Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 120 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***



NGUYỄN THỊ THANH TÚ


KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ



Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI – 2007




CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI:
KHOA LUẬT- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


Người hướng dẫn khoa học: Giáo sư - Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang





Phản biện 1:

Phản biện 2:




Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Vào hồi giờ ngày tháng năm 2007















Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC


TRANG

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục



MỞ ĐẦU

1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
01
2.
Tình hình nghiên cứu
03
3.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
04
4.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
05
5.
Cơ sở khoa học của đề tài
06
6.
Phương pháp nghiên cứu
06
7
Điểm mới của đề tài
06
8.
Cơ cấu luận văn
06
CHƯƠNG
1
QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM

07
1.1
Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện
kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình
07
1.2
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng
nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự
13
1.2.1
Đối tượng kháng nghị phúc thẩm
13
1.2.2
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
20
1.2.3
Căn cứ kháng nghị kháng nghị phúc thẩm hình sự
25
1.2.4
Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm hình
sự
28
1.2.5
Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự
31
1.2.6
Trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự
32
1.2.7

Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự
34

Kết luận chương 1
38


CHƯƠNG
2
TÌNH HÌNH KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2006
41
2.1
Vài nét về tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân
41
2.2
Những kết quả đạt được và những tồn tại trong
kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân từ năm 2002 đến năm 2006.
43
2.2.1
Những kết quả đạt được trong kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân
43
2.2.2
Những tồn tại trong kháng nghị phúc thẩm hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
49
2.2.3
Những nguyên nhân gây nên những tồn tại, thiếu

sót trong kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành
kiểm sát nhân dân
65

Kết luận chương 2
76
CHƯƠNG
3
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG NGHỊ
PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
78
3.1
Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về
kháng nghị phúc thẩm
78
3.2
Những giải pháp về công tác tổ chức cán bộ của
Viện kiểm sát nhân dân
89
3.2.1
Nâng cao trình độ năng lực và trách nhiệm nghề
nghiệp của Kiểm sát viên ngành kiểm sát
89
3.2.2
Tăng cường lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
của lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên đối với các Viện
kiểm sát cấp dưới
94
3.2.3

Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp
trong giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự
97
3.3
Một số đề xuất với cơ quan tư pháp trung ương
103

Kết luận chương 3
106

KẾT LUẬN
108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
110



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Viện kiểm sát nhân dân được Đảng và Nhà nước giao giữ một vị trí
quan trọng trong hoạt động tư pháp. Từ khi được thành lập cho đến nay,
ngành kiểm sát nhân dân ngày càng lớn mạnh và có những tiến bộ rõ rệt
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp
phần tích cực vào việc phát hiện, điều tra, xử lý đúng người, đúng tội, hạn
chế tỷ lệ án oan sai trong tố tụng hình sự, bảo vệ an ninh chính trị, an toàn xã
hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều đó góp phần tạo điều kiện cho nhịp
độ phát triển của nền kinh tế nước nhà được liên tục và bền vững.
Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một dạng

hoạt động quan trọng nhằm thực hiện chức năng của ngành kiểm sát. Điều
19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân
có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các
bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật…”.
Đặc biệt, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng riêng của Viện
kiểm sát. Điều này được khẳng định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
(Điều 206) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 232): “Viện kiểm sát
cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản
án hoặc quyết định sơ thẩm”. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức một cách đầy
đủ rằng đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được tuân
thủ đúng quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự.
Thực tiễn khẳng định, kháng nghị phúc thẩm hình sự chính là một
biện pháp, một công cụ sắc bén để kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án
hoặc quyết định sơ thẩm. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Toà án cấp trên
sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp sơ


2
thẩm; hướng dẫn Toà án cấp sơ thẩm khắc phục những thiếu sót trong việc
áp dụng pháp luật, đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ toà
án cấp sơ thẩm. Vì thế, có thể nói kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan
trọng nhằm đảm bảo cho việc xét xử sơ thẩm được đúng người, đúng tội,
đúng quy định của pháp luật.
Trong những năm vừa qua, thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm
của Viện kiểm sát nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhưng bên
cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại, chưa phát huy được hết các chức năng, vai trò
của mình. Vì thế, chất lượng của công tác này chưa cao, chưa đáp ứng được

