ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ PHƯỜNG
ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI NHÓM TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ PHƯỜNG
ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI NHÓM TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI NHÓM TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT
CHIẾM ĐOẠT
8
1.1.
Một số vấn đề chung về định tội danh đối với nhóm tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
8
1.1.1.
Khái niệm định tội danh
8
1.1.2.
Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh
11
1.1.3.
Cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh
16
1.2.
Đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
26
1.2.2.
Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
27
1.2.3.
Các trường hợp phạm tội đặc biệt trong các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
33
1.3
Đặc điểm và yêu cầu định tội danh đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt
38
1.3.1.
Đặc điểm định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt
38
1.3.2.
Yêu cầu của việc định tội danh đối với các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt
48
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI BÌNH ĐỊNH
56
2.1.
Thực tiễn định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu tại
Bình Định
56
2.2.
Tỷ lệ vụ án được xét xử phúc thẩm
62
2.3.
Tỷ lệ giám đốc thẩm, tái thẩm
64
2.4.
Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
71
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI NHÓM
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH
78
3.1.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của hoạt động định tội
danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại Bình Định
78
3.2.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động định
tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình
Định
82
3.2.1.
Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về định tội danh đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu
82
3.2.2.
Nhóm giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ
84
3.2.3.
Nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ
87
3.2.4.
Nhóm các giải pháp khác
88
KẾT LUẬN
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Bảng thống kê số vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm về các
tội xâm phạm sở hữu của Tòa án các cấp (giai đoạn từ
2006 đến 2010)
57
2.2
Bảng thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt của Tòa
án các cấp
58
2.3
Bảng thống kê số liệu số vụ án và số bị cáo xét xử sơ
thẩm về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
59
2.4
Bảng cơ cấu về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt tại tỉnh Bình Định
60
2.5
Bảng thống kê số vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Định
62
2.6
Số vụ án phúc thẩm của Tòa án Bình Định qua các năm
63
2.7
Bảng thống kê số liệu về các trường hợp xác định tội
danh sai của Tòa án nhân dân Bình Định
64
2.8
Bảng thống kê số vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt xét theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm
65
Danh môc c¸c biÓu ®å
Sè hiÖu
biÓu ®å
Tªn biÓu ®å
Trang
2.1
Biểu đồ về mức độ tăng, giảm số vụ án và số bị cáo xét xử
sơ thẩm về các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án các cấp
57
2.2
Biểu đồ phản ánh mức độ tăng, giảm số vụ án và số bị
cáo xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt của Tòa án các cấp
58
2.3
Biểu đồ mức độ tăng, giảm số vụ án và số bị cáo xét xử
sơ thẩm về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
59
2.4
Biểu đồ về cơ cấu các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt tại tỉnh Bình Định
61
2.5
Biểu đồ về mức độ tăng, giảm số vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt xét xử phúc thẩm của Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Định
63
2.6
Biểu đồ về mức độ tăng, giảm số vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt xét theo thủ tục giám đốc thẩm
65
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự quy định rằng: "Không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật" [26]. Điều đó có nghĩa chừng nào chưa có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa
có tội. Như vậy, hoạt động xét xử của Tòa án (định tội danh) là hoạt động
mang tính chất quyết định, xác định một người có tội hay không có tội. Đây là
nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét xử và
là một trong những biện pháp đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống.
Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy
định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, cơ quan có thẩm quyền (Tòa án)
sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định
tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn,
góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Trong trường hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt có thể đã
tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện
nhưng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác
mà bị cáo phải gánh chịu như: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tính
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích…
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố
tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt là
đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu. Thời gian gần đây các tội xâm phạm sở
hữu luôn có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nghiêm trọng
cho tài sản Nhà nước, tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của
xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. Bộ luật hình
sự do Nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
2
tội phạm, tuy vậy những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trưng cơ
bản nhất của một cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra
vô cùng phức tạp và đa dạng. Có khá nhiều trường hợp khi tập hợp các dấu
hiệu thực tế của cấu thành tội phạm có những dấu hiệu giống nhau nên
thường dễ bị lúng túng gây nhiều tranh cãi và dẫn đến định tội danh thiếu
chính xác: Như dấu hiệu thuộc mặt chủ quan (mục đích chiếm đoạt tài sản) và
dấu hiệu thuộc mặt khách quan (dùng thủ đoạn gian dối) trong lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…
Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng
pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của công
dân bằng pháp luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức được tầm quan trọng
đó, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng
cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra
việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp
nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo
các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức
thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít trường hợp
áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên
dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn
tại, phổ biến nhất là ở các tội xâm phạm sở hữu mang tính chất chiếm đoạt.
