1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TỐNG THỊ THANH THANH
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 50514
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2003
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này được sử thực hiện độc lập và dưới sự hướng
dẫn của Thầy giáo, TS. Nguyễn Ngọc Chí.
Bản luận văn này không sao chép luận văn hay bất cứ công trình nghiên cứu
khoa học nào đã được công bố về đề tài có liên quan.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản luận văn này, tác giả có tham
khảo một số chuyên đề, bài viết, các chỉ dẫn có liên quan ở trong và ngoài nước,
trích dẫn nguyên văn, nguồn trích dẫn được nêu tại danh mục Tài liệu tham khảo.
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bản luận văn này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ
bảo nhiệt tình của Thầy giáo, TS. Nguyễn Ngọc Chí; sự góp ý cũng như khích lệ của
các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình. Xin gửi đến Thầy giáo, đồng nghiệp, bạn bè
lời cảm ơn chân thành. Cảm ơn gia đình và người thân đã động viên tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
4
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
5
1.1
Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm
5
1.2
Lịch sử phát triển của các quy định pháp luật tố tụng hình sự
về chuẩn bị xét xử trƣớc khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988
16
1.2.1
Giai đoạn trước năm 1960
16
1.2.2
Giai đoạn từ 1960 đến 1988
17
1.3
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp lụât tố
tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới
18
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
22
2.1
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
22
2.2
Nghiên cứu hồ sơ
27
2.2.1
Xác định thẩm quyền xét xử
30
2.2.2
Đánh giá chứng cứ
35
2.3
Các quyết định của Toà án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
39
2.3.1
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
39
2.3.2
Quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án
42
2.3.3
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
46
2.3.4
Quyết định đưa vụ án ra xét xử
50
2.3.5
Quyết định chuyển vụ án
52
2.3.6
Quyết định kê biên tài sản
54
2.3.7
Quyết định xử lý vật chứng
56
2.4
Những việc làm cần thiết để chuẩn bị mở phiên toà
57
5
2.4.1
Triệu tập người tham gia tố tụng đến phiên toà
57
2.4.2
Mời Hội thẩm nhân dân
59
2.4.3
Lên lịch xét xử
59
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
62
3.1
Nguyên nhân của những hạn chế hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm
62
3.1.1
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử còn
nhiều bất cập, chưa phù hợp
62
3.1.2
Năng lực của Thẩm phán còn hạn chế và cơ cấu tổ chức của
Tòa án không hợp lý
64
3.2
Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
66
3.2.1
Phương hướng để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
66
3.2.2
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
67
3.2.3
Nâng cao trình độ chuyên môn của người áp dụng và kiện toàn
tổ chức của Toà án cấp sơ thẩm hiện nay
76
KẾT LUẬN
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
81
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử là giai đoạn trọng tâm cuả quá trình giải quyết vụ án hình sự, tại
đây sự thật của vụ án được làm sáng tỏ, những vấn đề bản chất của vụ án như
xác định một người cụ thể có phạm tội hay không, tội danh, hình phạt cần
được áp dụng đối với họ cũng được giải quyết. Để có một quyết định chuẩn
xác, công bằng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị
trước khi mở phiên toà. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm là một khâu phức tạp không
chỉ vì tính đa dạng của các hoạt động tố tụng được thực hiện mà còn vì các
hoạt động chuẩn bị liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của những
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng có liên quan, đến mối quan hệ
giữa Toà án với các cơ quan tiến hành tố tụng khác.
Sự phát triển của các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm gắn liền với
sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Ngay sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công, các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm được ghi
nhận, áp dụng trong hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và ngày
càng được hoàn thiện. Năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên đã được
ban hành, các quy định về chuẩn bị xét xử được tập hợp có hệ thống trong
chương XVI của Bộ lụât này.
Việc được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự đã giúp cho Toà án
thực hiện hoạt động xét xử dễ dàng và có hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình
áp dụng các quy định này đã bộc lộ những bất cập cần sửa đổi. Việc quy định
các điều kiện để toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một ví dụ. Quy định tại
khoản 1 điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được bổ sung sửa đổi năm
2000 còn quá chung chung dễ gây ra sự tuỳ tiện khi áp dụng và cũng dễ tạo ra
tình trạng đây chỉ là những quy định mang tính hình thức. Bên cạnh đó trong
7
quá trình xét xử tại Toà án trong những năm gần đây có nhiều sai sót đáng
tiếc xảy ra do Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không đầy đủ, phiến diện gây ra
sự bất bình trong dư luận, ảnh hưởng đến uy tín của Toà án.
Để nâng cao chất lượng xét xử, ngoài việc cải cách thủ tục tố tụng tại
phiên toà thì việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm cũng cần được tiến hành đồng bộ. Ngoài ra việc mở rộng thủ tục tranh
tụng như quy định trong Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị cũng đòi hỏi việc
chuẩn bị xét xử phải được tiến hành kỹ lưỡng và khoa học hơn, các quy định
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm cần được quy định hợp lý và toàn diện. Tuy rằng
bản án, quyết định của Toà án phải dựa trên kết quả tranh tụng nhưng điều đó
không có nghĩa Toà án không cần nghiên cứu hồ sơ vụ án trước, không cần
chuẩn bị xét xử mà trái lại trong quá trình tranh tụng tại toà, Toà án muốn có
phán quyết đúng, công bằng thì việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử cần
thận trọng và đầy đủ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu các quy định của tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm hiện nay chưa được nhiều, ngoài một số bài báo của các tác giả trên tạp
chí Toà án nhân dân, tạp chí Nhà nước và pháp lụât, tạp chí Luật học thì
chưa có một cuốn sách hay một công trình nào viết về vấn đề này. Bài viết
của TS. Phạm Hồng Hải, tác giả Võ Thị Kim Oanh, tác giả Vũ Gia Lâm, Th.s
Đinh Văn Quế, tác giả Nguyễn Nông chỉ tập trung vào một vài khía cạnh như
giải thích quy định của pháp luật tố tụng hình sự hay phản ảnh những hạn chế,
vướng mắc có thể gặp phải trong thực tế áp dụng. Vì vậy có thể nói gần như
chưa có một công trình nghiên cứu độc lập có hệ thống về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chính vì các lý do trên đây mà chúng tôi đã chọn đề tài này làm đề tài
nghiên cứu của mình.