những đòi hỏi trong tình hình mới. Điều này thể hiện rõ ở nhiều bản kháng
nghị không đạt được những yêu cầu cả về nội dung lẫn hình thức, dẫn đến
việc cấp trên phải rút kháng nghị hoặc Toà án cấp phúc thẩm không chấp
nhận nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát. Đây là thực trạng chung của
toàn ngành kiểm sát. Qua số liệu thống kê cho thấy: năm 2004 toàn ngành có
1022 kháng nghị phúc thẩm thì có 140 kháng nghị bị rút ở cấp phúc thẩm
(chiếm 14%); trong số 838 vụ có kháng nghị đưa ra xét xử phúc thẩm thì có
203 vụ, Toà phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị chiếm 25%.[31, tr. 3].
Thực trạng này ảnh hưởng không tốt đến chất lượng hoạt động nghiệp vụ của
Viện kiểm sát. Mặt khác, hiện nay trong Bộ luật tố tụng hình sự có những
quy định còn chưa phù hợp, chưa tạo điều kiện cho hoạt động kháng nghị
của Viện kiểm sát như: chưa quy định những căn cứ để tiến hành kháng nghị
phúc thẩm hình sự; hay có rất nhiều quy định về quyết định sơ thẩm, nhưng
lại không quy định rõ quyết định nào của Toà án là quyết định thuộc đối
tượng của công tác kháng nghị phúc thẩm, nên việc kháng nghị đối với các
quyết định của Toà án gần như bị buông lỏng. Về mặt lý luận cũng như thực
tiễn cũng còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề kháng nghị phúc thẩm
hình sự là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố hay chức năng kiểm


3
sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Điều đó tạo ra nhận
thức không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngay trong ngành
kiểm sát cũng có nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau gây khó khăn
cho việc thực hiện chức năng của ngành. Ngoài ra, công tác kháng nghị trong
ngành kiểm sát chưa được sự quan tâm đúng mức cũng góp phần làm cho
công tác kháng nghị chưa thực sự phát huy hết vai trò trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự.
Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày

02/01/2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị nhằm
“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [2, tr. 2]. Theo tinh thần đó,
hoạt động của ngành kiểm sát phải được nâng cao về mặt chất lượng cũng
như đổi mới về nhận thức, cách thức thực hiện nhằm tạo ra những chuyển
biến về chất cho hoạt động này.
Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự”
là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn nhằm đáp
ứng được yêu cầu về chất lượng công tác kiểm sát hình sự và thực hành
quyền công tố của ngành kiểm sát trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ lý
do đó, tác giả đã chọn đề tài trên làm luận văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về những vấn đề liên
quan đến kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể là các công trình như: Thủ tục xét
xử các vụ án hình sự: xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm


4
của tác giả Đinh Văn Quế; Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự
Việt Nam của tác giả Đào Trí Úc; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 của tác giả Phạm Văn Lợi, Trần Đình Nhã, Nguyễn Tất Viễn
v.v. Hay các bài viết của các nhà luật học như: Khuất Văn Nga, Dương
Thanh Biểu, Trịnh Khắc Triệu, Võ Quang Nhạn, Đặng Quang Phương
.v.v…đăng trên Tạp chí kiểm sát, tạp chí Luật học. Một số giáo trình giảng
dạy ở các trường đại học chuyên ngành (Đại học Luật, Khoa luật Đại học
quốc gia Hà Nội, Học viện An ninh, Đại học cảnh sát…) cũng đề cập đến

vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, bài viết cũng như các giáo
trình giảng dạy này chưa đi sâu nghiên cứu những vấn đề về lý luận cũng
như thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân. Mặt khác, như đã trình bày rõ ở trên, kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân chưa đáp ứng hết những đòi hỏi trong thực tiễn,
pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề phải đi sâu nghiên cứu
và làm rõ. Vì thế, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định này
là cần thiết và hữu ích.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố
tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo trình tự phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhưng trong phạm vi đề tài này chỉ đi sâu
nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kháng
nghị phúc thẩm hình sự; phân tích số liệu kháng nghị phúc thẩm hình sự của
toàn ngành kiểm sát nhân dân và cụ thể đi sâu phân tích tình hình kháng nghị
của Viện kiểm sát nhân dân thuộc thành phố Hải Phòng trong những năm
gần đây (2002-2006); để từ đó đánh giá, nhận xét về thực trạng kháng nghị
của Viện kiểm sát nhân dân. Đồng thời, từ những quy định của pháp luật
hiện hành về vấn đề này và thực trạng hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình
sự của ngành kiểm sát, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn


5
thiện pháp luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực này cũng như để nâng cao
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong ngành kiểm sát nhân dân trong
thời gian tới.
Cơ sở pháp lý nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 1992, Nghị
quyết số 08 ngày 02/01/2002 và số 49 ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị, các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và một số văn bản

hướng dẫn của các cơ quan tư pháp trung ương, quy chế nghiệp vụ của
ngành kiểm sát về hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và
những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm
hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Thông qua việc phân tích tình hình kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành
kiểm sát nhân dân và cụ thể đi sâu phân tích tình hình kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân dân hai cấp thuộc thành phố Hải Phòng trong những năm gần
đây (2002-2006), luận văn đánh giá đúng thực trạng công tác kháng nghị
phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các
giải pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để vận dụng có hiệu
quả vào hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự, nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động này trong thời gian tới. Đồng thời, đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật nước ta về vấn đề này.
Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng nghị
phúc thẩm hình sự như: khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện
kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.