Với lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: "Định tội danh đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006- 2010".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Định tội danh đúng có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị- xã hội, đạo
đức và pháp luật. Vì vậy mà hoạt động định tội đã được đề cập trong rất nhiều
công trình nghiên cứu khoa học của các chuyên gia luật hình sự của nước ta,
trong đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu của PGS.TSKH. Lê Cảm,
3
"Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh", chương I, Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội (Tập thể tác giả do PGS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2003; "Định tội danh- lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài
tập thực hành", Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2004; Luận án tiến sĩ luật học: "Trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm sở hữu", của Nguyễn Ngọc Chí; Trịnh Quốc Toản: "Một số vấn đề
lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương pháp định tội danh", Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội; Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp: "Tìm hiểu và bình luận
các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự 1999", Nxb Mũi Cà Mau,
2000… Các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội
danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng còn
được làm sáng tỏ trong một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như:
Định tội danh- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của PGS.TS. Lê Cảm, Tạp
chí Tòa án nhân dân các số 3, 4, 5, 8, 11 năm 1999; "Yếu tố chức vụ, quyền
hạn trong các tội xâm phạm sở hữu"; "Một số vấn đề đồng phạm trong các tội
xâm phạm sở hữu"; "Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu"; "Vấn đề định
tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu", của TS. Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 11, 6, 2, 8 năm 1997; "Tìm hiểu khái niệm và những
đặc trưng cơ bản của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam", TSKH. Đào Trí Úc,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 2001; "Thay đổi định tội danh một số
vấn đề lý luận và thực tiễn", PGS.TS. Võ Khánh Vinh, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 11, 2003… Những bài nghiên cứu trên đã khái quát được một số vấn
đề lý luận liên quan đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội; phân
tích, đánh giá, nhận định một số nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh,
đồng thời phân biệt với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999…
Tuy vậy, hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề
định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu mang tính chất chiếm đoạt
tại địa bàn tỉnh Bình Định.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định
tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng.
Theo đó nhiệm vụ của đề tài là làm rõ một số vấn đề sau:
- Khái niệm, đặc điểm của định tội danh.
- Cơ sở pháp lý, căn cứ pháp lý của việc định tội danh.
- Định tội danh trong một số trường hợp đặc biệt.
- Đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
- Đặc điểm và yêu cầu định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt.
- Thực trạng định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt tại tỉnh Bình Định.
- Chỉ ra nguyên nhân của thực trạng và những giải pháp để nâng cao
hiệu quả của hoạt động định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại
tỉnh Bình Định.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tượng nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về thực tiễn định
tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại Tòa án tỉnh Bình Định trên cơ
sở Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 và những văn
bản pháp luật có liên quan.
Về phạm vi nghiên cứu, căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan,
các tội xâm phạm sở hữu được chia làm 2 nhóm:
+ Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được quy định từ
Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự.
5
+ Các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt được quy
định từ Điều 141 đến Điều 145 Bộ luật hình sự.
Việc định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu là một vấn đề hết
sức phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực. Căn cứ vào tình hình thực tế tại
tỉnh Bình Định nên luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về vấn đề định
tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, giai đoạn 2006
đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung và
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một số
phương pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu
dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các
cấp Tòa án. Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của
pháp luật với nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu
để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung
và định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói riêng luôn là một
trong những hướng cơ bản, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của khoa học luật hình sự. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, được
thể hiện trên ba bình diện chủ yếu dưới đây:
a- Về mặt lập pháp, bên cạnh các quy định hiện hành như Bộ luật hình sự
năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
6
thì các quy định về việc định tội danh nói chung và định tội danh đối với nhóm
tội xâm phạm sở hữu nói riêng vẫn còn rời rạc, nằm rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-
VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương
XIV "Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999", Nghị quyết
số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 139, 193,
194, 278, 279, và 289 Bộ luật hình sự năm 1999… dẫn đến tình trạng thiếu
thống nhất, thiếu đồng bộ trong việc giải thích pháp luật.