8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Đề tài tập trung chủ yếu vào mục đích tìm ra những khó khăn, vướng
mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét
xử sơ thẩm cũng như thực tế áp dụng các quy định này. Từ đó đưa ra những
kết luận và đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc
áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm.
Từ mục đích đó nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được đặt ra là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận để làm rõ khái niệm chuẩn bị xét xử
sơ thẩm, vai trò và ý nghĩa của nó trong hoạt động xét xử của toà án. Nghiên
cứu lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về chuẩn bị
xét xử và một số quy định của các nước trên thế giới về vấn đề này.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
chuẩn bị xét xử.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng để từ đó đưa ra những vướng mắc và lý
giải nguyên nhân để đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét
xử sơ thẩm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng những quy định hiện
hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm của pháp luật tố tụng hình sự. Ngoài ra đề tài
còn nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên
thế giới về chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không chỉ nghiên cứu về mặt lý luận mà còn
9
nghiên cứu cả thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng về chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác -
Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các
phương pháp có thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đó là: phân tích,
đối chiếu, so sánh, tổng hợp; hệ thống hoá các văn bản pháp luật, các số liệu
tổng kết của các cơ quan tiến hành tố tụng; khảo sát thực tiễn áp dụng các quy
định của tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong những năm gần
đây; tham khảo các ý kiến của một số nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ
thực tiễn xét xử.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, nội dung chính của đề tài sẽ được đề
cập trong ba chương như sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Chƣơng 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng
Chƣơng 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chuẩn bị xét
xử sơ thẩm
10
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
1.1 Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm
1. Xét xử là giai đoạn trung tâm, quyết định của quá trình tố tụng hình
sự. Điều 72 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
không ai bị coi là có tội và chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật. Trong qúa trình xét xử, các chứng cứ được thu
thập, đánh giá trong giai đoạn điều tra, truy tố được xem xét tranh luận công
khai.
Hoạt động xét xử bao gồm việc chuẩn bị xét xử và các thủ tục xét xử
tại phiên toà. Trong đó chuẩn bị xét xử sơ thẩm là những hoạt động đầu tiên
khi hồ sơ được chuyển từ giai đoạn điều tra, truy tố sang Toà án. Chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự có tính chất đặc thù khác với sự chuẩn bị các công
việc khác, chuẩn bị xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng bắt buộc mà Bộ
luật tố tụng hình sự quy định.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm
còn chưa được quan tâm nghiên cứu thoả đáng. Các sách, giáo trình và bài
viết về chuẩn bị xét xử sơ thẩm mới chỉ phân tích các quy định của pháp luật
mà không đưa ra khái niệm. Ngay cả trong luật tố tụng hình sự hiện hành
cũng không có một quy định nào thể hiện chuẩn bị xét xử sơ thẩm là gì, mà
chỉ quy định một số nội dung của hoạt động này.
Từ điển luật học (Nxb. Từ điển Bách Khoa - 1999) coi chuẩn bị xét xử
là “tiến hành những công việc cần thiết cho mở phiên toà xét xử theo quy
định tại Điều 151 - Bộ lụât tố tụng hình sự”[27,tr.95]. Khái niệm này cũng
giống với quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn “Thủ tục sơ thẩm
11
trong tố tụng hình sự Việt Nam”[20]. Tuy nhiên khái niệm chuẩn bị xét xử
nêu trên mới chỉ đưa ra nội dung rất chung của hoạt động chuẩn bị xét xử mà
không chỉ rõ chủ thể, vị trí của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Duy nhất cuốn Giáo trình luật tố tụng hình sự của Đại học Huế xuất
bản năm 2002 đưa ra khái niệm chuẩn bị xét xử, đó là “chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự là khâu đầu tiên, một phần của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, trong đó Toà án có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng và việc
làm cần thiết do pháp luật quy định để đảm bảo cho việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật” [7,tr.349]. Khái niệm đã đề cập đến vị trí, vai trò
của chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhưng chưa đưa ra được nội dung, hoạt động chủ
yếu được tiến hành trong khâu này.
Theo chúng tôi, để có một khái niệm đầy đủ, hoàn chỉnh về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm phải làm rõ những vấn đề sau đây:
Chủ thể của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Trước khi mở phiên toà công khai, Toà án cần tiến hành các hoạt động
chuẩn bị. Chuẩn bị xét xử đặc biệt là chuẩn bị xét xử sơ thẩm do nhiều chủ
thể khác nhau tiến hành nhưng là một phần của hoạt động xét xử nên Toà án
giữ vai trò chủ đạo, là người có trách nhiệm chính trong việc tiến hành các
hoạt động này. Ở một số nước, chuẩn bị xét xử được giao cho Thẩm phán
chịu trách nhiệm giải quyết vụ án thực hiện. Nhưng ở Pháp nhiệm vụ chuẩn bị
xét xử các phiên đại hình do Chánh Toà đại hình tiến hành cùng với sự giúp
việc của lục sự. Bộ phận lục sự trong các Toà án của Pháp có trách nhiệm
nhận hồ sơ, tang chứng, giúp Chánh Toà hình sự trong việc chuẩn bị xét xử,
sắp xếp thời gian phiên toà cho Thẩm phán [3].
