1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TÔ THỊ THU TRANG
THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TÔ THỊ THU TRANG
THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
Hà Nội - 2014
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Tô Thị Thu Trang
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN CỦA CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
9
1.1.
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và thời hạn tố tụng
hình sự
9
1.1.1.
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
9
1.1.2.
Thời hạn tố tụng hình sự
14
1.2.
Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
16
1.2.1.
Khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự
16
1.2.2.
Căn cứ quy định thời hạn các biện pháp ngăn chặn trong luật
tố tụng hình sự
18
1.2.3.
Thời hạn biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên
quan trong quá trình giải quyết vụ án
27
1.3.
Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình
sự một số nước trên thế giới
29
1.3.1.
Luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ
29
1.3.2.
Luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức
31
1.3.3.
Luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga
34
5
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG
38
2.1.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng
hình sự Việt Nam về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay
38
2.1.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam được ban hành lần đầu
(năm 1988)
38
2.1.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 cho đến nay
40
2.2.
Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về thời
hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
41
2.2.1.
Quy định về thời hạn của biện pháp bắt người
41
2.2.2.
Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giữ
48
2.2.3.
Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giam
51
2.2.4.
Quy định về thời hạn của biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
56
2.2.5.
Quy định về thời hạn của biện pháp bảo lĩnh
58
2.2.6.
Quy định về thời hạn của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm
60
2.3.
Thực trạng áp dụng các quy định về thời hạn của các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ khi có Bộ luật tố
tụng hình sự đến nay
62
2.3.1.
Tình hình và kết quả áp dụng trong thực tiễn
62
2.3.2.
Những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng thời hạn của các
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
63
2.3.3.
Những khó khăn, vướng mắc, bất cập từ thực tiễn
73
6
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN CỦA
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
89
3.1.
Nhóm giải pháp và kiến nghị về hoàn thiện các quy định của
pháp luật
89
3.1.1.
Những nội dung quy định về thời hạn của biện pháp ngăn
chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung
89
3.1.2.
Tăng cường ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các
quy định của pháp luật về thời hạn của biện pháp ngăn chặn
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự
98
3.2.
Nhóm giải pháp và kiến nghị về nâng cao năng lực cho cơ
quan và người tiến hành tố tụng hình sự
99
3.2.1.
Tăng cường lực lượng và nâng cao trình độ cho Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành tố
tụng khác
101
3.2.2.
Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật mới về
tố tụng hình sự cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
và những người tiến hành tố tụng khác
103
3.2.3.
Tiến hành tổng kết thực tiễn, tổ chức rút kinh nghiệm về việc
áp dụng các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn
quy định trong tố tụng hình sự
104
3.2.4.
Giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm
với các nước về áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng
về thời hạn của biện pháp ngăn chặn
105
KẾT LUẬN
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
110
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CAND
: Công an nhân dân
CQĐT
: Cơ quan điều tra
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TTHS
: Tố tụng hình sự
UBND
: Ủy ban nhân dân
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Các biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng trong pháp luật
tố tụng hình sự (TTHS). Nghiên cứu lịch sử lập pháp của Việt Nam từ năm
1945 đến nay cho thấy các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được quy định
phong phú và đa dạng với nhiều tên gọi khác nhau, đồng thời có sự kế thừa và
bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2003 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc của BLTTH năm 1988 và các văn bản
pháp luật về TTHS trước đây, trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan tư pháp đã quy
định chặt chẽ hơn về các biện pháp ngăn chặn, góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ
án. Các quy định về biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS đã tạo hành
lang pháp lý cho việc áp dụng, góp phần tích cực vào việc phát hiện, ngăn
chặn và xử lý tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng những biện pháp ngăn chặn,
nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, các quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp và các văn bản pháp luật ghi nhận. Do đó, khi áp dụng các
biện pháp ngăn chặn cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về căn cứ, thẩm
quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng.