b- Về mặt thực tiễn, chính xuất phát từ thực tiễn định tội danh đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn cả nước nói chung và ở Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Định nói riêng đã cho thấy sự yếu kém của một bộ phận cán bộ,
công chức trong việc nhận thức cũng như áp dụng đúng đắn các quy định của
pháp luật hình sự, dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội
phạm chưa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm, gây thiệt hại cho các quyền và tự
do của công dân, làm giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm.
c- Về mặt lý luận, vấn đề định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở
hữu tuy đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau nhưng
hiện chưa có một nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh đối với nhóm
tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Vì vậy:
- Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những khía cạnh
pháp lý về định tội danh nói chung và định tội danh đối với nhóm tội xâm
phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định nói riêng góp phần xây dựng, hoàn thiện lý
thuyết định tội danh trong khoa học pháp lý hình sự.
- Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là
Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn.
7
- Là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên
quan đến định tội danh nói chung và định tội danh đối với nhóm tội xâm
phạm sở hữu nói riêng tại Tòa án tỉnh Bình Định.
7. Những điểm mới của luận văn
Đề tài phân tích dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo công tác
ngành Tòa án tại tỉnh Bình Định - đó là những số liệu thực tế góp phần làm rõ
hơn về thực trạng về định tội danh trên địa bàn tỉnh.
Đề tài nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
một cách tương đối toàn diện trên khía cạnh pháp luật hình sự. Từ đó chỉ ra
những nguyên nhân tồn tại và đưa ra những giải pháp tương ứng để nâng cao
hơn nữa hiệu quả của hoạt động định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt tại tỉnh Bình Định.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với nhóm tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt tại tỉnh Bình Định.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động định
tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tại tỉnh
Bình Định.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI NHÓM TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI NHÓM
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Nếu như trong tố tụng hình sự, hoạt động định tội danh được hiểu là
việc xác định một tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội, theo đó các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện nhiều hoạt
động tố tụng theo trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định thì
trong khoa học luật hình sự, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ
bản, một nội dung quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự và là
một trong những biện pháp đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc
sống. Để có nhận thức đúng đắn về hoạt động định tội danh, ta cần làm rõ
khái niệm định tội danh.
Như ta đã biết, hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh
khái niệm định tội danh, cụ thể là:
1) Theo Từ điển Luật học (Nhà xuất bản Từ điển bách khoa) thì định
tội danh được hiểu là để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì phải định tội được theo tội danh mà
luật hình sự quy định. Cơ sở của việc định tội phải dựa vào các dấu hiệu cấu
thành tội phạm.
Viện kiểm sát khi quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án xét xử phải
xác định cụ thể tội danh trong bản cáo trạng theo điều luật hình sự quy định.
9
Sau khi kết thúc thủ tục tố tụng tại phiên tòa và nghị án, Tòa án (Hội
đồng xét xử) quyết định cuối cùng về tội danh (định tội) và hình phạt áp dụng
(lượng hình).
2) TSKH.PGS Lê Cảm và GVC Trịnh Quốc Toản cho rằng:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính
lôgic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được
tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được
và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và
kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [7, tr. 33].
3) Theo quan điểm của TS. Dương Tuyết Miên:
Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một
số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác
định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì,
theo điều luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá
trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [15, tr. 9].
4) Còn theo TS. Lê Văn Đệ, thì trong lý luận cũng như trong thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội phạm, định tội danh được hiểu dưới hai nghĩa:
Với ý nghĩa thứ nhất, định tội danh là một quá trình lôgic
nhất định, là hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác
nhận sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong một quy
phạm pháp luật thuộc phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Với ý nghĩa thứ hai, định tội danh là sự đánh giá về mặt
pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đó xảy ra trong thực
10
tế mà cán bộ có thẩm quyền đang xem xét nhằm xác định hành vi
đó thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định
tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự [12, tr. 10-11].
5) Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định - Đó là quan
điểm của TS. Võ Khánh Vinh.
6) Còn theo ThS. Đoàn Tấn Minh quan niệm:
Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong
tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực
tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội
phạm được mô tả (quy định) trong luật hình sự để giải quyết vụ án hình
sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật [16, tr. 10].
Những quan điểm nêu trên đã đề cập tương đối đầy đủ nội hàm của
định tội danh. Tuy nhiên ở từng quan điểm thì chưa bao gồm hết các nội dung
và đôi chỗ chưa phản ánh được bản chất của định tội danh.