Dù có những điểm khác biệt nhưng nhìn chung Toà án là chủ thể chính,
12
có trách nhiệm chuẩn bị để mở phiên toà xét xử công khai. Bởi lẽ, hoạt động
chuẩn bị xét xử là hoạt động đặc thù của Toà án, do Toà án thực hiện khi vụ
án đã kết thúc giai đọan điều tra, truy tố. Trong Toà án, Thẩm phán chính là
những chủ thể giữ vai trò quyết định, là nhân vật trung tâm trong các hoạt
động tố tụng mà pháp lụât quy định đối với Toà án. Dù trong một số Bộ luật
không trực tiếp quy định Thẩm phán có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng
trong việc chuẩn bị phiên toà nhưng lại có những điều khoản cho phép Chánh
toà uỷ quyền cho một Thẩm phán trong Hội đồng xét xử tiến hành. Quy định
tại Điều 272 của Bộ luật tố tụng hình sự Pháp là một ví dụ. Vì vậy, có thể nói
Thẩm phán là chủ thể chính tiến hành các hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Ngoài ra, để giúp việc cho các Thẩm phán còn có bộ phận lục sự, thư ký
Toà án. Vai trò của các chủ thể này có thể được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng
hình sự hoặc không thì thực tế họ vẫn là những người có vai trò nhất định
trong các hoạt động chuẩn bị xét xử đặc biệt liên quan đến các hoạt động
chuẩn bị mở phiên toà. Trong một số Bộ luật tố tụng hình sự của nước ngoài,
lục sự, thư ký toà án là những người có nhiệm vụ tống đạt các giấy tờ triệu tập
người làm chứng, bị cáo, tống đạt giấy triệu tập bồi thẩm đoàn Như vậy có
thể thấy rằng, trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán đóng vai trò là người
quyết định các hoạt động tố tụng, còn lục sự, thư ký là những người trợ giúp,
thực hiện một số hoạt động tố tụng cần thiết cho việc mở phiên toà.
Tuy nhiên trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm không chỉ có các hoạt động tố
tụng của Toà án mà còn có những họat động của Cơ quan tiến hành tố tụng
khác như Viện kiểm sát (Viện công tố) hoặc của người tham gia tố tụng như
Luật sư. Các chủ thể này tuỳ theo vị trí, vai trò do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định mà thực hiện những hoạt động tố tụng khác nhau. Ở một số nước, vai trò
của Viện kiểm sát hay Viện Công tố trong việc chuẩn bị xét xử không được
ghi nhận vì họ quan niệm việc chuẩn bị là việc làm “bếp núc” của Toà án
13
trước khi vụ án được xét xử công khai. Viện Công tố chỉ thể hiện vai trò của
mình tại phiên toà. Tuy nhiên, hiện nay đa số các nước đều quy định các
quyền của Viện Công tố và Luật sư trong việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm như
trong Bộ luật tố tụng hình sự của Hàn Quốc, Singapor.
Ở Việt Nam, chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy định tại chương XVI của
Bộ luật tố tụng hình sự được bổ sung, sửa đổi năm 2000 (gọi tắt là Bộ luật
2000) hay trong chương XVII của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (gọi tắt
là Bộ luật 2003), gồm 8 điều trong đó có quy định quyền của Thẩm phán chủ
toạ phiên toà, Chánh án và Phó Chánh án, Viện kiểm sát (Điều 151, 152, 156
Bộ luật 1988; Điều 176, 177, 181 Bộ luật 2003). Quyền của Luật sư được quy
định chung trong quyền của người tham gia tố tụng khác. Những quy định
này còn mang tính chất chung chung, không có cơ chế để đựơc đảm bảo thực
hiện. Bộ luật 2003, quyền của Luật sư được mở rộng, trong việc chuẩn bị xét
xử Luật sư có quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu sau khi đã có kết thúc
điều tra; quyền đưa tài liệu, đồ vật, yêu cầu (Điều 58). Điều này đã tạo cho
Luật sư vị thế khá bình đẳng với cơ quan tiến hành tố tụng (Toà án, Viện
kiểm sát). Cũng như Luật sư, vai trò của Thư ký toà án không được ghi nhận
mặc dù thực tế Thư ký là những người trợ giúp đắc lực cho Thẩm phán tiến
hành công tác chuẩn bị cho phiên toà. Sửa đổi những quy định của Bộ luật
2000, Bộ luật 2003 đã quy định Thư ký Toà án là người tiến hành tố tụng.
Ngoài hoạt động tại phiên toà thì Thư ký Toà án chỉ thực hiện các công việc
của Toà án do Chánh án giao. Như vậy theo quy định của Bộ luật 2003,
Chánh án sẽ là người quyết định vai trò của Thư ký Toà án trong một vụ án
cụ thể. Đối với những người tham gia tố tụng khác đặc biệt là bị cáo, luật đã
quy định khá cụ thể quyền của họ khi Toà án chuẩn bị xét xử như quyền được
nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử trước 10 ngày.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, có nhiều chủ thể khác nhau
14
cùng tham gia nhưng Toà án mà chủ yếu là Thẩm phán là người chịu trách
nhiệm thực hiện các hoạt động chuẩn bị, đưa vụ án ra xét xử công khai.