6
Hai là, đánh giá đúng thực trạng hoạt động kháng nghị phúc thẩm
hình sự của ngành kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây để tìm ra
những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng trên, nhằm xác định
đúng bản chất của vấn đề. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp cho phù hợp,
tiến tới hoàn thiện chế định này trong Bộ luật tố tụng hình sự.
5. Cơ sở khoa học của đề tài.

Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự
của ngành kiểm sát nhân dân và thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thuộc thành phố Hải Phòng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, luận văn cũng dựa trên các công
trình của các nhà luật học và các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh
vực này.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng
khoa học kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như các phương pháp
thống kê, tổng hợp; phương pháp phân tích, lựa chọn; phương pháp đối
chiếu, so sánh; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp hệ thống và
một số phương pháp bổ trợ khác.
7. Điểm mới của đề tài.
Kết quả của đề tài không phải là tài liệu có tính chất hàn lâm học thuật
hoặc chuyên khảo mà chủ yếu là nghiên cứu, phân tích chế định kháng nghị
phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần nâng
cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát,
đồng thời hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về lĩnh vực này.
8. Cơ cấu của luận văn.


7
Luận văn bao gồm: lời nói đầu, ba chương và kết luận. Kèm theo là
danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1
QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp
lý riêng có của Viện kiểm sát. Các chủ thể tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng khác đều không có quyền này. Kháng nghị phúc thẩm hình
sự là một trong những cơ sở đảm bảo đúng nguyên tắc “thực hiện chế độ hai
cấp xét xử” theo quy định của Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một trong những căn cứ để mở ra
một trình tự tố tụng mới, trình tự xét xử phúc thẩm hình sự như quy định của
Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự: “xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên
trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết
định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị”. Theo quy định trên, ngoài kháng nghị phúc thẩm thì kháng cáo
cũng là một căn cứ để mở ra trình tự xét xử phúc thẩm hình sự. Chỉ có thể
kháng nghị phúc thẩm và kháng cáo đối với bản án hoặc quyết định của Toà
án cấp sơ thẩm khi bản án hoặc quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật,
không đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ. Mặc dù, giữa kháng nghị
phúc thẩm của Viện kiểm sát và kháng cáo có nhiều điểm giống nhau nhưng
lại có sự khác nhau cơ bản là: kháng cáo chỉ là sự nhân danh cá nhân, tổ
chức, cơ quan (tổ chức, cơ quan với tư cách là nguyên đơn dân sự trong vụ


8
án hình sự) để bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Do vậy, những người có
quyền kháng cáo chỉ cần không đồng ý với bản án hoặc quyết định của Toà
án cấp sơ thẩm là đã có quyền kháng cáo. Còn kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát là việc thực hiện chức năng nhiệm vụ theo luật định và chỉ

kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm nếu phát hiện bản án, quyết định đó
có sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật. Viện kiểm
sát thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp
của nhà nước, xã hội; các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo cũng như
quyền lợi của các đương sự trong vụ án hình sự. Viện kiểm sát thực hiện
kháng nghị phúc thẩm bằng một văn bản pháp lý trong đó nêu rõ lý do của
việc kháng nghị (khoản 2 Điều 233), đồng thời yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật, nhằm sửa chữa khắc phục các sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm (nếu
có) khi ra các bản án hoặc quyết định đó.
Tuy nhiên, một vấn đề đang đặt ra là: kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố hay chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp? Về vấn đề này trong thực tiễn cũng
như lý luận còn nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm của một số cán bộ,
Kiểm sát viên Viện kiểm sát thành phố Hải Phòng cho rằng: kháng nghị phúc
thẩm hình sự là thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát. Theo quan điểm này, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được thực hiện từ khi khởi tố vụ
án hình sự - đến giai đoạn thi hành bản án hoặc quyết định của Toà án. Chức
năng kiểm sát của Viện kiểm sát là một hoạt động bao trùm, xuyên suốt quá
trình tố tụng. Còn quyền công tố của Viện kiểm sát chỉ được thực hiện ở giai
đoạn truy tố và xét xử vụ án hình sự tại phiên toà. Thực hiện chức năng kiểm
sát tức là đã bao gồm việc thực hiện quyền công tố. Cũng theo quan điểm
này, thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà,


