Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự -phương hướng hoàn thiện theo tinh thần mới của Hiến pháp 2013 về Quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.62 KB, 104 trang )

MỤC LỤC

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

A – PHẦN MỞ ĐẦU:
Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................4
Tình hình nghiên cứu..............................................................................6
Mục đích nghiên cứu...............................................................................7
Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................8
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................8
Phương pháp nghiên cứu ........................................................................8
Ý nghĩa của đề tài....................................................................................9
Cấu trúc của đề tài...................................................................................9
B – PHẦN NỘI DUNG:

CHƯƠNG I: NHẬN THỨC VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ.
1. Quyền con người và vấn đề đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự.....
1.1. Khái niệm và những yêu cầu đặt ra về quyền con người trong tố tụng
hình sự......................................................................................................... 10
1.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong Hiến pháp năn 2013
..................................................................................................................... 14
2. Nhận thức về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam................


2.1. Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Việt Nam....................... 21
2.2. Yêu cầu đặt ra về đảm bảo quyền con người trong áp dụng các biện
pháp ngăn chặn của Luật tố tụng hình sự................................................... 31
Kết luận chương I ...................................................................................... 32

1


CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Những vấn đề liên quan đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong Tố
tụng hình sự Việt Nam............................................................................................
1.1. Tình hình và đặc điểm của tội phạm ở Việt Nam.................................. 35
1.2. Thực tiễn đảm bảo quyền con người trong Tố tụng hình sự Việt Nam..37
2. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và đảm bảo quyền con
người trong quá trình thực thi ở Việt Nam............................................................ 48
3. Nhận xét, đánh giá.............................................................................................
3.1. Những kết quả đạt được....................................................................... 53
3.2. Những hạn chế và vướng mắc............................................................. 59
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và vướng mắc................................. 71
Kết luận chương II...................................................................................... 75
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Phương hướng hoàn thiện và thực thi các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam để đảm bảo quyền con người theo tinh thần Hiến pháp 2013.. 77
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC trong TTHS.................... 81
C – PHẦN TỔNG KẾT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 101
PHỤ LỤC........................................................................................................... 102


2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:

BKXPVTT
BLTTHS
BPNC
CAND
QCN
SĐVT
TAND
THTT
TTHS
VKS
VKSNDTC

Bất khả xâm phạm về thân thể
Bộ luật Tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn
Công an nhân dân
Quyền con người
Suy đoán vô tội
Tòa án nhân dâ
Tiến hành tố tụng
Tố tụng Hình sự
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân tối cao


3


A - PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới đã có rất nhiều văn bản pháp lý thể hiện tương đối toàn diện

những chuẩn mực quốc tế về QCN như: Tuyên ngôn thể giới về nhân quyền
( 1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) ( ICCPR) và
nhiều văn kiên khác như “Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị
giam hay cầm tù dưới bất kì hình thức nào” được Đại hội đông Liên hợp quốc
thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 ( bao gồm 39 nguyên tắc cụ
thể); “Các quy tắc của Liên Hợp Quốc”…
Tham gia các Công ước quốc tế, trong đó có các công ước về nhân quyền là
một chủ trương thường xuyên và nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Ngoài việc
gia nhập bốn Công ước quốc tế Giơ-ne-vơ (1949) về bảo hộ nạn nhân chiến tranh,
đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh năm 1957, Việt Nam chỉ đủ điều kiện
tham gia các Công ước quốc tế về nhân quyền sau khi trở thành thành viên Liên
hợp quốc năm 1977. Ngày 9/6/1981, Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về xóa
bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc. Ngày 27/11/1981, Việt Nam ký Công ước
quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; tháng 2/1982 chính
thức phê chuẩn Công ước này. Ngày 24/9/1982, Việt Nam gia nhập Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội và Công ước quốc tề về các quyền dân
sự chính trị. Tháng 1/1990, Việt Nam ký Công ước về quyền trẻ em và phê chuẩn
ngày 20/2/1990. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và thứ 2 trên thế giới trở
thành thành viên của Công ước này. Trong năm 2013 và 2014, Việt Nam phê chuẩn
Công ước về chống tra tấn và Công ước về quyền của người khuyết tật. Ngoài các

điều ước quốc tế cơ bản về QCN trên, Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế
khác có liên quan đến lĩnh vực bảo vệ QCN và luật nhân đạo quốc tế như Nghị
định thư bổ sung Công ước Genève về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột
4