Nội dung của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm có nội dung như thế nào, gồm những hoạt động
tố tụng gì hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau. Trong đó việc nghiên cứu
hồ sơ trong quá trình chuẩn bị có nên đặt ra hay không.
Có quan điểm cho rằng, chuẩn bị xét xử chỉ là sự chuẩn bị hành chính,
nếu là hoạt động tố tụng thì chỉ dừng lại ở việc triệu tập người làm chứng,
người tham gia phiên toà. Thẩm phán không được tiếp xúc với vụ án trước
khi phiên toà được xét xử công khai. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào kiểu tố tụng
mà quốc gia lựa chọn, nội dung chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy định khác
nhau đặc biệt về quyền nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán khi chuẩn bị xét xử.
Nếu theo kiểu tố tụng tranh tụng thì việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm của
Toà án chỉ đơn giản là việc xem xét, chuẩn bị các điều kiện để mở phiên toà
như triệu tập nhân chứng, xác định thời gian Bởi vì, trong tố tụng tranh tụng
sự thật sẽ được mở ra qua sự tranh luận tự do và cởi mở giữa các bên trong
phiên toà, giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Mỗi bên đều có cơ hội hỏi về tính
trung thực của nhân chứng, tìm sự thiên vị và chỉ ra được cái mà nhân chứng
biết thực chứ không phải là cái họ nghĩ rằng họ biết [29,tr.123-124]. Thẩm
phán đóng vai trò là một người trọng tài và không có trách nhiệm tìm ra sự
thật của vụ án. Phán quyết của Thẩm phán chỉ dựa trên chứng cứ đưa ra tại
phiên toà và không nghiên cứu các chứng cứ đó trước khi phiên toà diễn ra.
Các chứng cứ viết như biên bản của cảnh sát tư pháp đều không được công
nhận là chứng cứ [25,tr.3]. Tuy nhiên khi xem xét tố tụng tranh tụng các học
giả đều cho rằng trong tố tụng tranh tụng không có khái niệm “sự thật vụ án”
nguyên nghĩa mà chỉ là khái niệm sự thật trên các chứng cứ do các bên thu
thập. Phiên toà trong tố tụng tranh tụng thường diễn ra rất phức tạp, kéo dài vì
15
nhiều phiên toà cần phải thẩm vấn hàng trăm nhân chứng mà không có vấn đề
gì được khẳng định chắc chắn. Một trong những đặc trưng của tố tụng tranh
tụng là quy định Thẩm phán không được nghiên cứu hồ sơ vụ án trước. Quy
định này xuất phát từ quan điểm cho rằng Thẩm phán không phải là người có
trách nhiệm tìm ra sự thật mà chỉ là trọng tài, người phân sự xem bên nào có
sức thuyết phục hơn để tuyên bên đó thắng kiện. Muốn vậy, Thẩm phán phải
thật sự vô tư, không bị tác động của bất kỳ yếu tố nào của vụ án trước khi
nghe các bên trình bày và tranh luận tại phiên toà.
Ngược lại trong tố tụng thẩm vấn vai trò của Thẩm phán được đề cao.
Thẩm phán là người có trách nhiệm đi tìm sự thật của vụ án. Phiên toà không
phải là sự cạnh tranh của hai bên đối địch nhau mà là sự tiếp tục điều tra. Các
bên phải cung cấp tất cả các chứng cứ cho Toà án. Thẩm phán sẽ triệu tập các
nhân chứng. Chính vì vậy, trong tố tụng thẩm vấn Thẩm phán cần phải biết
nội dung của vụ án trước khi mở phiên toà. Thẩm phán cần nghiên cứu hồ sơ,
kiểm tra các chứng cứ đã được cơ quan điều tra, truy tố thu thập. Chuẩn bị
xét xử trong tố tụng thẩm vấn không phải chỉ là sự chuẩn bị những điều kiện
cần để mở phiên toà mà là sự chuẩn bị cả mặt nội dung vụ án để Thẩm phán
có phương hướng điều tra tiếp tại phiên toà. Tố tụng thẩm vấn thường bị chỉ
trích không tôn trọng đầy đủ quyền của các đương sự vì họ không có nghĩa vụ
chứng minh chứng cứ. Ngoài ra, do được nghiên cứu hồ sơ trước khi xét xử,
đôi khi Thẩm phán không vô tư, khách quan và đã có sẵn phán quyết về vụ
việc trước khi vụ án được xét xử công khai. Vì vậy, việc thẩm tra, tranh luận
tại phiên toà trong tố tụng thẩm vấn trở thành vấn đề hình thức, sự thật vụ án
đã được áp đặt khi thẩm phán nghiên cứu hồ sơ.