Thực tế áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn
trong TTHS cho thấy còn nhiều vi phạm, tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm
giam còn xảy ra, việc áp dụng thời hạn tạm giam hiện nay còn quá dài, vượt
mức quy định, thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú còn chưa
đảm bảo.v.v đã ảnh hưởng lớn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nguyên nhân của những vi phạm trên xuất phát từ việc các quy định của pháp
luật chưa chặt chẽ, số lượng, chất lượng cán bộ làm công tác tiến hành TTHS
còn thiếu, có nơi còn chưa chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chú trọng bảo đảm
những quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, công tác kiểm
9
tra, giám sát còn chưa được thường xuyên, kịp thời, hiểu biết pháp luật của
người dân còn nhiều hạn chế v.v
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, cần thiết phải nghiên cứu chuyên
sâu các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật
TTHS Việt Nam hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này, và
đó cũng là lý do, luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài
"Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam"
làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ có ý nghĩa về mặt
TTHS mà còn có vai trò lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
đặc biệt là xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, nên đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía
cạnh, phương diện khác nhau về các biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
Hiện nay, khoa học luật TTHS trong và ngoài nước đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, nhưng chủ yếu chỉ đề
cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về
các biện pháp ngăn chặn mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, đã có các công
trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Cấp độ luận văn Tiến sĩ có đề tài:
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực
lượng cảnh sát nhân dân của tác giả Trịnh Văn Thanh, (Bộ Công an), 2000;
- Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình
sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của Nguyễn Văn Điệp,
Học viện Tư pháp, 2005;
10
Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có đề tài:
- Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả
Nguyễn Văn Điệp, Học viện Tư pháp, 1996;
- Tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp, của Phạm Thanh Bình, Tòa án nhân dân tối cao, 1996;
- Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Vũ Gia Lâm, 2000;
- Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp tạm giam,
của Phạm Duy Trường, 2006;
- Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn
Bá Phùng, 2010;
- Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt
Nam, của Lê Thanh Bình, 2010.
Về đề tài khoa học cấp Bộ có Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn
trong Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, của Viện
khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2008,…
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình của các tác giả sau:
- Những điều cần biết về bắt, giữ, khám xét, của Phạm Quang Mỹ và
Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1983;
- Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp
luật, của Phạm Quang Mỹ và Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Pháp lý, 1993;
- Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự; của Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992,
- Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, của
Viện Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994;
- Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự, của Viện Nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1994;
11
- Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng,
của TS. Nguyễn Vạn Nguyên, Nhà xuất bản Công an nhân dân (CAND), 1995;
- Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của
Nguyễn Mai Bộ, Nhà xuất bản CAND, 1997.
- Biện pháp ngăn chặn khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố
tụng hình sự, của ThS. Nguyễn Mai Bộ, 2004;
- Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, của TS. Trần
Quang Tiệp, 2005.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về các biện pháp ngăn
chặn, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn đối với riêng thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt Nam, nhìn một cách tổng quan có
thể khẳng định chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu. Ngoài ra, trong
bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" nêu rõ: "Tăng
cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật phát
hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ"; Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
"Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" trong đó có nêu: "hoàn thiện
các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh
bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người" với nhiệm vụ đặt ra là "Coi
trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội"
thì vấn đề hoàn thiện pháp luật TTHS về thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn càng trở nên cần thiết.
12
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính
lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
thời hạn của các biện pháp ngăn chặn dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp
dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật
TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của
việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và
ngoài nước về các biện pháp ngăn chặn, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một
số vấn đề chung về các biện pháp ngăn chặn và thời hạn của các biện pháp
ngăn chặn như: Khái niệm, ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn, căn cứ áp
dụng các biện pháp ngăn chặn; Khái niệm thời hạn biện pháp ngăn chặn, căn
cứ quy định thời hạn, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn
khác có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án.