quốc tế (tham gia ngày 28/8/1981), Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt
chủng và Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội ác Apartheid (tham gia ngày
9/6/1981)…
QCN cũng được coi là một trong những vấn đề trọng tâm tại Đại Hội đồng
Liên minh Nghị viện Thế giới 132 (IPU) diễn ra tại thủ đô Hà Nội từ ngày 28/31/4/ 2014 - một sự kiện đặc biệt quan trọng, đánh dấu mốc sang trang mới trong
lịch sử phát triển 125 năm của tổ chức liên minh nghị viện lớn nhất và lâu đời nhất
thế giới. Với 166 thành viên và 10 thành viên liên kết; hơn 1.600 đại biểu quốc tế,
trong đó có khoảng 50 vị Chủ tịch Quốc hội và 50 Phó Chủ tịch Quốc hội. IPU là
trung tâm của hoạt động ngoại giao nghị viện khắp thế giới, hoạt động nhằm mục
đích vì hòa bình, dân chủ hợp tác giữa các dân tộc và nghị viện các nước.
Các Ủy ban thường trực của IPU đã thông qua các Nghị quyết gồm Nghị
quyết Chiến tranh mạng – mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh
quốc tế; Nghị quyết Định hình cơ chế mới về quản trị nguồn nước: Thúc đẩy hành
động của Nghị viện về vấn đề nước; Nghị quyết về Luật pháp quốc tế trong vấn đề
chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và QCN.
Ngày 01/01/2014, Hiến Pháp 2013 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có
hiệu lực thi hành, thể hiện những bước tiến mới trong ghi nhận QCN và quyền
công dân; tạo một nền tảng pháp lý vững chắc cho việc thực hiện QCN, quyền
công dân trên thực tế. Qua đó đòi hỏi sự thay đổi phù hợp của các Bộ luật khác để
phù hợp với Hiến pháp 2013 về bảo vệ QCN. Tuy nhiên, qua gần 12 năm thi hành,
BLTTHS năm 2003 chưa có sự bổ sung, sửa đổi. Quy định của BLTTHS 2003 về
áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự bộc lộ nhiều hạn chế như: còn có quy định
chưa phù hợp với tiêu chí quốc tế về nhân quyền, lạm dụng trong quá trình giải
quyết vụ án của cơ quan THTT, người THTT,… chưa đáp ứng được yêu cầu của

Hiến pháp 2013 về đảm bảo QCN trong áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự.
5


BPNC sẽ hạn chế một số quyền của công dân, QCN của người bị áp dụng
biện pháp này. Tuy nhiên, đây là một chế định quan trọng trong BLTTHS. Các
BPNC được qui định trong BLTTHS đã phát huy tác dụng giúp cho việc giải quyết
vụ án hình sự được kịp thời, nhanh chóng. Tuy nhiên, thời gian qua việc áp dụng
các biện pháp này trong thực tế còn nhiều sai sót, vướng mắc; cho nên việc nghiên
cứu một cách tổng hợp và sâu sắc các BPNC trong Tố tụng hình sự là hết sức cần
thiết; đặc biệt hơn nữa là trong vấn đề bảo đảm QCN theo tinh thần mà Hiến pháp
2013 đã nêu và những công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.
Xuất phát từ tình hình thực tế cùng với kiến thức trong quá trình nghiên cứu
học tập, nhóm chúng em thực hiện nghiên cứu đề tài “Áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong Tố tụng hình sự - Định hướng hoàn thiện theo tinh thần mới
của Hiến pháp 2013 về quyền con người” .
2.

Tình hình nghiên cứu
Trong những năm áp dụng BLTTHS 2003 nói chung cũng như quy

định về BPNC nói riêng, có rất nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu thể hiện ý kiến
đánh giá về thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị. Đặc biệt là từ
khi Hiến pháp 2013 được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua
vào ngày vào sáng ngày 28 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2014, sau đó là thực hiện Kế hoạch xây dựng dự án BLTTHS do Quốc hội
giao nhiệm vụ cho Ban Soạn thảo BLTTHS (sửa đổi), có một số công trình nghiên
cứu đưa ra ý kiến kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện BLTTHS 2003 để phù hợp
với tinh thần của Hiến pháp 2013 để đảm bảo QCN khi áp dụng các BPNC trong tố
tụng hình sự.

BPNC chính là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều tài liệu, công trình
nghiên cứu như cuốn sách “Chế định các BPNC theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
– Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả TS. Nguyễn Trọng Phúc(2003),
Luận án tiến sỹ: “Các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt
Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” (2005) của tác giả Nguyễn Văn
6


Điệp, Luận văn thạc sĩ “ Đảm bảo QCN trong áp dụng các BPNC của tố tụng hình
sự”(2004) của tác giả Lại Văn Trình.... Bên cạnh đó còn có rất nhiều bài viết khác
về BPNC được đăng trên các tạp chí Luật học, Tạp chí TAND, Tạp chí Kiểm sát,
Khoa học Pháp lý,... như: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về những
BPNC” của tác giả Mai Bộ (2007); “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC” của tác giả Vũ Gia Lâm (2012); “Những
vướng mắc trong việc áp dụng các BPNC theo quy định của BLTTHS và kiến nghị
sửa đổi bổ sung” của tác giả Phùng Văn Tài (2012); “ Hiến pháp 2013 và việc
hoàn thiện BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam trong TTHS” của tác giả Nguyễn Ngọc
Chi (2014),….
Thực tiễn nghiên cứu cho thấy: các tài liệu và công trình nghiên cứu này có
đề cập đến việc dựa trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng các BPNC ở nước ta
để từ đó đưa ra kiến nghị bổ sung, sửa đổi BLTTHS 2003 cho phù hợp với tình
hình mới nhưng chưa đề cập được một cách có hệ thống các lý luận cũng như
phương hướng hoàn thiện vấn đề áp dụng BPNC trong BLTTHS theo tinh thần
Hiến pháp 2013 về QCN. Vì vậy, nhóm tác giả lựa chọn đề tài “Áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự -phương hướng hoàn thiện theo tinh
thần mới của Hiến pháp 2013 về QCN” với mong muốn tạo ra một cơ sở tham
khảo để đề xuất hoàn thiện BLTTHS tới đây về vấn đề áp dụng các BPNC theo
tinh thần của Hiến pháp 2013 về đảm bảo QCN, góp phần giải quyết yêu cầu cấp
bách về đổi mới tư pháp ở nước ta.
3. Mục đích nghiên cứu