Hệ thống tố tụng của Việt Nam nói chung, tố tụng hình sự nói riêng chịu
ảnh hưởng và tác động sâu sắc của hệ thống tố tụng xã hội chủ nghĩa với nền
tảng là tư tưởng triết học của Mác - Lênin. Với những tư tưởng triết học Mác-
16
Lênin về nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, các nhà khoa
học luật tố tụng hình sự đã cho rằng con người có khả năng phát hiện sự thật
khách quan của vụ án theo đúng những gì mà nó đã diễn ra. Thông qua các
biện pháp tố tụng do các Cơ quan tố tụng tiến hành, con người có thể tiếp cận
được sự thật khách quan của vụ án chứ không phải là sự thật hình thức (sự
thật chỉ thể hiện qua các chứng cứ mà các bên cung cấp tại phiên toà như
trong hệ tố tụng tranh tụng). Các kết luận của Toà án hoàn toàn phù hợp với
những gì xảy ra trên thực tế. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng phải có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án. Đây là nguyên
tắc quan trọng trong luật tố tụng hình sự xã hội chủ nghĩa. Luật tố tụng hình
sự Việt Nam đã quy định nguyên tắc này tại Điều 11 Bộ luật 2000, Điều 10
Bộ luật 2003 với tên gọi “xác định sự thật vụ án”. Theo quy định của những
điều luật này thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ. Vì vậy, trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán cần phải
nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ. Khi luận giải về vấn đề này, có ý kiến
cho rằng Toà án vẫn thực hiện trách nhiệm xác định sự thật khách quan của
vụ án mà không cần phải nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên toà. Toà án sẽ
xác định sự thật khách quan tại phiên toà, thông qua các hoạt động xét hỏi và
điều khiển phần tranh luận. Yêu cầu về trách nhiệm của Toà án theo quy định
tại Điều 11 được đảm bảo mà Thẩm phán không bị tác động của các yếu tố
của vụ án trước khi xét xử. Tuy nhiên, việc xác định sự thật khách quan của
vụ án tại phiên toà là hoạt động của rất nhiều chủ thể như Viện kiểm sát, Luật
sư, những người tham gia tố tụng khác và Toà án. Nhưng trong phiên toà vai
trò của Toà án rất quan trọng, không chỉ là người xác định sự thật của vụ án
mà còn là chủ thể đánh giá, quyết định cuối cùng về vụ án. Nếu Toà án (Thẩm
phán) chỉ nắm bắt được vụ án tại phiên toà liệu quyết định của Toà án có công
17
minh hay không. Vai trò xác định sự thật khách quan của vụ án của Toà án là
không đáng kể, bị động và thực chất Toà án chỉ là trọng tài, quyết định lý lẽ
thuộc về phía nào trong phiên toà.
Ngoài ra, việc Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ khi chuẩn bị xét xử còn do
bản chất của Nhà nước ta quy định. Theo Điều 3 Hiến pháp của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân không phân chia chỉ có sự
phân công, phân nhiệm. Hệ thống tổ chức Nhà nước không có cơ cấu kiềm
chế quyền lực như ở một số nước tư bản cho nên Toà án không phải là một
nhánh quyền lực để cân bằng và kiềm chế các nhánh còn lại. Toà án là cơ
quan xét xử nhân danh Nhà nước, nhân danh nhân dân Việt Nam để bảo vệ
quyền và lợi ích của công dân, của xã hội.
Nội dung của chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định của Luật tố tụng
hình sự Việt Nam bao gồm hoạt động nghiên cứu hồ sơ, ra các quyết định,
thực hiện các công việc cần thiết để mở phiên toà. Trong đó nghiên cứu hồ sơ
được thể hiện qua hoạt động đánh giá chứng cứ và xác định thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Toà án đối với vụ án. Ngoài ra, trong qúa trình chuẩn bị xét
xử, Toà án không chỉ ra bốn quyết định được quy định tại Điều 151 Bộ luật
2000, Điều 176 Bộ luật 2003 mà thực tế Toà án còn có những quyết định
khác nhằm làm sáng tỏ vụ án mà trong giai đoạn điều tra, truy tố các cơ quan
có trách nhiệm không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ.
Vị trí của chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Giai đoạn tố tụng hình sự là các phần độc lập, liên quan lẫn nhau của quá
trình tố tụng hình sự, phân biệt với nhau bằng những quyết định tố tụng, có
nhiệm vụ tố tụng cụ thể khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau và
người tham gia tố tụng tương ứng, có thủ tục, trình tự thực hiện hành vi tố
tụng khác nhau và đặc tính của các quan hệ tố tụng khác nhau [8,tr.458].
18
Ở một số nước, trong đó có Liên xô (cũ), chuẩn bị xét xử được coi là
một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự và người ta gọi đó là giai đoạn
chuyển toà [10,tr.13]. Tuy nhiên, nếu coi chuẩn bị xét xử là một giai đoạn độc
lập trong tố tụng hình sự thì chưa chính xác. Bởi lẽ giai đoạn tố tụng hình sự
nhằm hướng tới một mục đích cụ thể không trùng lặp với các giai đoạn tố
tụng khác; có một nhiệm vụ tố tụng nhất định; có những người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng nhất định, giữ vai trò khác nhau; có trình tự, thủ
tục và hành vi tố tụng riêng; mỗi giai đoạn kết thúc bằng văn bản tố tụng khác
nhau; mỗi giai đoạn, các quan hệ tố tụng có đặc điểm riêng. Có thể thấy rõ
điều này trong giai đoạn điều tra, với nhiệm vụ là thực hiện các biện pháp
điều tra xác định tội phạm, hành vi phạm tội nên chủ thể chính của giai đoạn
này là Cơ quan điều tra, Điều tra viên. Mục đích của giai đoạn này là Cơ quan
điều tra có thể đưa ra Kết luận điều tra hay không. Kết luận điều tra có ý
nghĩa rất quan trọng vì nó có vai trò đánh dấu sự kết thúc hoạt động tố tụng
mà trong đó Cơ quan điều tra là chủ thể chính. Nếu coi chuẩn bị xét xử là một
giai đoạn của tố tụng hình sự thì thấy rằng tuy chuẩn bị xét xử thoả mãn được
một vài yếu tố như chủ thể chính hay yếu tố có đặc điểm riêng nhưng không
thể coi đây là một giai đoạn tố tụng độc lập được. Bởi vì vấn đề đặc trưng
quan trọng phân biệt giai đoạn tố tụng tụng này và giai đoạn tố tụng khác là
quyết định tố tụng mấu chốt và mục đích độc lập của giai đoạn thì chuẩn bị
xét xử sơ thẩm không có. Mục đích của chuẩn bị xét xử không phải là mục
đích độc lập mà là một mục đích phái sinh, nhằm phục vụ cho mục đích lớn
hơn của cả giai đoạn này đó là xét xử tại phiên toà, phục vụ cho việc Hội
đồng xét xử ra bản án.