9
kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án, Viện kiểm sát phát hiện vi phạm
thì mới ban hành kháng nghị. Nếu hiểu theo quan điểm này thì chưa thật
chính xác so với các quy định của pháp luật nước ta như Điều 137 Hiến pháp

năm 1992 sửa đổi quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp do luật định”. Ngay Điều 23 Bộ luật tố tụng
hình sự hiện hành cũng quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà
án. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có
trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những
biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của
những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Như vậy, có thể
khẳng định Viện kiểm sát có hai chức năng rất rõ ràng là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nước. Điều này cũng được
khẳng định một lần nữa tại các Điều 12, Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002. Trong suốt quá trình tố tụng, Viện kiểm sát thực hiện
đồng thời cả hai chức năng này.
Theo quan điểm của tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Phó viện trưởng -
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là
một trong những hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” [30, tr 3]. Theo quan


10
điểm này, chức năng công tố của Viện kiểm sát chỉ có thể thực hiện ở giai
đoạn truy tố và giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Do đó, khi Viện kiểm sát thực

hành quyền công tố tại phiên toà, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật cần
kháng nghị, Viện kiểm sát đã có quyền kháng nghị phúc thẩm mà không đợi
thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Toà án.
Quan điểm khác đã khẳng định được Viện kiểm sát có hai chức năng
là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhưng vẫn có
những hạn chế: một là, nếu hiểu quyền công tố theo quan điểm này thì chưa
thật toàn diện, bởi lẽ nội dung và phạm vi của quyền công tố rộng hơn nhiều.
Đó là quyền của Nhà nước giao cho cơ quan chức năng để thực hiện việc
buộc tội đối với những người thực hiện hành vi phạm tội nhằm bảo vệ các
lợi ích của xã hội, của tập thể, của các tổ chức và công dân. Quyền công tố
của nhà nước xuất hiện từ thời điểm có hành vi phạm tội xảy ra và được giao
cho Viện kiểm sát. Quyền công tố được thể hiện ở những mức độ và hình
thức khác nhau tuỳ thuộc vào tư cách tham gia tố tụng của Viện kiểm sát
trong mỗi giai đoạn tố tụng cụ thể. Để đảm bảo thực hiện chính xác quyền
quyết định đưa vụ án ra toà, cần khẳng định phạm vi chức năng công tố bao
gồm cả trong hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử…mà không nên
đồng nhất quyền công tố với một số biện pháp pháp lý như làm cáo trạng,
luận tội…mà khi thực hành quyền công tố Viện kiểm sát nhân dân đã thực
hiện. Tại Điều 12, Điều 13 Luật tổ chức nhân dân năm 2002 khẳng định,
trong giai đoạn điều tra Viện kiểm sát nhân dân thực hiện cả hai chức năng là
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều
tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Điều 112 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đã khẳng định điều đó một
lần nữa. Hai là, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị không chỉ thông


11
qua hoạt động thực hiện chức năng công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình

sự mà còn thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên
toà, qua nghiên cứu bản án, quyết định của Toà án gửi cho Viện kiểm sát. Vì
tại phiên tòa và sau phiên toà, Viện kiểm sát không chỉ thực hiện một chức
năng duy nhất là công tố mà còn thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Toà án. Thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát cũng chứng minh điều đó. Có rất nhiều bản kháng nghị của
Viện kiểm sát được ban hành thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết
định của Toà án.
Quan điểm của lãnh đạo và đa số cán bộ, Kiểm sát viên thành phố Hải
Phòng cho rằng: kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát vừa để
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, vừa thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án. Đây là quan
điểm phổ biến hiện nay, phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật.
So với quan điểm thứ nhất và thứ hai, quan điểm thứ ba đã hiểu đúng bản
chất của cơ quan Viện kiểm sát. Viện kiểm sát không chỉ có một chức năng
kiểm sát mà còn có chức năng thực hành quyền công tố. Hai chức năng này
xuất hiện cùng một thời điểm, cùng tồn tại trong suốt các giai đoạn của tố
tụng hình sự. Chúng vừa có tính độc lập tương đối vừa có quan hệ gắn bó
hữu cơ mật thiết với nhau, được tiến hành song song với nhau trong suốt quá
trình tố tụng, có vai trò hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau tạo nên tính thống nhất
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Hai chức năng này
có một số nội dung đan xen lẫn nhau, vừa thuộc chức năng này vừa thuộc
chức năng kia và ngược lại. Mặc dù, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 tại các Điều 13, 14, 15, 17, 18 quy định nội dung của hoạt động
thực hành quyền công tố và công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử thành
những điều độc lập với nội dung và giới hạn khác nhau; hoặc có những hoạt
động không được xác định thuộc chức năng nào nên không thể quy định