Xuất phát từ bản chất của hoạt động định tội danh, chúng tôi đưa khái
niệm sau đây về định tội: Định tội danh là một khâu quan trọng trong quá
trình áp dụng quy phạm pháp luật hình sự, là một trong những dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự,
được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và
các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm
xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do
luật hình sự quy định.
Từ khái niệm này có thể khẳng định rằng mục đích của định tội danh
là nhằm đạt được sự thật khách quan - đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm
11
về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách
nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh
a- Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, thật
vậy, nhận thức đúng nội dung các quy định của Bộ luật hình sự trong phần
chung cũng như từng tội phạm cụ thể ở phần các tội phạm có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với định tội danh. Việc tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ
luật hình sự trong khi định tội danh là điều bắt buộc đồng thời là để thực hiện
chính sách hình sự của nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, pháp luật không thể phản ánh
được hết tất cả các mặt của đời sống xã hội vốn rất sinh động và phong phú
mà chỉ ghi nhận những nét khái quát, phổ biến đặc trưng của thực tế để từ đó
áp dụng cho các trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Tính chất khái quát và
phổ biến của quy phạm pháp luật và yêu cầu phải áp dụng nó một cách cụ thể
là hai mặt của một sự thống nhất biện chứng, đòi hỏi phải có sự nhận thức và
phán ánh chính xác, theo kịp và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt
động lập pháp và vai trò quan trọng của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
trong hoạt động áp dụng pháp luật.
Về nguyên tắc, chỉ khi sự đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của cấu
thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được xác
định là tương ứng và phù hợp với nhau thì mới có thể kết luận được chính xác
tội phạm đã xảy ra (là tội gì) và người phạm tội (đã phạm vào tội gì) đồng
thời buộc họ chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện.
Việc đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội
phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cũng có thể
dẫn đến hướng kết luận là không có tội phạm xảy ra hoặc người là
đối tượng kết luận không phạm vào tội đang cần được xác định nếu
kết quả đối chiếu tương ứng là không có sự phù hợp [16, tr.11].
12
Trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với
một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan.
b- Định tội danh là một hình thức hoạt động thực tiễn pháp lý của các
cơ quan tư pháp hình sự
Trước hết, về mặt pháp lý, hoạt động định tội danh bao giờ cũng là
hoạt động tố tụng hình sự. Tức là các hoạt động này được quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự và gắn liền với việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự-
đây là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, là một hoạt động, một quá
trình cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, mang
tính tổ chức quyền lực do Nhà nước thông qua những thiết chế của nó thực
hiện. Áp dụng pháp luật xuất hiện trong những trường hợp khi quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật không mặc nhiên phát sinh hoặc không
mặc nhiên được thừa nhận nếu không có sự can thiệp của Nhà nước với tư
cách là một tổ chức quyền lực công.
"Pháp luật tố tụng hình sự quy định rõ cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có những quyền hạn, trách nhiệm để giải quyết vụ án hình
sự và trên cơ sở đó những cơ quan, người có thẩm quyền này tiến hành việc
định tội danh để giải quyết vụ án hình sự" [16, tr. 10]. Trong quá trình thực
hiện các hoạt động tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xác
định được tất cả các tình tiết cần thiết của vụ án phù hợp với hiện thực khách
quan, tức là phải xem xét hành vi phạm tội trên tất cả các mặt của các yếu tố
cấu thành tội phạm trong một tổng thể có mối quan hệ biện chứng với nhau,
không tách rời. Đây được xem là quy trình cụ thể hóa của quy phạm pháp luật
hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy phạm pháp
luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào đó
được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó đưa ra kết luận là: hành vi
được xem xét ấy có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng
được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không.
13
c- Định tội danh được tiến hành trên cơ sở áp dụng pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự (luật về hình thức) và pháp luật hình sự (luật
về nội dung) đều là những cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh. Điều đó
có nghĩa là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng hình sự
có thẩm quyền khi tiến hành định tội danh ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào đều
phải áp dụng cả pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật hình sự.
Việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có thể xem là hình thức pháp
lý của hoạt động định tội danh. Vì pháp luật tố tụng hình sự quy định thẩm
quyền, trình tự, thủ tục của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong hoạt động định tội danh.