Tuy không phải là một giai đoạn độc lập nhưng chuẩn bị xét xử có một
vị trí quan trọng trong giai đoạn xét xử của Toà án bởi lẽ nếu không có chuẩn
bị xét xử thì việc xét xử công khai tại phiên toà sẽ khó khăn và việc tiến hành
19
phiên toà sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm có thể
coi là một tiểu giai đoạn trong giai đoạn lớn là xét xử của Toà án trong đó thời
điểm bắt đầu được tính khi vụ án được Toà án thụ lý và kết thúc khi phiên toà
được mở công khai.
Khi nghiên cứu vị trí của chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong vụ án hình sự
chúng tôi có tham khảo thêm các quy định về vấn đề này trong các quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng hành chính, tố tụng
lao động thấy rằng chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong các lĩnh vực trên được coi là
một giai đoạn độc lập và là giai đoạn tố tụng tiền xét xử. Có sự khác biệt đó vì
khi giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính Toà án được
phép tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ. Ngược lại, trong tố
tụng hình sự, hoạt động thu thập chứng cứ chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát thực hiện. Ngoài ra, do tính chất của vụ án khác nhau nên trong tố tụng
dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, chuẩn bị xét xử sơ thẩm là một giai
đoạn tố tụng độc lập.
Mục đích của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Khi xác định mục đích của chuẩn bị xét xử sơ thẩm đã có nhiều ý kiến
khác nhau. Có ý kiến cho rằng chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhằm có quyết định
đưa vụ án ra xét xử hay không. Theo chúng tôi, xem xét điều kiện để đưa vụ
án ra xét xử chỉ là một trong những mục đích mà chuẩn bị xét xử sơ thẩm giải
quyết. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm nhằm mục đích:
- Tiếp tục xác định sự thật, chứng minh tội phạm. Theo Điều 11 Bộ luật
2000, Điều 10 Bộ lụât 2003, Toà án có trách nhiệm chứng minh tội phạm vì
vậy sau khi nhận được hồ sơ thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà
phải nghiên cứu hồ sơ nhằm đánh giá các chứng cứ mà Cơ quan điều tra, truy
tố đã thu thập. Nếu chứng cứ đầy đủ thì Thẩm phán phải đưa vụ án ra xét xử,
nếu chưa đầy đủ thì trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung
20
- Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc
biệt là bị cáo. Trước khi bị kết tội công khai, bị cáo có quyền khiếu nại đề
nghị Toà án xem xét lại những luận điểm mà Viện kiểm sát truy tố; đề nghị
Toà án cho phép được áp dụng dụng biện pháp ngăn chặn khác nhẹ hơn biện
pháp mà Viện kiểm sát đã áp dụng Những người tham gia tố tụng khác như
người có nghĩa vụ liên quan có thể đề nghị Toà án xử lý vật chứng nếu vấn đề
này chưa được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện. Toà án đảm bảo
cho Luật sư thực hiện quyền của mình một cách thoả đang như nghiên cứu hồ
sơ; trao đổi khi Luật sư có quan điểm khác về vụ án
- Ngoài ra, chuẩn bị xét xử sơ thẩm còn nhằm tạo điều kiện cần thiết cho
việc mở phiên toà. Bằng các hoạt động hoàn thiện các thủ tục tố tụng cần cho
phiên toà như triệu tập bị cáo, người bị hại, người làm chứng hay các hoạt
động chuẩn bị mang tính chất hành chính khác như lên lịch xét xử đã tạo
tiền đề cho việc xét xử tại phiên toà được thuận lợi và tiến hành nhanh chóng,
tiết kiệm chi phí.
Từ những vấn đề trình bày nêu trên về chủ thể, nội dung, vị trí và mục
đích của chuẩn bị xét xử sơ thẩm, chúng tôi cho rằng khái niệm chuẩn bị xét
xử sơ thẩm như sau:
“Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một khâu (tiểu giai đoạn) của
giai đoạn xét xử trong đó hoạt động tố tụng của các chủ thể mà chủ yếu là
Thẩm phán nhằm kiểm tra, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ mà cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát đã thu thập để ra các quyết định giải quyết vụ án; đảm
bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bảo đảm lợi ích
của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng;
bảo đảm tiết kiệm thời gian và tiền bạc của Nhà nước, xã hội, công dân.”