Qua việc làm sáng tỏ một cách có hệ thống các cơ sở lý luận cũng như đánh
giá thực tiễn, đề xuất những phương hướng hoàn thiện BLTTHS 2003 về áp dụng
BPNC nhằm góp phần giải quyết yêu cầu về cải cách tư pháp, cho phù hợp với tinh
thần của Hiến pháp 2013 – cơ sở pháp lý của các Luật.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
7


- Phân tích làm rõ những quan điểm, luận điểm về vấn đề QCN được nêu ra
trong Hiến pháp 2013 làm tiền đề cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực tiễn
- Đánh giá thực trạng áp dụng các BPNC trong thực tiễn để có cái nhìn tổng
quát cho vấn đề cần nghiên cứu, những vướng mắc, những vấn đề bất cập, bất hợp
lý khi áp dụng trong thực tế và những nguyên nhân điều kiện dẫn đến những tồn tại
đó
- Đưa ra kiến nghị phương hướng hoàn thiện các quy định về áp dụng các
BPNC trong TTHS theo tinh thần mới của Hiến pháp 2013 về QCN.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về QCN
trong Hiến pháp và QCN trong hoạt động tố tụng nói chung và trong áp dụng các
BPNC nói riêng.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu việc áp dụng BPNC trong phạm vi
cả nước, thời gian chú trọng vào giai đoạn 2000 đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tường Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu
tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như : phường pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp, khảo sát thực tế, phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia…
7. Ý nghĩa của đề tài
- Về lý luận: kết quả của đề tài là một đóng góp tích cực cho việc hoàn thiện

việc áp dụng các BPNC trong thực tiễn; góp phần xây dựng một cái nhìn mới, định

8


hướng mới cho việc áp dụng pháp luật theo tinh thần mới của Hiến pháp 2013 về
QCN.
- Về thực tiễn: Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan kiến nghị, đóng góp ý
kiến sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện BLTTHS trong thời gian tới theo Kế hoạch xây
dựng dự án BLTTHS do Quốc hội giao nhiệm vụ cho Ban Soạn thảo BLTTHS (sửa
đổi).
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần mục lục, nội dung chính của đề tài
được cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1. Nhận thức chung về bảo đảm quyền con người trong áp dụng các
BPNC.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng các BPNC trong TTHS Việt Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
BPNC trong TTHS thời gian tới.

9


B – PHẦN NỘI DUNG
Chương I:
NHẬN THỨC CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.


1.1.1.

Quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
1.1. Khái niệm và những yêu cầu đặt ra về quyền con người trong
tố tụng hình sự
Khái niệm quyền con người
Con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên QCN, quyền
công dân luôn luôn trở thành nội dung thu hút được sự quan tâm cả về phương diện
lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mọi quốc gia, từng khu vực và
mang tính toàn cầu. Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền tự
do, bình đẳng…. là những quyền cơ bản của con người. QCN là thành quả phát
triển của lịch sử lâu dài sự nghiệp đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo
thiên nhiên của toàn nhân loại. Bàn về QCN (hay còn gọi nhân quyền) có nhiều
quan niệm khác nhau. Trường phái pháp luật tự nhiên cho rằng: QCN là đặc quyền
tự nhiên. Đặc quyền tự nhiên này do pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp
luật thực định. Quan niệm khác xem con người cũng như QCN trong tổng hoà các
mối quan hệ xã hội. Theo quan niệm này, nhân quyền là một giá trị nhân loại, đồng
thời có tính lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới
qua các thời đại khác nhau.
Học thuyết Mác-Lênin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư tưởng
nhân văn chân chính nhất của loài người, là sự kế thừa một cách biện chứng giá trị
tinh hoa của nhân loại về con người và QCN. Các Mác đã xuất phát từ con người là
một thực thể thống nhất, một “sinh vật - xã hội ”. Do đó QCN là sự thống nhất biện
chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền xã hội.”
10


Theo Từ điển tiếng Việt 1992, quyền là: “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận
cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Như vậy, có thể hiểu QCN là những
điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho họ được hưởng. Con người là một