- Khái quát sự phát triển của các quy định về biện pháp ngăn chặn
cũng như thời hạn của các biện pháp ngăn chặn được trong lịch sử pháp luật
TTHS của nước ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định về thời hạn của từng biện pháp ngăn chặn
cụ thể trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, từ đó rút ra những nhận xét,
đánh giá;
13
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế
xung quanh việc áp dụng;
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy
định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS Việt Nam hiện
hành, cũng như những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề thời hạn của các
biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên
cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp
ngăn chặn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, cơ quan tư pháp, những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong
thực tiễn.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nước trong khi nghiên cứu về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi cả nước.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thời hạn áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong 10 năm (2004-2013).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về vấn đề cải cách
tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X
14
và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật TTHS như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học về luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thời hạn của các biện pháp
ngăn chặn trong TTHS, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận
và thực tiễn liên quan tới thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật
TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thời hạn
của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS để xây dựng nên khái niệm thời hạn
của các biện pháp ngăn chặn, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ
ra ý nghĩa của việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong mối
tương quan so sánh với một số chế định khác;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong
pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các
quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan tiến hành
tố tụng; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng pháp luật;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
15
hiệu quả áp dụng pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra
(CQĐT), Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn.
Chương 2: Quy định về thời hạn biện pháp ngăn chặn trong pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN
CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
1.1. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỜI
HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
1.1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Trong bất kỳ xã hội nào, con người cũng luôn giữ vai trò quyết định
đối với sự phát sinh, tồn tại và và phát triển của xã hội đó. Tác giả Phạm
Thanh Bình đã chỉ ra rằng: "Tuy nhiên, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con
người mới được đặt vào vị trí trung tâm của toàn bộ hoạt động xã hội. Mọi
chiến lược, chính sách phát triển của Đảng ta đều nhằm tới mục đích vì con
người, cho con người" [3]. Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) với vai trò là
đại diện cho nhân dân, đã thể chế hóa ý chí và lợi ích của nhân dân thành
pháp luật, do đó bảo vệ trật tự XHCN, bảo vệ quyền công dân là một trong
những chức năng quan trọng của Nhà nước ta.
Trên tinh thần kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã quy định:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.
2. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của con người [50, khoản 1, 2 Điều 22]
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cũng đã được quy
định tại Điều 6 BLTTHS năm 2003 và trở thành nguyên tắc quan trọng xuyên
suốt toàn bộ quá trình TTHS. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo vệ pháp luật nói
chung và hoạt động chống tội phạm nói riêng vẫn cần thiết đặt ra vấn đề hạn
chế một số quyền công dân, nhằm bảo đảm trật tự chung của cả xã hội. Cụ thể
17
hơn, để công tác phát hiện tội phạm được nhanh chóng, chính xác, kịp thời xử
lý tội phạm và hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải cho phép các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế nào đó hạn chế
quyền và lợi ích của công dân, trong đó có các biện pháp ngăn chặn.
Theo Từ điển Tiếng Việt "ngăn chặn" là "chặn lại ngay từ đầu, không
để cho gây tác hại" [55]. Theo định nghĩa của Giáo trình của Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, biện pháp ngăn chặn được hiểu là biện pháp cưỡng chế
TTHS được quy định trong pháp luật TTHS, do người có thẩm quyền ở các
cơ quan tiến hành tố tụng hoặc các cơ quan khác được giao một số hoạt động
tố tụng áp dụng, công dân đối với bị can, bị cáo, người phạm tội tang, người
có lệnh truy nã hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành
vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội cũng như nhằm đảo bảo cho việc thi hành án [10, tr. 248].
1.1.1.2. Mục đích của biện pháp ngăn chặn
Mục đích của các biện pháp ngăn chặn là không cho tội phạm tiếp tục
xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện
tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trốn tránh sự trừng phạt
của pháp luật. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn nhằm tạo
điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án như không để
người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, thông cung
giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị
can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng… Như vậy, biện
pháp ngăn chặn không nhằm mục đích trừng trị như hình phạt mà nhằm mục đích
phòng ngừa và có thể làm giảm hậu quả của tội phạm gây ra, để làm rõ sự thật
khách quan của vụ án, mặc dù khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng có thể
hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của người bị áp dụng. Do đó, mọi nhận
thức áp dụng biện pháp ngăn chặn để trấn áp, trừng trị người bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn đều là không đúng; như quan niệm của nhà Luật học I.I. Karpes:
18
"Giải quyết việc lựa chọn áp dụng biện pháp ngăn chặn chính là thực hiện trách
nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội" [54, tr. 49] hay các tác giả Phan
Hữu Kỳ, Phạm Quang Mỹ là "có tác dụng trấn áp mạnh mẽ kẻ địch và các bọn
tội phạm khác, thỏa mãn được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng" [31].