2. Thông qua việc phân tích các yếu tố của khái niệm chuẩn bị xét xử sơ
thẩm có thể thấy chuẩn bị xét xử sơ thẩm có vai trò quan trọng, là một yếu tố
21
không thể thiếu trong các điều kiện để có được một phiên toà sơ thẩm thành
công.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm tốt sẽ giúp cho Thẩm phán điều khiển phiên toà
có hiệu quả và đầy đủ. Vụ án sẽ được xem xét thấu đáo, toàn diện; bị cáo
được xét xử đúng hành vi, đúng tội và đúng pháp luật.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm kỹ lưỡng giúp cho thời gian tiến hành phiên toà
sơ thẩm được rút ngắn, xét xử nhanh chóng nhưng không hời hợt, sơ lược,
đảm bảo tiết kiệm thời gian cho Toà án, Viện kiểm sát, Luật sư và bị cáo.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước đang quan tâm đến vấn
đề cải cách tư pháp trong đó nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động tranh tụng
của Luật sư tại phiên toà thì việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm càng có ý nghĩa và
có vai trò quan trọng hơn. Thẩm phán, Kiểm sát viên cần chuẩn bị xét xử chu
đáo vì tại phiên toà Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho bị cáo, cùng xem xét,
đánh giá sự thật khách quan của vụ án. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm tốt sẽ giúp
Thẩm phán thể hiện được năng lực, uy tín chuyên môn của mình.
1.2 Lịch sử phát triển của các quy định pháp luật tố tụng hình sự về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm trƣớc khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988
1.2.1 Giai đoạn trước năm 1960
Sau khi giành được độc lập năm 1945, Nhà nước ta chưa kịp ban hành
các văn bản pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý mọi mặt của đời sống xã hội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho phép áp
dụng luật cũ không đi ngược lại nguyên tắc độc lập và chế độ chính trị của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trước khi có các văn bản pháp luật thống
nhất cả nước.
Nghị định số 82/NĐ ngày 25-2-1946 của Bộ trưởng Bộ tư pháp ấn định
chi tiết áp dụng Sắc lệnh 21/SL ngày 12-2-1946 về tổ chức lại các toà án quân
22
sự có quy định: Nhận được hồ sơ, ông Chánh án toà quân sự ra lệnh cho lục
sự vào sổ thụ lý rồi đòi bị cáo đến để hỏi xem họ có ai bênh vực không hay có
xin cử ai bênh vực không. Nếu bị cáo xin cử một người bênh vực thì ông
Chánh án ra mệnh lệnh cử. Chánh án và hai Hội thẩm (Dự thẩm) chuyển hồ
sơ cho nhau xem. Trong thời kỳ này, Chánh án tự mình hay theo lời đề nghị
của Hội thẩm có thể ra mệnh lệnh cho công cáo uỷ viên hay một ông Hội
thẩm điều tra thêm một điểm, hỏi thêm chứng tá nào hay làm một việc gì có
ích cho việc phát minh sự thật. Ông chánh án có thể ra lệnh cho lục sự gọi
thẳng những người làm chứng mới ra phiên toà. Khi hồ sơ đã đầy đủ, Chánh
án quyết nghị ấn định ngày giờ và nơi xử án và danh sách những người làm
chứng cần hỏi để lục sự phát trát đòi. Bị cáo hay người bênh vực hắn, cũng
như công cáo uỷ viên có thể xin ông Chánh án chờ đợi những người mình nại
ra (Điều 11). Trong khi vụ án được thụ lý, Luật sư hay người bênh vực cho bị
cáo được quyền xem hồ sơ tại phòng lục sự, yêu cầu ông Chánh án điều tra
thêm chứng tá hay thi hành những việc có ích cho sự phát minh sự thật, và có
thể gặp bị cáo bị giam nếu ông Chánh án cho phép (Điều 12).
Như vậy, trước khi Luật tổ chức toà án ban hành, trong các văn bản pháp
luật liên quan đến tố tụng hình sự không có một điều luật có tên gọi là chuẩn
bị xét xử nhưng những nội dung của chuẩn bị xét xử đã được ghi nhận mặc dù
mới chỉ ở những điều rất đơn giản.
1.2.2 Giai đoạn từ 1960 đến 1988
Năm 1960, Luật tổ chức toà án và Luật tổ chức Viện kiểm sát được ban
hành. Theo quy định tại Điều 1 Luật tổ chức toà án nhân dân 1960, Toà án
nhân dân là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Toà
án nhân dân tối cao có trách nhiệm hướng dẫn các Toà án cấp dưới áp dụng
pháp luật, đường lối, chính sách và thủ tục tố tụng trong việc xét xử. Đến năm
1964, căn cứ vào các quy định của pháp luật, những kinh nghiệm của gần 20
23
năm tiến hành tố tụng và việc tham khảo học tập pháp luật tố tụng của Liên
xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Toà án nhân dân tối cao đã hệ
thống lại các quy định của pháp luật tố tụng lúc bấy giờ thành Bản đề án về
trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó có quy định tương đối cụ thể
về thủ tục và nội dung chuẩn bị xét xử sơ thẩm để hướng dẫn các Toà án địa
phương thống nhất áp dụng.
Tiếp theo ngày 27-9-1974 Toà án nhân dân tối cao ban hành Bản hướng
dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm (kèm theo thông tư 16 - TATC) trong đó có
phần ba quy định về trình tự tố tụng chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên toà.
Trong phần ba này, Bản hướng dẫn đã quy định rất cụ thể về hoạt động tố
tụng của Toà án trong khâu nghiên cứu hồ sơ, họp trù bị với Viện kiểm sát,
những việc phải làm để đưa vụ án ra xét xử như: quyết định đưa vụ án ra xét
xử; triệu tập bị cáo và những người tham gia phiên toà; chuẩn bị kế hoạch
thẩm vấn; xử công khai hay xử kín [24,tr.121-132].