thực thể tự nhiên - xã hội, là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội, cho
nên QCN cũng vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội. Do con người là một
thực thể sinh học xã hội, cho nên QCN vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc
thù. Tính phổ biến của QCN có nghĩa QCN được áp dụng phổ biến mọi nơi, cho
mọi đối tượng. Tính đặc thù của QCN có nghĩa, quyền này ở mỗi quốc gia, mỗi
lãnh thổ do trình độ phát triển khác nhau mà có đặc điểm riêng phù hợp với điều
kiện của quốc gia, lãnh thổ đó. QCN mang tính xã hội, nên trong xã hội có sự phân
chia giai cấp nên nó vừa mang tính giai cấp sâu sắc, vừa là một giá trị của nhân
loại. Trong chủ nghĩa xã hội có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích
tập thể và lợí ích toàn xã hội. Lợí ích cá nhân là mục tiêu, động lực của sự phát
triển xã hội, đồng thời bảo đảm lợi ích của tập thể, của cả cộng đồng xã hội.
QCN có mối liên hệ mật thiết với quyền công dân. C.Mác cho rằng QCN và
quyền công dân luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Quyền công dân chính là QCN trong một xã hội cụ thể, trong một
chế độ chính trị - xã hội nhất định với một nền pháp luật cụ thể do Nhà nước đó
thừa nhận quy định.
Có rất nhiều văn bản mang danh là tiếng nói về nhân quyền nhưng văn bản
chung nhất, đại diện cho sự thỏa thuận về QCN trong các khu vực, hiến pháp và
luật pháp quốc gia, mang tính quốc tế sâu sắc chính là Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền được Đại hội đồng Liên hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại
Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền là mộtkhuôn mẫu
chung cần đạt tới của mọi quốc gia và mọi dân tộc. Tinh thần của bản Tuyên ngôn
là dùng truyền đạt và giáo dục để nỗ lực thúc đẩy các quốc gia thành viên Liên
Hợp Quốc tôn trọng các QCN cơ bản được đưa ra trong Tuyên ngôn. Theo đó, con
11


người có ba nhóm quyền cơ bản bao gồm quyền dân sự, quyền chính trị và quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa.
Quyền dân sự bao gồm: quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà

nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng nam nữ; quyền tự do ngôn luận; tự do báo
chí; quyền được thông tin; quyền tự do tín ngưỡng.
Quyền chính trị bao gồm: quyền tự do đi lại và cư trú trong nước; quyền ra
nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền
được luật pháp bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện
báo, quyền khiếu nại, tố cáo v.v..
Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội gồm: quyền lao động; quyền tự do kinh
doanh; quyền sở hữu hợp pháp và thừa kế; quyền học tập; quyền nghiên cứu, phát
minh, sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền được bảo vệ hôn nhân và gia
đình; quyền trẻ em; quyền người già…
1.1.2.

Yêu cầu đặt ra về đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự.

Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước quốc tế
về QCN , trong đó phải kể đến Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966 (ICCPR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội,và văn hóa năm
1966 (ICESCR); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ năm 1979 (CEDAW),.... Theo các Công ước này, QCN trong mọi lĩnh vực
phải được các quốc gia tôn trọng và bảo vệ, bao gồm cả các quyền cần được đảm
bảo bởi pháp luật hình sự và pháp luật TTHS như quyền sống, quyền xin đuợc ân
giảm hoặc thay đổi mức hình phạt, quyền không bị tra tấn, đối xử một cách tàn ác,
vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm,không bị bắt giữ và giam cầm vô căn cứ,...
Các Công ước này cũng đòi hỏi các quốc gia thành viên phải tiến hành các biện
pháp lập pháp cần thiết nhằm đảm bảo ngày càng đầy đủ các QCN. Theo đánh giá
tổng kết của Báo cáo nghiên cứu rà soát quy định pháp luật Việt Nam về các quyền
dân sự, chính trị do Vụ pháp luật Quốc tế thì: “Việc làm hài hòa giữa pháp luật
quốc gia với pháp luật quốc tế nói chung và với các yêu cầu của điều ước Quốc tế
12



về QCN nói riêng là hết sức cần thiết không chỉ để thực hiện đầy đủ hơn các nghĩa
vụ quốc tế mà Việt Nam cam kết mà còn là đòi hỏi thực tiễn trong nước nhằm bảo
đảm ngày càng tốt hơn QCN, quyền tự do, dân chủ của công dân”.
Như vậy, yêu cầu trong thời đại mới đạt ra yêu cầu Việt Nam cần thiết phải
có các biện pháp để có thể đảm bảo QCN, mà cơ sở pháp lý cho những biện pháp
đó chính là phải Hiến pháp và Luật phù hợp với các yêu cầu đó. Đặc biệt là trong
các quy định của pháp luật tố tụng về TTHS. TTHS là cách thức, trình tự tiến hành
các hoạt động của các cơ quan THTT, người THTT, người tham gia tố tụng, của
các cơ quan Nhà nước khác và các tổ chức xã hội để giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự. Luật TTHS được xem là “luật hình thức vì nó nói về
cách thức thực hiện và hoạt động của các cơ quan, người THTT nhằm xác định tội
phạm, mức độ trách nhiệm của tội phạm cùng với Luật Hình sự - “luật nội dung”,
quy định về tội phạm và hình phạt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là lĩnh
vực mà các QCN có nguy cơ bị vi phạm nhiều nhất, thì việc quy định quyền tố
tụng đi đôi với nghĩa vụ tố tụng của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm cho công dân thực hiện các quyền tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong lĩnh vực tố tụng, để giúp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có điều kiện
phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật, tội phạm vì lợi ích chung của toàn xã hội,
cộng đồng và của người khác, pháp luật cần có một số quy định hạn chế đến QCN,
quyền công dân. Yêu cầu đặt ra trong lĩnh vực này chính là phải thực hiện những
chế định cần thiết để phục vụ cho các hoạt động tố tụng, đảm bảo xử lý hành vi vi
phạm pháp luật, tội phạm nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được QCN và quyền công
dân.
Nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong Hiến pháp năm 2013.
Mọi Nhà nước hiện đại đều ghi nhận QCN trong hiến pháp. Hiến pháp là
1.2.

