ảnh hưởng đến việc tổ chức hoạt động điều tra hình sự và đòi hỏi cần
có sự điều chỉnh trong pháp luật tố tụng hình sự. Do đó, trong lần sửa đổi, bổ
sung thứ ba đối với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, vấn đề thời hạn điều
tra và thời hạn tạm giam để điều tra các loại tội phạm đã được quy định lại
một cách cụ thể phù hợp với sự thay đổi nêu trên của Bộ luật Hình sự năm
1999, tạo thuận lợi cho việc áp dụng các chế định này trong thực tế điều tra
hình sự.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Trong giai đoạn này đã xây dựng được hệ thống các cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
khá hợp lý, bước đầu đảm bảo được tính chuyên sâu. Đồng thời bổ sung những
quy định làm cơ sở pháp lý cho việc tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa
điều tra theo tố tụng và điều tra trinh sát.
Nhìn chung Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã kế thừa và phát triển
các quy định về hoạt động điều tra nói chung, các biện pháp điều tra nói riêng.
Các biện pháp điều tra tuy vẫn giữ nguyên như cũ nhưng nội dung, trình tự,
thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra được bổ sung nhiều theo hướng đảm
bảo tính khách quan của biện pháp được thực hiện; tôn trọng, bảo vệ quyền


22

của người tham gia tố tụng trong hoạt động điều tra. Những sửa đổi, bổ sung
đó phù hợp với định hướng tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tố tụng,
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay
ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Trong giai đoạn này cũng bổ sung những quy định mới theo hướng cụ
thể và rành mạch hóa quyền hạn điều tra của cơ quan điều tra và quy định cụ
thể về vấn đề chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền.
Hạn chế trước đây của các quy định về quyền hạn điều tra thể hiện ở
một số điểm thiếu tính thực tế (đối với cơ quan điều tra của Viện kiểm sát),
thiếu tính cụ thể (không quy định cụ thể quyền hạn điều tra của cơ quan điều
tra các cấp) và đặc biệt là thiếu tính rành mạch trong việc phân định quyền
hạn điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra và An ninh điều tra đối với một số
loại tội phạm. Những hạn chế đó của pháp luật tố tụng hình sự không chỉ gây
khó khăn cho việc áp dụng pháp luật mà còn tạo ra khả năng phát sinh hiện
tượng tiêu cực là đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan điều tra, nhất là giữa
cơ quan Cảnh sát điều tra và An ninh điều tra. Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 đã bổ sung một số quy
định mới nhằm khắc phục những hạn chế đã nêu và do đó, quyền hạn điều tra
của các cơ quan điều tra thuộc các lực lượng và các cấp khác nhau đã mang
tính hợp lý, cụ thể, rành mạch hơn trước.
Việc cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng,
phó thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều tra viên cũng đã rõ ràng hơn. Trong
mọi hoạt động, việc phân công, phân nhiệm cụ thể cho từng thành viên tham
gia là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự thành công, trong khi
pháp luật tố tụng hình sự trước đây chỉ quy định chung mà chưa quy định một
cách đầy đủ và cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan điều tra,
đặc biệt chưa có sự phân biệt giữa chức năng quản lý hoạt động tố tụng và
chức năng tiến hành tố tụng của thủ trưởng cơ quan điều tra. Để khắc phục

×