1.1.1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Điều 79 BLTTHS năm 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn bao gồm:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm: Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm,
không để lọt tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều kiện kết
thúc hành vi phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm
rất cần thiết và cấp bách vì mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại cho một hoặc nhiều quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự
bảo vệ. Quy định áp dụng trong những trường hợp cụ thể như: Bắt người trong
trường hợp khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng một người nào đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm a
khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003); hoặc bắt người phạm tội quả tang khi phát
hiện một người đang thực hiện tội phạm (khoản 1 Điều 82 BLTTHS năm 2003).
- Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: Người đã
thực hiện xong hành vi phạm tội sau khi đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng
khởi tố với tư cách bị can hoặc đưa ra xét xử với tư cách bị cáo, mà có căn cứ
cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội nếu vẫn để họ tự do nên cần áp dụng các biện
pháp ngăn chặn. Cụ thể là: Bị can, bị cáo có những hành vi tích cực chuẩn bị
thực hiện tội phạm mới và là bất kỳ loại tội nào; Bị can, bị cáo có hành vi đe
dọa, trả thù người tố cáo, người làm chứng và có khả năng thực hiện sự đe
dọa đó; Bị can, bị cáo trong nhiều trường hợp là những phần tử có ý thức
chống đối chế độ sâu sắc, nhiều trường hợp lại là đối tượng côn đồ, hung hãn,
có tiền án, tiền sự, thuộc loại tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Căn cứ này được
thể hiện cụ thể trong quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người
trong trường hợp khẩn cấp; tạm giữ; tạm giam.
19
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử: Những biểu hiện của việc gây khó khăn cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử có thể là bị can, bị cáo trốn khỏi nơi cư trú; nhiều lần
không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng mà không có
lý do chính đáng; xóa bỏ dấu vết tội phạm; tiêu hủy chứng cứ; làm thay đổi tài
liệu liên quan đến tội phạm; mua chuộc người bị hại, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch; thông đồng cấu kết với nhau đối phó lại hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử… Căn cứ này được hiểu là bị can, bị cáo đã có
hành vi gây cản trở hoặc có khả năng thực hiện ngay tức khắc việc gây cản trở
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đối tượng để áp dụng căn cứ này
thường là bị can, bị cáo, người bị truy nã; Cũng có thể áp dụng đối với người
chưa có quyết định khởi tố bị can như một người thực hiện tội phạm và sau đó
bỏ trốn hoặc sau khi phát hiện dấu vết tội phạm trên người hoặc nơi ở của
người bị nghi thực hiện tội phạm và có căn cứ cho rằng người đó trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ, cụ thể là những trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội
quả tang theo quy định của BLTTHS.
- Để đảm bảo thi hành án: Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của
TTHS, phát huy hiệu lực của bản án được thi hành trong thực tế. Việc cản trở
thi hành án được thể hiện: bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng, không có nghề
nghiệp hoặc bị cáo có nhân thân xấu như có tiền án, tiền sự, đối tượng côn đồ
hung hãn,… Khi có căn cứ cho rằng bị cáo cản trở việc thi hành án thì có thể
áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn thích hợp như: Tạm giam; Cấm đi
khỏi nơi cư trú; Bảo lãnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
1.1.1.4. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn
Thứ nhất, các biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của nhà
nước XHCN trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm: Tội phạm trực tiếp
hoặc hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước,
chế độ kinh tế - chính trị và xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do,
20
danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu
tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm
tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết,
triệt để, không khoan nhượng.
Thứ hai, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả
của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông thường, người phạm
tội luôn tìm đủ mọi cách để có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội
lại vừa có thể che giấu, trốn tránh được sự phát hiện và trừng phạt của pháp
luật, do đó, cần thiết phải ngăn chặn kịp thời ngay từ đầu các hành vi thực
hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người
phạm tội. Như vậy, các biện pháp ngăn chặn góp phần hạn chế đến mức thấp
nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải
quyết vụ án.
Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các
quyền cơ bản của công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…; thể hiện tính ưu việt của chế
độ XHCN: Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp chăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục
kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu
quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân
đều bị xử lý nghiêm minh. Như vậy, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm
chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong TTHS là sự thể hiện tập trung và rõ
nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ XHCN của Nhà nước ta.
1.1.1.5. Các biện pháp ngăn chặn
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định các biện pháp ngăn chặn
bao gồm: Bắt người (với bốn trường hợp bắt: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
21
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người
có lệnh truy nã); Tạm giữ; Tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh; Đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Mỗi biện pháp ngăn chặn có những
quy định khác nhau về đối tượng, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, do đó tùy
từng trường hợp cụ thể để lựa chọn biện pháp ngăn chặn phù hợp sẽ mang lại
ý nghĩa tích cực và hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2. Thời hạn tố tụng hình sự
Pháp luật về TTHS đều có quy định về thời hạn trong từng giai đoạn tố
tụng cụ thể nhằm đảm bảo các hành vi tố tụng được thực hiện một cách chính
xác, khách quan. Trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự, BLTTHS đã
quy định về thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, đảm bảo mọi tội
phạm được phát hiện kịp thời để từ đó quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003, thời hạn này là
hai mươi ngày đối với sự việc đơn giản, hai tháng đối với vụ việc phức tạp. Thời
hạn điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2003
như sau: Không được quá bốn tháng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết
thúc điều tra. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ
án, trong thời hạn mười ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản
đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Trong suốt giai đoạn điều tra, Viện
kiểm sát thực hiện chặt chẽ việc kiểm sát điều tra của CQĐT, đồng thời thực
hiện một số hoạt động điều tra trong thời hạn mà pháp luật cho phép v.v
Có thể thấy rằng, ở mỗi giai đoạn TTHS, pháp luật đều quy định chặt
chẽ một thời hạn nhất định, không có hoạt động tố tụng nào lại không bị ràng
buộc bởi một thời hạn cụ thể. Việc quy định thời hạn tố tụng nhằm để các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có ý thức tinh thần trách
nhiệm về các hoạt động của mình đảm bảo đúng thời gian quy định, chống lại
sự tùy tiện và những biểu hiện vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng.
22
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành: Thời hạn TTHS bao gồm
hai loại: thời hạn của thủ tục tố tụng và thời hạn của các biện pháp ngăn chặn.
Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thời hạn của thủ tục tố tụng cụ thể
thông qua từng nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các
hoạt động tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự
đều phải được tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định. Mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng, nhưng
đồng thời có mối quan hệ với nhau trong quá trình tiến hành các hoạt động tố
tụng mà pháp luật cho phép. Cơ quan nào có thẩm quyền gì và thực hiện thẩm
quyền trong thời hạn như bao lâu, những người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm cụ thể nào. Ví dụ: Khi CQĐT ra lệnh bắt khẩn cấp
thì phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu
liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát
chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề
nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát
phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện
kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do
ngay cho người bị bắt [47, khoản 4 Điều 81].
Trong suốt quá trình tố tụng, để tiến hành các hoạt động giải quyết vụ
án được thuận lợi, chính xác, kịp thời, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thiết
phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên cơ sở các quy định của pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn cũng như thủ tục áp dụng các biện pháp đó. Mỗi biện
pháp ngăn chặn khi áp dụng lại có quy định bắt buộc riêng về thời hạn. Ví dụ
thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Trong
trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ,
nhưng không quá ba ngày [47, Điều 87].
Như vậy, thời hạn TTHS không chỉ là khoảng thời gian vật chất được
xác định để thực hiện hoạt động cần thiết, mà nó còn quy định cụ thể về trình
23
tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện các
hoạt động tố tụng đó, đồng thời là sự thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà
làm luật, xác định những thời hạn cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng.
Thời hạn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong TTHS, nhưng
BLTTHS năm 2003 lại không quy định khái niệm về thời hạn TTHS. Điều 96
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định riêng về cách tính thời hạn trong TTHS. Từ
những quy định tại Điều 96 BLTTHS và từ thực tiễn hoạt động TTHS có thể
đưa ra khái niệm về thời hạn TTHS như sau: Thời hạn trong TTHS chính là
giới hạn, thời gian dành cho các chủ thể của TTHS thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của pháp luật; là khoảng thời gian
được ấn định để chủ thể TTHS phải thực hiện hoặc kết thúc một hoạt động tố
tụng nào đó và thời hạn cũng là một tiêu chí để xác định trách nhiệm của các
chủ thể TTHS.