đạo luật cao nhất của một quốc gia , là cơ sở để quốc gia hoàn thiện hệ thống pháp

luật, điều hành mọi hoạt động cuả quốc gia... Việt Nam cũng như vậy, QCN đã
sớm được ghi nhận trong bản Hiến pháp năm 1946 và dần được khẳng định mạnh
13


mẽ và phù hợp với xu thế chung của toàn cầu về bảo đảm QCN qua những bản
Hiến pháp sau đó.
Hiến pháp năm 2013 – Bản Hiến pháp mới nhất của nước CHXHCN Việt
Nam ra đời trong bối cảnh đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới. Trong bối
cảnh đó, tư duy pháp lý cũng có những bước phát triển mới, các quy định mang
tính cương lĩnh, chung chung giảm dần và cân nhắc nhiều đến tính khả thi. Quyền
công dân là những lợi ích pháp lý được các nhà nước thừa nhận và bảo vệ trong
pháp luật cho những người có quốc tịch của nước mình đã ghi nhận hai nguyên tắc
đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm QCN được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà
nước và công dân đó là:
Nguyên tắc thứ nhất là, các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và
xã hội phải được tôn trọng (Điều 14).
Nguyên tắc thứ hai là, Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo thực hiện các quyền
và nghĩa vụ pháp lý của công dân (Điều 3).
Từ hai nguyên tắc được quy định tại các Điều 3 và Điều 14 và để đảm bảo
thực hiện hai nguyên tắc này trên thực tế, Hiến pháp 2013 đã quy định cơ chế thực
hiện như sau:
- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được hệ thống cơ quan quyền lực
Nhà nước đảm bảo thực hiện. Tại điều 6 Hiến pháp 2013 đã quy định: “Nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông
qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước, cơ quan đại diện cao nhất do
nhân dân bầu ra, là cơ quan bảo đảm thực hiện các QCN, quyền và nghĩa vụ công
dân. Quốc hội bảo đảm QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bằng các
phương thức sau:

14


+ Quốc hội xây dựng Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, phản ánh ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, thể chế hoá các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Đây là hoạt động xác lập mối quan hệ cơ bản hữu cơ gắn bó giữa Nhà nước và
công dân. Các mối quan hệ được Hiến pháp ghi nhận là cơ sở pháp lý cao nhất cho
sự ra đời của các mối quan hệ pháp lý cụ thể giữa Nhà nước và công dân. Thực
hiện giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của tất cả các chủ thể.
Nhất là các chủ thể nắm giữ quyền lực Nhà nước. Là cơ quan đại diện cho ý chí
của nhân dân thực hiện quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương đại diện
cho ý chí, nguyên vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Với vị trí đó,
HĐND các cấp cũng là yếu tố rất quan trọng trong cơ chế pháp lý đảm bảo thực
hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân trên lãnh thổ địa phương mình.
- Quyền và nghĩa vụ pháp lý của con người, của công dân được đảm bảo
thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành pháp. Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp
là cơ quan chấp hành và điều hành của cơ quan quyền lực, là chủ thể có trách
nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của công dân trở
thành hiện thực. Là cơ quan trực tiếp thực hiện công tác quản lý Nhà nước – điều
hành xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, ANTT… Trong đó cơ quan công an (cơ quan điều tra) có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ trật tự pháp luật, pháp chế XHCN và trong hoạt động tố tụng
hình sự.
- Quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể được bảo đảm qua hệ thống cơ quan tư
pháp. Toà án và VKS là những cơ quan có chức năng, nhiệm vụ khác nhau (Toà án
có chức năng xét xử và VKS có chức năng kiểm tra, giám sát) nhưng đều là các cơ
quan “bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, tập thể và tính mạng, danh dự, nhân phẩm của mọi công dân”.
15



Trong lĩnh vực TTHS, Hiến pháp 2013 cũng đã quy định một số nội dung
quan trọng làm cơ sở, căn cứ để xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể của pháp
luật HS trong việc bảo vệ QCN, quyền công dân trong thực tiên. Cụ thể là:
-

Hiến pháp 2013 là Hiến pháp tiến bộ nhất để đảm bảo QCN trong TTHS.
Hiến pháp 2013 với sự thay đổi đột phá về tư duy pháp lý trong vấn đề đảm
bảo QCN khi ghi nhận bảo vệ QCN bằng việc quy định chương 2 “QCN, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Hiến pháp đã ghi nhận và mở rộng thêm nhiều
QCN, quyền công dân. Trong đó có các quyền đáng chú ý trong TTHS, cụ thể là:

+

Hiến pháp 2013 đã quy định rõ hơn về quyền bất khả xâm phạm về thân thể
(BKXPVTT) của con người.
Quyền BKXPVTT là một trong các quyền cơ bản của con người, được ghi
nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948, công ước quốc tế
về quyền dân sự và chính trị năm 1966 và được Việt Nam cam kết thực hiện thông
qua sự gia nhập Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1982. Quyền
này được Hiến pháp 2013 ghi nhận tại điều 20: “1.Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kì hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; 2.Không ai bị bắt nếu không
có quyết định vủa TAND, quyết định phê chuẩn của VKS Nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người phải do luật định”. Theo quy định
này, Hiến pháp 2013 đã thể hiện được những nội dung tương đối toàn dện những
chuẩn mực quốc tế về QCN được quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế gồm:
thứ nhất, quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam, giữ tùy tiện; thứ hai, quyền được

bảo vệ không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; thứ ba, quyền
được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước đi tự do;
thứ tư, để đảm bảo quyền BKXPVTT thì việc bắt, giam, giữ người do luật định.
16


+

Hiến pháp 2013 mở rộng quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giam, tạm giữ,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo trong TTHS. Các chủ thể này thực hiện quyền bào chữa làm sáng tỏ
những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho mình. Họ có thể tự bào chữa, cũng có thể nhờ người khác bào chữa
nhưng không làm mất đi quyền tự bào chữa của họ. Hiến pháp 2013 đã quy định
quyền này tại Khoản 4, Điều 31 của Hiến pháp 2013: “người bị bắt, bị tạm giữ,
tạm giam (...) có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người bào chữa khác” như
vậy, một người từ khi bị bắt đã có quyền bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Quyền này cùng với quyền BKXPVTT và nguyên tắc SĐVT theo quy định
của Hiến pháp 2013 sẽ góp phần tránh được những oan sai đáng tiếc trong hoạt
động TTHS.
- Hiến pháp 2013 đã làm rõ nguyên tắc suy đoán vô tội.
SĐVT là một trong những nguyên tắc cơ bản được đánh giá là thành tựu vĩ
đại của văn minh pháp lý trong việc bảo đảm QCN và được ứng dụng rộng rãi
trong nền khoa học pháp lý, được rất nhiều nước trên thế giới ứng dụng. Nguyên
tắc này được công nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền năm 19848, Công ước quốc
tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc. Việt Nam là một
thành viên của Liên Hợp quốc từ năm 1948 và gia nhập Công ước quốc tế về
quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp quốc năm 1982. Việt Nam đã đem nguyên
tắc ấy vào trong bản Hiến pháp của mình.. Nội dung của nguyên tắc SĐVT được

quy định tại Điều 31 Hiến pháp 2013 như sau:
“1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời,trong thời hạn luật
định, công bằng, công khai. Trướng hợp xét xử kín theo quy định của pháp luật thì
việc tuyên án phải được công khai.
17


3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
4. Người bị bắt tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, tạm giam, tạm giữ,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị
xử lý theo pháp luật”.
Theo Khoản 1 Hiến pháp 2013: một người bị buộc tội bị coi là có tội thì
phải đảm bảo 2 điều kiện: 1) phải chứng minh hành vi phạm tội của người đó theo
một trình tự tố tụng do pháp luật quy định, 2) có bản án của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Quy định này đảm bảo tính chặt chẽ với mục đích QCN không bị tước đi
hay hạn chế một cách vô lý khi mà người đó chưa phải là tội phạm.
Quyền được đưa ra xét xử của một người bị nghi là thực hiện tội phạm
cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan THTT phải chứng minh điều tra
hành vi phạm tội của người đó theo một trình tự theo luật định và phải nhanh
chóng đưa ra Tòa án xét xử cho đúng thời hạn, việc tuyên án phải công khai. Việc
ghi nhận nguyên tắc SĐVT nhằm khắc phục định kiến của các cơ quan THTT đối
với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo; đồng thời còn
tạo điều kiện để những người này thực hiện quyền bào chữa của mình.
Hiến pháp 2013 quy định: “không ai bị kết án hai lần vì một tội” thể hiện

kĩ luật lập hiến mới, tiếp cận với các chuẩn mực khoa học pháp lý quốc tế, thể hiện
việc tôn trọng và thực hiện Công ước quốc tế 1966 và đặc biệt là sự nỗ lực tôn
trọng và đảm bảo QCN của Đảng và Nhà nước ta.

18


Nguyên tắc SĐVT có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa bởi vì nếu như một người nếu như bị coi là có tội ngay từ đầu thì việc thực
hiện quyền bào chữa chỉ còn mang tính hình thức. Nắm được vấn đề đó, Hiến pháp
2013 đã khẳng định mạnh mẽ quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử với sự lựa chọn sự tự bào chữa, nhờ giúp đỡ bào
chữa với người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình và chứng
minh sự vô tội của mình.
Nguyên tắc SĐVT có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề đảm bảo QCN
trong hoạt động tố tụng nói chung và áp dụng các BPNC. Cụ thể là: trước hết
nguyên tắc này đáp ứng yêu cầu chứng minh – mọi sai lầm trong việc chứng minh
một người có tội hay là không có tội có hậu quả rất nghiêm trọng nhiều khi phải trả
giá bằng sinh mạng của con người. Nếu chỉ đơn thuần chứng minh theo hướng suy
đoán có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi các hoạt động tố tụng chỉ đơn thuần là bắt rồi
ra bản án đối với họ. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là có tội rất
nguy hiểm, có thể dẫn đến việc áp dụng tràn lan, thiếu căn cứ các BP cưỡng chế
nói chung và các BPNC nói riêng, chà đạp lên QCN mà nhiều trường hợp dẫn đến
oan sai. Lúc đó, kể cả họ có được bồi thường thì chẳng qua cũng chỉ là một phần,
không thể bù đắp hết những thiệt thòi mà họ và cả gia đình họ phải chịu đựng. Như
trong vụ oan sai chấn động cả nước của Ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang,
trong 10 năm bị kết án oan của mình, ông đã bị bức cung, nhục hình, mất đi tự do
và danh dự, vợ và người thân ông đã mất bao công sức và tiền của đi kêu oan và tự
đi tìm đúng người phạm tội với sự suy sụp về sức khỏe và tinh thần, các con không
thể học hành đến nơi đến chốn vì mang tiếng có ông bố là tội phạm giết người. Bên