12

trong các điều luật trên mà tách thành một điều luật riêng (Điều 19); hay tại
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định trong giai đoạn điều tra,
Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố, chức năng kiểm sát tại các điều
luật riêng biệt (Điều 112, Điều 113). Như đã phân tích ở trên, trong mỗi giai
đoạn của tố tụng hình sự, tư cách tham gia của Viện kiểm sát có những phạm
vi và mức độ khác nhau. Tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn tố tụng mà hai chức
năng này của Viện kiểm sát được thực hiện khác nhau. Việc quy định như
trên không đồng nghĩa với việc hiểu hai chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát của Viện kiểm sát độc lập với nhau. Do đó, kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát không chỉ được thực hiện thông qua hoạt
động thực hành quyền công tố mà còn thông qua hoạt động kiểm sát của
Viện kiểm sát; không chỉ trước, trong mà còn sau phiên toà hình sự.
Như vậy, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một dạng hoạt động của
Viện kiểm sát mà không thể (và cũng không nên hiểu một cách máy móc)
phân định một cách rõ ràng đó là hoạt động thực hành quyền công tố hay
kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều đó cũng phù hợp với Điều 19 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định
của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Do đó, tác giả đồng tình
với quan điểm coi kháng nghị phúc thẩm hình sự là vừa để thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố, vừa để thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án. Hiểu như vậy sẽ toàn
diện và đúng với chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát hơn. Mặt khác,
còn giúp cho cán bộ ngành kiểm sát thực hiện tốt cả hai chức năng của Viện
kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Đồng thời, trong quá trình thực hiện hai chức năng này sẽ không có sự phân
biệt, đề cao chức năng này coi nhẹ chức chức năng kia.



13
Hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như các văn bản
pháp lý chưa có một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự
là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét
xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét
xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật” [28, tr. 235]. Nếu hiểu kháng nghị
phúc thẩm hình sự như trên chưa phản ánh đúng bản chất của kháng nghị
phúc thẩm là quyền năng pháp lý riêng của Viện kiểm sát và chưa thật đầy
đủ. Qua các quy định về kháng nghị của pháp luật hiện hành và phân tích ở
trên, theo tác giả có thể hiểu: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền
năng pháp lý đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, do người có thẩm quyền
thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và
yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ thẩm, nhưng xét thấy
không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai lầm trong các
bản án và quyết định đó.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.2.1. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tại Điều 230 quy định: “Xét xử phúc
thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại bản án,
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị”. Điều 232 quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết
định sơ thẩm”. Qua nội dung hai điều luật trên cho thấy: đối tượng của
kháng nghị phúc thẩm hình sự là bản án sơ thẩm hoặc quyết định sơ thẩm
của vụ án đó nhưng chưa có hiệu lực pháp luật. “Bản án hoặc quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là những bản án, quyết định sơ thẩm còn



14
trong thời hạn kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm” [28, tr.
235], tức là sau khi ban hành còn trong thời hạn để người có thẩm quyền
kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo, hoặc người có thẩm quyền kháng nghị
thực hiện quyền kháng nghị. Như vậy, về nguyên tắc, bản án hoặc quyết định
sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật không phải là đối tượng của xét xử phúc
thẩm và do đó, cũng không thuộc đối tượng của kháng nghị phúc thẩm.
Đối tượng kháng nghị phúc thẩm là bản án của Toà án cấp sơ thẩm
được Bộ luật tố tụng hiện hành quy định tương đối rõ ràng. Bản án là những
phán quyết của Hội đồng xét xử với những hình thức và nội dung theo quy
định tại Điều 224 Bộ luật tố tụng hình sự. Ngược lại, đối với những quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm, việc xác định quyết định nào là đối tượng để
Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm còn có nhiều ý kiến.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trong giai đoạn sơ thẩm,
Toà án có quyền ra nhiều loại quyết định như: quyết định xử lý vật chứng
(Điều 76); quyết định khởi tố vụ án hình sự (Điều 104); quyết định chuyển
vụ án (Điều 174); quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 176); quyết định thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp ngăn chặn (Điều 177); quyết định dẫn giải người làm chứng (Điều
192); quyết định hoãn phiên toà (Điều 194); quyết định bắt buộc chữa bệnh
(Điều 311) v.v. Trong số các quyết định của Toà án sơ thẩm luôn tồn tại một
số quyết định mà vì tính chất đặc thù của nó nên việc thi hành là không thể
trì hoãn, kể cả trong trường hợp bị kháng nghị phúc thẩm. Nghĩa là quyết
định đó phải có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ban hành, bất luận sau đó có bị
kháng nghị phúc thẩm hay không. Chẳng hạn như: quyết định chuyển vụ án,
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định về việc bắt giam hoặc trả
tự do cho bị cáo, quyết định hoãn phiên toà, quyết định thay đổi người tiến
hành tố tụng…Vì lẽ đó mà trong số các quyết định trên, Bộ luật tố tụng hình
sự đã quy định rõ quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 176) không