"Việc áp dụng pháp luật hình sự là nội dung pháp lý của hoạt động định
tội danh. Vì pháp luật hình sự quy định cụ thể tội danh của từng tội phạm cụ thể
với các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm đang được sử dụng để định tội
danh" [16, tr. 10]. Chính vì thế, việc thiết lập các dấu hiệu đặc trưng cơ bản và
điển hình để xác định bản chất pháp lý của hành vi nguy hiểm cho xã hội được
thực hiện trong thực tế khách quan là một vấn đề rất quan trọng của quá trình định
tội danh, mà toàn bộ quá trình này phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của
luật nội dung (Bộ luật hình sự) cũng như luật hình thức (Bộ luật tố tụng hình sự).
d- Định tội danh là một trong những biện pháp đưa pháp luật hình sự
vào cuộc sống xã hội và đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện
đường lối, chính sách hình sự của Nhà nước ta. Đây là quá trình hoạt động tư
duy do người tiến hành tố tụng thực hiện theo các quy luật lôgic. Nó đồng
thời cũng là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, về
cơ bản được tiến hành theo bốn bước, cụ thể là:
- Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự
phù hợp với hiện thực khách quan, đây là một nhiệm vụ quan trọng và cũng
rất hữu ích vì nó đảm bảo cho người định tội danh có thể nắm chắc được tất
14
cả các hành vi, những tình tiết có ý nghĩa về mặt hình sự trong vụ án. Những
tình tiết này sẽ đặt dưới sự kiểm tra, đánh giá của họ ở những bước tiếp theo.
Đây là bước giúp cho việc kiểm tra, đánh giá về mặt hình sự ở những bước
sau không sa vào những tình tiết thứ yếu, không có ý nghĩa về hình sự.
- Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm
pháp luật hình sự cần kiểm tra. Khi lựa chọn quy phạm pháp luật hình sự,
người định tội danh cần lưu ý tránh sự phiến diện, một chiều và cũng không
được thu hẹp hay mở rộng không cần thiết phạm vi các quy phạm pháp luật
cần kiểm tra.
Những quy phạm pháp luật hình sự được lựa chọn để kiểm tra chủ yếu
là những quy phạm chứa đựng trong "phần các tội phạm" của Bộ luật hình sự.
Còn các quy phạm pháp luật "phần chung" mặc dù có mối quan hệ thống nhất
với "phần các tội phạm" Bộ luật hình sự nhưng chỉ được lựa chọn và kiểm tra
khi nó có ý nghĩa đặc biệt đối với việc giải quyết vụ án.
- Lựa chọn đúng điều (các điều) tương ứng trong phần các tội phạm
Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm cụ thể để so
sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đó với các
tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện.
Dựa trên cơ sở các kết quả đạt được ở giai đoạn trước, việc kiểm tra
áp dụng trách nhiệm hình sự (định tội danh) trong giai đoạn này phải tuân
theo những nguyên tắc sau:
+ Quá trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh được tiến hành với từng hành
vi mà chủ thể đã thực hiện. Thông thường, hành vi nào nguy hiểm cho xã hội
nhất được kiểm tra đầu tiên. Nếu hành vi đó có mối quan hệ chặt chẽ với các
hành vi khác ít nguy hiểm hơn thì nên kiểm tra, so sánh, đối chiếu với từng
hành vi một theo thứ tự thời gian các hành vi đó thực hiện.
+ Nếu vụ án có nhiều người (đồng phạm) cùng tham gia thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, chúng ta cần bắt đầu kiểm tra hành vi của người
15
có vai trò chính (thông thường là hành vi của người trực tiếp thực hiện tội
phạm). Quá trình kiểm tra được tiến hành đối với hành vi của từng người một.
+ Lần lượt tiến hành kiểm tra, đối chiếu với từng cấu thành tội phạm
cụ thể. Trong trường hợp cần kiểm tra nhiều loại cấu thành tội phạm: cấu
thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm
giảm nhẹ, thì trước hết phải kiểm tra cấu thành tội phạm cơ bản vì trong cấu
thành này chứa đựng các dấu hiệu định tội danh.
+ Việc kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự (cấu thành tội phạm)
được tiến hành dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm và quá trình này bắt
đầu lần lượt từ khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội
phạm. Đây là một trình tự hơp lý nhất vì khách thể và mặt khách quan của tội
phạm bao gồm những dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài dễ nhận biết và cũng từ
đó tìm ra những dấu hiệu khác thuộc chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm.