1.2. THỜI HẠN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự
Từ phân tích ở trên cho thấy, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn
trong TTHS thuộc phạm vi, giới hạn của thời hạn trong TTHS. Các quy định
nghiêm ngặt của pháp luật TTHS về thời hạn đối với từng biện pháp ngăn
chặn là thực sự cần thiết để đảm bảo việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
được chính xác, khách quan và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng. Cũng như các loại thời hạn tố tụng khác, thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác
để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng thực hiện việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với cá nhân, tổ chức,
người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn do BLTTHS quy định.
Theo quy định của BLTTHS thì các biện pháp ngăn chặn trong
TTHS sự bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
24
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Vì vậy thời hạn của các biện
pháp ngăn chặn trong TTHS chính là thời gian, giới hạn của việc bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm.
Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được coi là một
loại thời hạn đặc biệt quan trọng, vì việc quy định thời hạn này một cách hợp
lý không chỉ mang lại sự khách quan, công bằng mà còn xác định được một
cách chính xác nhất thời gian để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng thực hiện được các hoạt động tố tụng cần thiết cho toàn bộ quá
trình tố tụng, giúp quá trình giải quyết vụ án được thuận lợi, góp phần nâng
cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn ngay
từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn
cho việc xử lý người phạm tội; đồng thời đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng tối đa
các quyền cơ bản của công dân, hạn chế việc lạm quyền, xâm phạm quyền tự
do, dân chủ của công dân. Việc xác định một khoảng thời gian hợp lý, chính
xác khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn thể hiện sự nghiêm minh của
pháp luật, ngăn chặn các biểu hiện cản trở hoặc gây khó khăn cho toàn bộ quá
trình tố tụng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có triệu tập của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Do đó, việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn trong pháp luật TTHS là vô cùng quan trọng và cần thiết, góp phần thể
hiện sự dân chủ, tính ưu việt của Nhà nước XHCN.
Có thể đưa ra khái niệm về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn như sau:
Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS là một trong những thời
hạn của TTHS, là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời
điểm khác để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng phải tuân thủ khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn
được quy định trong BLTTHS.
25
1.2.2. Căn cứ quy định thời hạn các biện pháp ngăn chặn trong
luật tố tụng hình sự
Khi xác định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, cần
thiết phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Việc áp dụng đúng thời
hạn của các biện pháp ngăn chặn giúp quá trình giải quyết vụ án được chính
xác, đúng đắn, khách quan, tránh làm oan người vô tội hay giam giữ người
trái pháp luật. Do đó, để quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong
TTHS, cần phải dựa trên những căn cứ sau:
* Tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ án
Căn cứ này dựa trên việc quy định những hành vi nào là nguy hiểm
đáng kể cho xã hội, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ thì mới được coi là tội phạm. Khác với những hành vi không phải là
tội phạm, được quy định trong các đạo luật khác. Khi đã xác định được hành
vi là tội phạm, phải căn cứ vào mức độ gây nguy hại cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự (BLHS) về 4 loại tội: tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Ví dụ, thời hạn tạm giam bị can để điều tra đối với tội phạm ít
nghiêm trọng là không quá hai tháng, tội phạm nghiêm trọng là không quá ba
tháng, tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng là không quá bốn
tháng [47, khoản 1 Điều 120]. Việc quy định các thời hạn của biện pháp ngăn
chặn căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ
án có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn áp dụng. Đối với những vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp, có đồng phạm, do nhiều người thực hiện, gây
nguy hiểm lớn cho xã hội,… thì cần thiết phải tiến hành nhiều hoạt động điều
tra để xác minh, thu thập chứng cứ, do đó, thời hạn tạm giam để điều tra phải
dài hơn để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thực hiện đủ các
hoạt động điều tra cần thiết, tìm ra sự thật khách quan của vụ án, chứng minh
được tội phạm và người phạm tội.