15
phải là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm. Theo khoản 2 Điều 179 thì:
“Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra
quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà án biết. Trong trường hợp
không bổ sung được những vấn đề mà Toà án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ
nguyên quyết định truy tố thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án”. Tuy nhiên
với các quyết định còn lại thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định rõ là
đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự hay không.
Bên cạnh đó, một số quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật
nhưng vẫn thuộc đối tượng của kháng nghị phúc thẩm như trường hợp tại
khoản 3 Điều 316 quy định: quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có khiếu nại hoặc kháng nghị, kháng
cáo. Trong trường hợp này, tính chất của xét xử phúc thẩm đã không còn
đúng như quy định tại Điều 230 nữa, đối tượng của xét xử phúc thẩm trong
trường hợp này lại là một quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thay vì một
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
Pháp luật tố tụng hiện hành không quy định rõ Viện kiểm sát được
kháng nghị đối với các quyết định nào của Toà án sơ thẩm. Hướng dẫn về
vấn đề này tại mục 3 phần I, hướng dẫn thi hành Điều 232 Bộ luật tố tụng
hình sự trong Nghị quyết số 05/2005/NQ - HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, về việc hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự
thì những quyết định sơ thẩm là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm bao
gồm: quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và các quyết định khác. Với đối tượng
của kháng nghị phúc thẩm là các quyết định khác, Nghị quyết không đề cập
cụ thể là những quyết định sơ thẩm nào mà chỉ hướng dẫn chung chung:
trường hợp kháng nghị đối với các quyết định khác, thì Toà án cấp sơ thẩm

phải căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và văn bản pháp luật


16
liên quan quy định về thẩm quyền và thủ tục kháng nghị, giải quyết cụ thể đó
để giải quyết vụ án. Để minh hoạ cho nội dung này, Nghị quyết đưa ra một
ví dụ về trường hợp kháng nghị lệnh tạm giam của Toà án cấp sơ thẩm như
sau: Viện kiểm sát cùng cấp căn cứ vào Điều 232 và Điều 239 của Bộ luật tố
tụng hình sự, khoản 6 Điều 27 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
kháng nghị lệnh tạm giam của Chánh án Toà án nhân dân huyện Q đối với bị
cáo Nguyễn Thị M với lý do bị cáo đang nuôi con dưới ba sáu tháng tuổi và
không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản
2 Điều 88 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp này, sau khi nhận
được kháng nghị của Viện kiểm sát, Chánh án Toà án nhân dân huyện Q
phải xem xét lý do kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp có đúng hay
không. Nếu đúng thì căn cứ vào Điều 177 của Bộ luật tố tụng hình sự ra
quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị cáo M, nếu không đúng thì
có văn bản trả lời cho Viện kiểm sát biết về việc không chấp nhận kháng
nghị, trong đó nêu rõ lý do của việc không chấp nhận kháng nghị. Phân tích
ví dụ trên theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, lệnh tạm
giam của Chánh án Toà án huyện Q không phải là đối tượng của kháng nghị
phúc thẩm và việc Chánh án Toà án huyện Q xem xét kháng nghị của Viện
kiểm sát cùng cấp để chấp nhận hoặc không chấp nhận, cũng không được coi
là hoạt động xét xử phúc thẩm vì những lý do, thứ nhất, lệnh tạm giam là
một quyết định sơ thẩm không thoả mãn đặc trưng về đối tượng của kháng
nghị phúc thẩm, tức là một quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Do tính chất đặc thù của lệnh tạm giam nên nó phải có hiệu lực thi hành kể
từ ngày ban hành, mà không thể chưa có hiệu lực tối đa là mười lăm ngày
như Điều 239, Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Mặt khác, tại Điều
230 Bộ luật tố tụng hình sự thì một quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp

luật không phải là đối tượng của xét xử phúc thẩm. Lệnh tạm giam cũng
không được Bộ luật tố tụng hình sự quy định thành một trường hợp đặc biệt,


17
tương tự như đối với quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Điều
311 Bộ luật tố tụng hình sự): “quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh của Toà án vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có khiếu nại, kháng nghị,
kháng cáo” (khoản 3 Điều 316 Bộ luật tố tụng hình sự, qua đó để có thể trở
thành đối tượng của kháng nghị phúc thẩm. Hơn nữa, thực tế cho thấy, chỉ có
những trường hợp bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo khiếu nại
hoặc Viện kiểm sát cùng cấp kiến nghị về việc xem xét tính có căn cứ và hợp
pháp trong lệnh tạm giam của Toà án cấp sơ thẩm. Trường hợp Viện kiểm
sát kháng nghị lệnh tạm giam của Toà án là rất hy hữu. Thứ hai, theo quy
định của Điều 230 thì chủ thể tiến hành xét xử phúc thẩm là Toà án cấp trên
trực tiếp xét lại quyết định sơ thẩm. Rõ ràng trong trường hợp này, Chánh án
Toà án nhân dân huyện Q không phải là chủ thể tiến hành xét xử phúc thẩm
đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q mà phải thuộc về
Toà án cấp tỉnh, nơi huyện Q là một đơn vị lãnh thổ hành chính trực thuộc.
Chính vì quy định chưa rõ ràng của Bộ luật tố tụng hình sự và hướng
dẫn chung chung này đã làm nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau về quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là đối tượng của kháng nghị phúc
thẩm hình sự: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Viện kiểm sát có quyền kháng
nghị với tất cả các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm vì Bộ luật tố tụng hình
sự không giới hạn những quyết định nào là đối tượng của công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự. Quan điểm này đã coi các quyết định của Toà án
đều chưa có hiệu lực pháp luật ngay và đều là đối tượng kháng nghị của Viện
kiểm sát. Quan điểm này chưa hợp lý và phù hợp với quy định của pháp luật
tố tụng hiện hành, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật vì một số quyết định
sơ thẩm được Bộ luật tố tụng quy định rõ ràng không phải là đối tượng của