cạnh đó, nguyên tắc SĐVT còn bảo vệ được quyền của người bị tình nghi, bị can,
bị cáo. Hoạt động TTHS bao gồm hai nhiệm vụ: bảo vệ xã hội chống lại những
hành vi xâm hại từ phía tội phạm và bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự
xâm hại QCN từ phía công quyền. Nguyên tắc này đem tới sự cân bằng trong hoạt
động TTHS với một bên là các Cơ quan THTT đại diện cho quyền lực Nhà nước
19


với một bên yếu thế là người bị tình nghi, bị can, bị cáo: một người luôn vô tội khi
Nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh
họ có tội. Như vậy, có thể khẳng định nguyên tắc SĐVT là một nguyên tắc tiến bộ,
đảm bảo QCN trong các hoạt động TTHS, trong đó có việc áp dụng các BPNC, đặt
ra yêu cẩu cao hơn đới với những người THTT: không được áp đặt ý chí chủ quan
của mình để kết tội nghi can.
-

Hiến pháp 2013 ghi nhận nguyên tắc tranh tụng.

Nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc đảm bảo hoạt động tranh tụng trong xét
xử, các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận để bác bỏ
một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia, phần trang tụng này là cơ sở để
Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung cụ án và đưa ra phán quyết cuối cùngđảm bảo
tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xác định tầm quan trọng
của hoạt động trang tụng, Khoản 5, Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên
tắc trang tụng trong xét xử được bảo đảm”. Việc hiến định nguyên tắc này thể hiện
bước tiến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp của nước ta. Quy định trên cho thấy việc
tranh tụng không chỉ diễn ra ở phiên tòa mà rộng hơn ở các giai đoạn tố tụng. Quy
định này đòi hỏi các chủ thể THTT và tham gia tố tụng phải nâng cao nhận thức,
trách nhiệm tạo môi trường bình đẳng, dân chủ, đồng thời không ngừng nâng cao
trình độ, năng lực để hạn chế tình trạng chủ quan, duy ý chí trong hoạt động TTHS.

Sự kết hợp giữa nguyên tắc tranh tụng kết hợp với nguyên tắc SĐVT, mở
rộng quyền bào chữa cùng với các quy định khác góp phần quan trọng để Tòa án
xét xử đúng người, đúng tội, tránh tình trạng oan sai trong các hoạt động TTHS.
2.

Nhận thức chung về biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng Hình sự Việt
Nam.
Các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Những BPNC trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế được áp
2.1.

dụng đối với bị can, bị cáo hoặc trong một số trường hợp khác còn áp dụng đối với
20


người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm của họ, ngăn ngừa họ bỏ
trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có những hành động khác làm cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Những BPNC là một trong những “công cụ” hữu
hiệu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các cơ quan THTT có hiệu quả,
đáp ứng được kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Vì những lí do như trên nên trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự thì BPNC chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Tất cả những quy định của Hiến
pháp và BLTTHS về BPNC đều nhằm góp phần phát huy dân chủ, tăng cường hơn
nữa hiệu lực của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, quyền công dân để xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo Điều 79 BLTTHS 2003, các BPNC trong tố tụng hình sự gồm có 6
biện pháp bao gồm:
2.1.1. Biện pháp bắt người
Theo Điều 80, 81, 82 của BLTTHS, BPNC bắt người có 3 trường hợp:
2.1.1.1. Bắt người trong trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam có thể áp dụng trong các trường hợp sau
-

(theo Điều 88 – BLTTHS 2003):
Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng.
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLTTHS quy
định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản
trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam bao gồm

-

( theo Điều 80 – BLTTHS 2003):
Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS nhân dân và Viên kiểm sát quân sự các cấp;
Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp;
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối cao;

-

Hội đồng xét xử;
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, Lệnh
bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Khi bắt phải có lệnh bắt. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức
vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có
chữ kí của người ra lệnh và có đóng dấu. Khi bắt thì người thi hành lệnh phải đọc
21


lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về
việc bắt. Biên bản phải có chữ kí của người chứng kiến.

Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện của chính
quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi
tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có địa diện cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự
chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Không được tiến hành bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp,
phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81, 82 của
BLTTHS 2003.
2.1.1.2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Bắt người trong trường trường hợp khẩn cấp là BPNC áp dụng khi có căn
cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng; khi người đó
Theo Điều 81 – BLTTHS 2003, BPNC bắt người trong trường hợp khẩn cấp
-

được áp dụng trong các trường hợp sau:
Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm

-

trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và
xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc

-

người đó bỏ trốn;
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực
hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy
chứng cứ.

Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp

-

-

bao gồm:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ
huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
giống với bắt người để tạm giam. Nhưng do tính chất khẩn cấp, nhanh chóng nên
22


việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp có thể tiến hành vào ban đêm. Trong mọi
trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản
kèm theo tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. VKS phải
kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều 81 – BLTTHS 2003. Trong
trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét,
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể
từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp,
VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS
quyết định không phê chuẩn thì người đã lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị
bắt.
2.1.1.3. Bắt người phạm tội quả tang.
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người ngay khi người đó đang thực
hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoạc đang bị
đuổi bắt.

Theo Điều 82 – BLTTHS 2003, biện pháp bắt người phạm tội quả tang
-

-

được áp dụng trong các trường hợp sau:
Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì người thực hiện tội phạm đó bị phát hiện và
bắt giữ.
Người thực hiện tội phạm đang bị đuổi bắt ngay sau khi thực hiện tội phạm
Khi thấy người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì bất kỳ người nào
cũng có quyền bắt ngay và có quyền tước vũ khí hoặc hung khí của người bị bắt.
Sau khi bắt người phạm tội quả tang phải giải ngay người bị bắt đến cơ
quan Công an, VKS, hoặc Ủy ban Nhân dân nơi gần nhất. Cơ quan trên có trách
nhiệm tiếp nhận người bị bắt và phải lập biên bản về việc bị bắt. Sau đó phải giải
ngay người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền điều tra.
2.1.1.4. Bắt người đang bị truy nã.
Bắt người đang bị truy nã là bắt người có quyết định truy nã của cơ quan có
thẩm quyền. Người đang bị truy nã có thể là bị can, bị cáo hoặc người bị kết án
trốn thi hành an và phạm nhân trốn khỏi nơi giam giữ mà các cơ quan có thẩm
quyền không biết rõ họ ở đâu và ra quyết định truy nã.
23


Theo Điều 82 – BLTTHS 2003, thẩm quyền bắt và thủ tục bắt người đang bị
truy nã giống với bắt người phạm tội quả tang.
2.1.2. Tạm giữ
Tạm giữ là BPNC trong TTHS có thể áp dụng đối với người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người
đang bị truy nã.

Đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giự phải là những người bị bắt
trong trường hợp bắt trong trường hợp khẩn cấp. Phạm tội quả tang, người phạm
tội tự đầu thú, tự thú hoặc người đang bị truy nã.
Bên cạnh mục đích ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc những hành vi cản trở
hoạt động tố tụng, việc áp dụng biện pháp tạm giữ trong thực tế của các cơ quan,
người có thẩm quyền nhằm có thêm thời gian thu thập chứng cứ, đánh giá tính
chất, mức độ phạm tội của người bị bắt và quyết định khởi tố về hình sự, tiếp tục
áp dụng BPNC thích hợp hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Tuy nhiên không phải trường hợp nào như trên cũng phái áp dụng BPNC
tạm giữ mà chỉ trong những trường hợp cần thiết mới áp dụng. Tùy theo từng
trường hợp cụ thể cũng như các điều kiện nhất định, Cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định tạm giữ có quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho họ. Chẳng hạn trong
trường hợp người bị bắt khi phạm tội quả tang mà xét thấy tính chất thuộc loại
không nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, không có biểu hiện cản trở các hoạt
động tố tụng hoặc bỏ trốn thì không nhất thiết phải áp dụng BPNC tạm giữ.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 86 – BLTTHS 2003 thì những người sau
-

-

đây có quyền ra quyết định tạm giữ:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ
huy đồn biên phòng ở Hải đảo và Biên giới;
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Chỉ huy trưởng Vùng Cảnh sát biển.
Tạm giữ phái có quyết định bằng văn bản của người có thẩm quyền. Quyết
định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ, và giao cho người bị
tạm giữ một bản. Người thi hành quyết định tạm giữ phái giải thích quyền và nghĩa
vụ cho người bị tạm giữ. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ,

24


quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ
không cần thiết hoặc không có căn cứ thì VKS ra quyết định huye bỏ quyết định
tạm giữ và yêu cầu cơ quan ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ.
Thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày, kể từ khi Cơ quan Điều tra nhận được
người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia
hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết
định tạm giữ có thể gia hạn thêm lần thứ hai nhưng không được quá 3 ngày. Mọi
trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được sự phê chuẩn của VKS cùng cấp. Trong
thời hạn 12 giờ kể từ ngày nhận được đề nghị gia hạn tạm giữ và tài liệu có liên
quan đến việc gia hạn tạm giữ, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
không phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không có đủ căn cứ để khởi tố bị can thì
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn
tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
2.1.3. Tạm giam
Tạm giam là BPNC trong TTHS có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng,
ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù từ hai năm trở lên và có căn cứ
cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở các HĐTT hoặc có thể tiếp tục phạm
tội.
Theo quy định Khoản 1, Điều 88 – BLTTHS 2003, biện pháp tạm giam được
-

áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp sau:
Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng.
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định
hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở

việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36
tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không

-

tạm giam mà áp dụng các BPNC khác trừ một trong các trường hợp sau:
Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
25


×