Ngày 28/6/1988 Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên được Quốc hội thông
qua. Quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm được ghi nhận trong Chương XVI,
Phần thứ Ba của Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ luật này được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần đặc biệt năm 2003 một Bộ luật tố tụng hình sự mới đã được Quốc
hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ tháng 1/7/2004. Việc nghiên cứu các
quy định này chúng tôi sẽ trình bày cụ thể ở Chương 2.
1.3 Chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự một số nƣớc trên thế giới
Pháp luật tố tụng hình sự Hàn Quốc
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Hàn Quốc, chuẩn bị cho xét
xử công khai được quy định trong chương III, mục I gồm 9 điều (từ điều 166
đến điều 274)[30,tr.64,65]. Trong đó có quy định việc gửi cáo trạng, ấn định
24
ngày xét xử, tống đạt các giấy triệu tập, hoãn hoặc thay đổi ngày xét xử, đệ
trình các tài liệu, nêu lý do vắng mặt, tham khảo các cơ quan Nhà nước, điều
tra chứng cứ trước ngày xét xử công khai, các bên gửi chứng cứ trước ngày
xét xử.
Ngày xét xử công khai do thẩm phán chủ toạ phiên toà án định; bị can,
người đại diện hoặc người được uỷ quyền sẽ được triệu tập để có mặt vào
ngày xét xử công khai; khi bị can cư trú tại địa phận của toà đã được tòa
thông báo về ngày xét xử công khai, họ sẽ được coi là đã nhận được giấy triệu
tập cuả toà. Trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của toà có thể cho phép
công chứng viên, bị can hoặc người bào chữa hỏi cung bị can hoặc các nhân
chứng khác để kiểm tra chứng cứ, thẩm định hay biên dịch trước ngày xét xử
đã ấn định (khoản 1 điều 273). Ngoài ra công tố viên, bị can hoặc người bào
chữa có thể gửi hồ sơ hoặc đồ vật làm chứng cứ cho toà trước ngày xét xử đã
ấn định (điều 274).
Như vậy, trước khi mở phiên toà công khai, toà án hình sự Hàn quốc bao
giờ cũng thực hiện hai nhiệm vụ: thẩm tra lại chứng cứ, tiếp nhận chứng cứ
do công tố viên, bị cáo hoặc người làm chứng bổ sung và tiến hành các công
việc hành chính cần thiết để mở phiên toà.
Pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga
Chương 20, Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga, quy định quyền hạn
của Thẩm phán trước khi xét xử vụ án và những hoạt động chuẩn bị cho việc
mở phiên toà[31,tr.108]. Trước khi xét xử, thẩm phán phải ra một trong
những quyết định sau đây: Đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ điều tra bổ sung;
tạm đình chỉ vụ án; chuyển vụ án cho toà án có thẩm quyền; đình chỉ vụ án.
Đồng thời trước khi mở phiên toà, thẩm phán phải làm sáng tỏ vấn đề vụ
án có thuộc thẩm quyền xét xử của toà không; có căn cứ để đình chỉ hoặc tạm
25
đình chỉ vụ án không; chứng cứ đã thu thập đầy đủ chưa; bản cáo trạng có
được lập theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự không Nhìn chung
các quy định của luật tố tụng hình sự Liên bang Nga khá giống với các quy
định về chuẩn bị xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên trong
luật của Nga có một vài điểm khác, ví dụ: Điều 233 quy định về biện pháp
đảm bảo vụ kiện dân sự và tịch thu tài sản nhằm đảm bảo việc áp dụng các
biện pháp đảm bảo bồi thường thiệt hại vật chất do tội phạm gây ra; Điều 236
quy định về việc đảm bảo việc tìm hiểu hồ sơ vụ án cho bị can, bị cáo, người
bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
Pháp luật tố tụng hình sự Cộng hoà Pháp
Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hoà Pháp được ban hành năm 1957
và có hiệu lực thi hành vào năm 1958. Bộ luật có 803 điều, chia thành năm
quyển, trong đó quyển hai quy định về tổ chức, thẩm quyền của các cơ quan
xét xử hình sự và các thủ tục xét xử hình sự; xét xử tội đại hình tại Toà đại
hình, xét xử khinh tội tại Toà tiểu hình và xét xử vi cảnh tại Toà vi cảnh. Luật
tố tụng của Pháp không quy định thủ tục chuẩn cho các phiên tiểu hình hay vi
cảnh. Chương IV của Bộ luật quy định thủ tục chuẩn bị cho các phiên toà đại
hình bao gồm thủ tục bắt buộc và thủ tục không bắt buộc [3].
Thủ tục bắt buộc là các thủ tục giao cáo trạng, hỏi cung, kiểm tra căn
cước bị cáo; thông báo quyền chọn luật sư; luật sư được tiếp xúc hồ sơ vụ án
và có thể xin cấp hoặc xin sao hồ sơ vụ án; bị cáo, nguyên đơn dân sự được
cấp miễn phí bản sao các biên bản chứng nhận hành vi phạm tội, các bản ghi
lời khai của người làm chứng và các báo cáo giám định; Viện công tố phải
tống đạt cho bị cáo danh sách những người làm chứng, giám định viên (nếu
có); tống đạt danh sách bồi thẩm đoàn.
Thủ tục không bắt buộc hoặc đặc biệt là thủ tục áp dụng các biện pháp
điều tra cần thiết nếu thấy việc điều tra còn thiếu sót hoặc phát hiện thêm tình