kháng nghị phúc thẩm. Ví dụ như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
(Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự); quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh của Toà án có hiệu lực pháp luật ngay nhưng vẫn thuộc đối tượng


18
kháng nghị của Viện kiểm sát (Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự). Mặt khác,
nếu coi quyết định nào của Toà án cấp sơ thẩm cũng là đối tượng của kháng
nghị, mặc dù nếu các quyết định này có sai sót đã có cách giải quyết khác thì
dẫn đến việc kháng nghị tràn lan, không hiệu quả, kéo dài thời gian xét xử
của vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng: chỉ những quyết định nào được Hội
đồng xét xử thông qua tại phòng nghị án mới là đối tượng của kháng nghị
phúc thẩm vì những quyết định đó mới là quyết định sơ thẩm và là quyết
định giải quyết vụ án cuối cùng. Quan điểm này chưa hợp lý vì đã vô hình
chung loại bỏ những quyết định do Toà án ban hành trước đó như: quyết
định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Điều 311), quyết định đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử của Toà án (Điều
180)…Quan điểm thứ ba cho rằng: đối tượng của công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự là những quyết định được ban hành ở giai đoạn sơ thẩm theo
quy định của phần thứ ba Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nhưng không
phải tất cả các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm đều là đối tượng của công
tác kháng nghị. Đối với các quyết định của Toà án sơ thẩm nếu Viện kiểm
sát không nhất trí nhưng có thể giải quyết theo các trình tự pháp luật khác mà
không cần phải kháng nghị, thì không phải là đối tượng của kháng nghị phúc
thẩm. Ngược lại, có những quyết định của Toà án cấp sơ thẩm do tính chất
đặc thù của nó phải có hiệu lực thi hành ngay nhưng vẫn là đối tượng của
kháng nghị. Những trường hợp này là những trường hợp đặc biệt cần quy
định cụ thể trong điều luật đó và nên bổ sung vào Điều 232 Bộ luật tố tụng
hình sự đối tượng kháng nghị phúc thẩm là một số quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật được quy định trong các điều luật cụ thể.

Quan điểm thứ ba hiện nay có nhiều ý kiến đồng tình hơn cả và phù
hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Viện
kiểm sát chỉ nên kháng nghị các quyết định của Toà án ở giai đoạn chuẩn bị
xét xử và những quyết định khác của Hội đồng xét xử khi chưa tuyên án, nếu


19
vụ án được phán quyết bằng một bản án thì đối tượng kháng nghị phúc thẩm
lúc này là bản án chứ không phải là một quyết định nữa.
Tuy nhiên, để xác định những quyết định nào là đối tượng của công
tác kháng nghị phúc thẩm thì cần phải nhìn nhận một cách toàn diện trên
nhiều góc độ khác nhau: một là, xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự là để yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử
lại vụ án, xét lại các quyết định có vi phạm, sai lầm làm ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích của Nhà nước và xã hội; quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo,
người có liên quan; ảnh hưởng đến sự công bằng, đúng đắn trong áp dụng
pháp luật. Mặt khác, kháng nghị phúc thẩm sẽ mở ra một trình tự tố tụng mới
làm kéo dài quá trình giải quyết vụ án, đòi hỏi về thời gian cũng như chi phí,
công sức…Vì vậy, việc kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật không thể là sự tràn lan, tuỳ tiện mà cần có
trọng tâm, trọng điểm. Do vậy, Viện kiểm sát chỉ nên tập trung vào kháng
nghị các quyết định có tính chất quan trọng của Toà án thể hiện quan điểm,
đường lối xử lý bị can, bị cáo và những quyết định này nếu có vi phạm, sai
lầm mà nếu được kháng nghị thì sẽ không khắc phục được như: quyết định
khởi tố vụ án (Điều 104); quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ
vụ án (Điều 176); quyết định thay đổi, áp dụng, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
(Điều 177)…Những quyết định này chủ yếu được ban hành trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm và ở phần thủ tục của phiên toà sơ thẩm. Nếu vụ án
đã được xét xử thì lúc này đối tượng kháng nghị không phải là những quyết
định nữa mà phải là bản án.