+ Các dấu hiệu cấu thành tội phạm cần và đủ đặc trưng cho một tội phạm
cụ thể được quy định trong quy phạm "phần các tội phạm" và ở cả trong "phần
chung" Bộ luật hình sự, nên khi định tội danh trong các trường hợp cụ thể,
người định tội danh không chỉ căn cứ vào các quy phạm "phần các tội phạm"
mà còn phải kiểm tra các quy phạm trong "phần chung" của Bộ luật hình sự.
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi "chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 Bộ luật hình
sự), cho nên cần lưu ý xem xét hành vi trong thực tế có chứa đựng đầy đủ các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng không. Muốn vậy, cần thiết phải
có sự so sánh, đối chiếu giữa các hành vi xảy ra trong vụ án và các dấu hiệu
trong cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng một cách thận trọng, kỹ càng. Chỉ
khi có sự đồng nhất giữa chúng thì trách nhiệm hình sự của chủ thể hành vi đó
mới được xác định.
- Hình thức của hoạt động định tội danh được thực hiện bằng việc ra
văn bản áp dụng pháp luật.
16
Sau khi đã so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ, chính xác xong thì ra
một văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm
bảo sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã được thực hiện với
cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong luật hình sự.
"Mục đích cuối cùng của hoạt động định tội danh là để giải quyết vụ án
hình sự, tức kết luận có tội phạm xảy ra hay không, nếu có tội phạm xảy ra thì đó
là tội gì, ai là người phạm tội, họ đã phạm vào tội gì và buộc họ phải chịu một
hình phạt tương xứng với hành vi và tội phạm mà họ đã thực hiện" [16, tr. 11]
Hình thức về mặt pháp lý đó phải được thể hiện bằng văn bản áp dụng
pháp luật phù hợp với từng giai đoạn tố tụng, kết luận điều tra ở giai đoạn
điều tra, cáo trạng ở giai đoạn truy tố, bản án ở giai đoạn xét xử và thẩm
quyền giải quyết vụ án đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố
tụng hình sự.
1.1.3. Cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh
a- Quy định của Bộ luật hình sự
Để giải quyết vấn đề định tội danh, bao giờ cũng phải xem xét cơ sở
pháp lý của nó. Cơ sở pháp lý là những dấu hiệu của cấu thành tội phạm được
quy định trong luật hình sự. Theo đó, Bộ luật hình sự được xem là cơ sở pháp
lý duy nhất cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Sở dĩ khẳng định như vậy là vì có những lý do sau:
Thứ nhất, ở nước ta hiện nay, Bộ luật hình sự là nguồn trực tiếp và
duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự hiện hành
được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung
cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng.
Thứ hai, thực chất của việc định tội danh là so sánh, đối chiếu và kiểm
tra để xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tương ứng của tội
phạm cụ thể được quy định trong phần riêng Bộ luật hình sự hay không.
17
Thứ ba, khi xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật phần các tội
phạm Bộ luật hình sự, trong quá trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trưng cơ bản nhất, lặp đi lặp lại
nhiều lần nhất để điển hình hóa và quy định chúng trong Bộ luật hình sự với
tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tương ứng của các cấu thành tội phạm cơ
bản, cấu thành tội phạm đặc biệt tăng nặng, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu
thành tội phạm giảm nhẹ và dùng nó làm mô hình pháp lý của việc định tội danh.
Thứ tư, dựa vào mô hình pháp lý đó, những người có thẩm quyền tiến
hành trong việc định tội danh xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
những hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể tương ứng được thực hiện trong
thực tế khách quan.
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý (khách quan và
chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội
cụ thể là tội phạm tức là căn cứ vào dấu hiệu đó, một hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị coi là tội phạm.
Đây là một khái niệm mang tính chất khoa học, là mô hình pháp lý chung
cho tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội, những dấu hiệu của cấu thành tội
phạm vừa phản ánh được đầy đủ tính nguy hiểm của loại tội phạm cụ thể và vừa
đủ cho phép phân biệt loại tội này với loại tội khác. Như vậy, cấu thành tội phạm
là cơ sở pháp lý cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, là
căn cứ để Tòa án lựa chọn đúng loại và mức hình phạt đối với người bị kết án.