Hai là, thực tế Viện kiểm sát chỉ biết và có khả năng kháng nghị khi
nhận được các quyết định đó. Trong khi đó, tại khoản 3 và 4 Điều 182 Bộ
luật tố tụng hình sự chỉ quy định một số quyết định Toà án phải gửi ngay cho
Viện kiểm sát là: quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định đình chỉ, quyết
định tạm đình chỉ vụ án, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp


20
ngăn chặn còn một số các quyết định quy định có phải gửi nhưng không xác
định rõ thời hạn như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 179)
hoặc có quyết định Toà án chỉ thông báo cho Viện kiểm sát biết trong thời
gian hai ngày như quyết định chuyển vụ án (Điều 174). Như vậy: Viện kiểm
sát có thể kháng nghị đối với các quyết định mình không nhận được không?
Thực tế cho thấy Viện kiểm sát không thể kháng nghị phúc thẩm các quyết
định mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định Toà án không phải gửi cho Viện
kiểm sát. Vì Viện kiểm sát sẽ không thể nắm được nội dung của các quyết
định đó để xác định tính có căn cứ và tính trái pháp luật để làm cơ sở tiến
hành kháng nghị phúc thẩm. Như vậy, trong số những quyết định mà Bộ luật
tố tụng hình sự không quy định Toà án phải gửi ngay cho Viện kiểm sát có
thể hiểu đó là những quyết định đã có hiệu lực và những quyết định này
không là đối tượng của công tác kháng nghị phúc thẩm.
Từ nghiên cứu và phân tích trên, tác giả cho rằng những quyết định là
đối tượng của công tác kháng nghị phúc thẩm phải có các điều kiện: thứ
nhất, phải là các quyết định sơ thẩm của Toà án liên quan trực tiếp đến việc
xử lý vụ án, bị can, bị cáo. Thứ hai, phải là những quyết định sơ thẩm có vi
phạm mà nếu không kháng nghị phúc thẩm thì không có trình tự pháp luật
nào để khắc phục. Thứ ba, là những quyết định sơ thẩm mà theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự, Toà án phải gửi ngay cho Viện kiểm sát.
Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ những quyết định nào là đối
tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự và thực tiễn sự vận dụng của các cơ

quan tiến hành tố tụng đang có sự bất cập so với các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự. Do vậy, để hoạt động kháng nghị phúc thẩm đạt được kết quả
như mục đích và ý nghĩa của công tác này, cần quy định một cách cụ thể
trong Bộ luật tố tụng hình sự những quyết định nào của Toà án sơ thẩm là
đối tượng của kháng nghị phúc thẩm.
1.2.2. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự.


21
Bộ luật tố tụng hình sự quy định thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình
sự đối với bản án và quyết định sơ thẩm là khác nhau.
Thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm: khoản 1 Điều 234 Bộ
luật tố tụng hình sự quy định: “Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng
cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày,
kể từ ngày tuyên án”. So với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
thời hạn này không có gì thay đổi. Trong thời hạn mười lăm ngày hoặc ba
mươi ngày ngay sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên đã tham
gia phiên toà sơ thẩm xem xét có cần phải kháng nghị bản án sơ thẩm hay
không. Nếu có căn cứ kháng nghị thì Kiểm sát viên đề xuất với lãnh đạo viện
ngay mà không cần phải chờ đến khi nhận được bản án chính thức của Toà
án gửi sang cho Viện kiểm sát. Ví dụ, sau khi kết thúc phiên toà, Kiểm sát
viên thấy Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo không có căn cứ
theo Điều 60 Bộ luật hình sự, thì Kiểm sát viên báo cáo đề xuất với lãnh đạo
Viện kiểm sát xem xét quyết định việc kháng nghị ngay mà không cần chờ
nhận được bản án chính thức do Toà án gửi đến. Tuy nhiên, trong thực tế
những trường hợp kháng nghị này rất ít, hầu hết là kháng nghị khi đã có bản
án chính thức được gửi sang Viện kiểm sát.
Cách tính thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hạn kháng
nghị, Bộ luật tố tụng hình sự chưa có quy định cụ thể. Về vấn đề này, được
hướng dẫn cụ thể tại điểm a, tiểu mục 4.1, mục 4, Nghị quyết số 05 ngày

08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao như sau: “Thời
điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày
được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết
định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên toà
hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc niêm yết trong trường hợp
bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà”. Minh hoạ cho nội dung này, Nghị
quyết lấy ví dụ cụ thể như sau: “Ngày 10/10/2005 Toà án xét xử sơ thẩm vụ

×