Theo đó, các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho mỗi loại tội phạm cụ thể luôn
được phản ánh trong bốn yếu tố (bốn yếu tố cấu thành tội phạm) gồm: Khách thể
của tội phạm, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Chính sự
phân chia này giúp chúng ta phân biệt được hai loại tội cụ thể khác nhau mặc
dù giữa chúng có những dấu hiệu trùng nhau, chẳng hạn như đối với tội trộm
cắp tài sản (Điều 138 Bộ luật hình sự) và tội cướp giật tài sản (Điều 136 Bộ
luật hình sự) là hai tội có cấu thành tội phạm giống nhau về phương diện
18
khách thể, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm nhưng giữa chúng lại có sự
khác nhau cơ bản về phương diện khách quan thể hiện ở tính chất của hành vi
phạm tội và phương pháp tiến hành: ở tội cướp giật thì hành vi chiếm đoạt tài
sản là công khai nhanh chóng còn trong tội trộm cắp tài sản thì hành vi được
tiến hành một cách lén lút. Đó là điểm khác nhau cơ bản làm cơ sở để xác
định hai loại cấu thành tội phạm về xâm phạm sở hữu khác nhau. Điều này
giúp cơ quan tiến hành tố tụng gặp thuận lợi trong quá trình định tội danh.
- Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến.
Việc quy định những quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là
khách thể của tội phạm phụ thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong
xã hội. Khách thể của tội phạm chính là đối tượng bảo vệ của luật hình sự được
quy định ở khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự. Thực tế cho thấy mỗi nhóm quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ cụ thể là khách thể của một nhóm tội phạm khác
nhau, chẳng hạn như quan hệ sở hữu có thể bị xâm hại bởi hành loạt hành vi
phạm tội như trộm cắp, cướp giật… mỗi hành vi này là một cấu thành tội phạm
riêng biệt và sự khác nhau giữa chúng không phải là khách thể của tội phạm mà
sự khác nhau đó thể hiện ở phương thức thực hiện hành vi, hậu quả và hình thức
lỗi. Như vậy, trong thực tế sẽ có những mối quan hệ bị hàng loạt hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm hại hoặc các hành vi phạm tội khác nhau có thể cùng
xâm hại tới một khách thể. Đây là cơ sở để xếp các loại tội phạm vào một
chương của Bộ luật hình sự. Đồng thời, trong thực tế cũng cho thấy mỗi hành
vi tội phạm xâm hại tới rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, nhưng chỉ những
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mới là khách thể của tội phạm.
Dựa vào phạm trù cái chung, cái riêng và cái đặc thù của phép biện
chứng trong triết học Mác - Lênin, có thể chia khách thể của tội phạm thành
khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
19
"Khách thể chung của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ và bị các tội phạm xâm hại" [12, tr. 37]
"Khách thể loại của tội phạm là một nhóm các quan hệ xã hội có cùng
tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một
nhóm tội phạm xâm hại" [12, tr. 37].
"Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể hoặc một
nhóm quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và
bị một tội phạm trực tiếp xâm hại" [12, tr. 38].
Khi xem xét yếu tố khách thể của tội phạm không thể không
đề cập đến đối tượng tác động của tội phạm. Bởi đối tượng tác động
của tội phạm là những bộ phận cấu thành nên quan hệ xã hội với tư
cách là khách thể của tội phạm. Đối tượng của tội phạm là những
vật thể cụ thể thuộc giới vật chất mà hành vi nguy hiểm cho xã hội
của người phạm tội hướng tới, thường được quy định trong phần
quy định của quy phạm pháp luật hình sự [12, tr. 42].
Việc xác định đúng đối tượng tác động trong một số trường hợp có ý
nghĩa trong việc định tội; trong một số trường hợp khác là dấu hiệu tăng nặng
định khung hình phạt…
- Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới
khách quan bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả cũng như những biểu hiện bên ngoài khác (công cụ,
phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội…).
Mặt khách quan là một yếu tố quan trọng của tội phạm, tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm do tất cả các yếu tố của cấu thành tội phạm
quyết định nhưng nếu phân tích từng yếu tố ta thấy chỉ khi nào người phạm
tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì thái độ chủ quan của họ mới có
ý nghĩa về hình sự, khách thể mới bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm.