Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Quản lý tài chính trong các tổ chức nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 137 trang )

MÔN: QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG CÁC TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC
Giảng viên: TS Nguyễn Huy Hoàng
Câu hỏi kiểm tra điều kiện:
1. Nêu quy trình cấp phát thanh toán vốn xây lắp, cấp phát vốn mua sắm thiết bị?
Cần phải chú ý những điểm gì khi cấp phát vốn đầu tư XDCB
2. Trình bày quy trình quyết toán trong các tổ chức công? Vai trò, chức năng và
thẩm quyền của các cơ quan tài chính, kho bạc trong tổ chức việc quyết toán.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TRONG CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC (TỔ CHỨC CÔNG)
1.1. Khái quát về tổ chức công
1.1.1. Khái niệm:
Tổ chức công là những đơn vị được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
quyết định thành lập nhằm quản lý Nhà nước về một lĩnh vực nào đó hoặc thực hiện một
nhiệm vụ chuyên môn nhất định.
Tổ chức công là tổ chức được nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập hoạt
động vì mục tiêu công, phục vụ lợi ích chung của cộng đồng trên cơ sở các quy định của
pháp luật.
Tổ chức công có một số đặc điểm sau:
- Là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường,
các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hoá cung
ứng cho mọi thành phần trong xã hội. Mà các hoạt động sự gnhiệp này lại do các tổ chức
công được nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp cho thị trường. Nhà nước vai trò là bộ máy
quản lý nhà nước tổ chức, duy trì và tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp
những sản phẩm, dịch vụ cho thị truờng trước hêt nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước
trong việc phân phối lại thu nhập và thực hiện chính sách phúc lợi công cộng. Do đó việc
cung ứng các hàng hoá này cho thị trường chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận như hoạt
động sản xuất kinh doanh.
- Các tổ chức công được thành lập và hoạt động trên cơ sở của pháp luật. Với các
tổ chức công thì đây là các cơ quan thực hiện các công việc trên cơ sở chấp hành các
nhiệm vụ pháp luật, chỉ đạo thực hiện các chủ trương kế hoạch của nhà nước. Đối với các


cơ quan này trực tiếp hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực của nhà nước, chịu sự
lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực đó.
- Nguồn vốn để hoạt động đối với các tổ chức công do nhà nước cấp. Sự tồn tại và
phát triển của Nhà nước đòi hỏi phải có các nguồn tài chính đảm bảo để duy trì sự hoạt
động bình thường của các cơ quan đơn vị trong tổ chức công. Các đơn vị này có nhiệm
vụ phục vụ lợi ích công, không đòi hỏi người đuợc phục vụ trả thù lao. Do đó, NSNN
phải cấp phát kinh phí để duy trì hoạt động của các dơn vị này. Hiện nay, trong hoạt động
quản lý nhà nước, có được phép thu một số khoản thu như phí, lệ phí và các khoản thu
khác nhằm bổ sung nguồn kinh phí nhưng hiện nay chủ yếu vẫn do Nhà nước cấp kinh
phí.
1.1.2. Phân loại tổ chức công
Có nhiều cách phân loại nhưng tựu chung lại có 2 loại cơ bản là:
- Các tổ chức hành chính bao gồm: Các Bộ; cơ quan ngang Bộ; cơ quan thuộc
Chính Phủ; Văn phòng Quốc hội; Văn phòng Chủ tịch nước; Toà án nhân dân các cấp;
Viện Kiểm sát nhân dân các cấp; Văn phòng hội đồng nhân dân, Văn phòng uỷ ban nhân
1
dân, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các tỉnh thành phố trực thuộc TW; Văn
phòng hội đồng nhân dân, Văn phòng uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND các quận huyện, thành phố thị xã thuộc tỉnh thành phố thuộc TW.
- Các tổ chức sự nghiệp bao gồm các đơn vị sự nghiệp có vai trò quan trọng trong
việc cung cấp các dịch vụ công cho xã hội như: giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể thao,
khoa học công nghệ, sự nghiệp kinh tế Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, đơn vị sự
nghiệp được phân loại để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính gồm 3
loại: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên
(gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động); Đơn vị có nguồn thu sự
nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên, phần còn lại được ngân
sách nhà nước cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động) và
Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu, kinh phí hoạt
động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ

kinh phí hoạt động (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ
chi phí hoạt động).
1.1.3. Phân loại tổ chức công theo cấp dự toán:
Các tổ chức công trong cùng một ngành theo một hệ thống dọc được thống nhất tổ
chức thành các đơn vị dự toán các cấp: Đơn vị dự toán cấp I (Là đơn vị nhận trực tiếp
ngân sách năm do cấp chính quyền tương ứng giao và chịu trách nhiệm phân bổ dự toán
ngân sách năm xuống cho đơn vị cấp dưới, quản lý điều hành ngân sách năm của cấp
mình và cấp dưới trực thuộc); Đơn vị dự toán cấp II (Là đơn vị trực thuộc đơn vị dự toán
cấp I, có nhiệm vụ nhận dự toán ngân sách của đơn vị dự toán cấp I và phân bổ dự toán
cho đơn vị dự toán cấp III, có trách nhiệm tổ chức điều hành quản lý kinh phí của cấp
mình và đơn vị dự toán cấp dưới); Đơn vị dự toán cấp III (Là đơn vị dự toán trực tiếp sử
dụng kinh phí từ đơn vị cấp II hoặc đơn vị dự toán cấp I nếu không có cấp II, có trách
nhiệm tổ chức thực hiện quản lý kinh phí của đơn vị mính và đơn vị dự toán cấp dưới);
Đơn vị dự toán cấp dưới của cấp III (Là đơn vị được nhận kinh phí để thực hiện phần
công việc cụ thể, khi chi tiêu phải thực hiện việc quản lý kinh phí theo sự hướng dẫn của
đơn vị dự toán cấp III).
Các tổ chức này hoạt động theo dự toán được cấp có thẩm quyền giao, dựa trên
nguồn kinh phí do NSNN cấp toàn bộ hoặc một phần và các nguồn khác dựa nguyên tắc
không bồi hoàn trực tiếp. Tổ chức công với nhiều loại hình hoạt động đa dạng, phức tạp
và hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận.
Các tổ chức công phải thực hiện việc lập dự toán thu chi hàng quý, hàng năm căn
cứ trên các định mức, chế độ, tiêu chuẩn do Nhà nước quy định và dựa trên quy chế chi
tiêu nội bộ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt (đối với một số khoản chi thường
xuyên).
Trong quá trình hoạt động của mình, các tổ chức công phải tuyệt đối tôn trọng dự
toán năm đã được duyệt. Trong trường hợp cần điều chỉnh dự toán thì phải được cơ quan
có thẩm quyền cho phép nhưng không làm thay đổi tổng mức dự toán do cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Việc đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên theo đúng chế độ định
mức và tiêu chuẩn nhằm mục đích cho các tổ chức công hoạt đông liên tục cũng là một
nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính của tổ chức công.

1.3. Khái quát về quản lý tài chính trong các tổ chức công
1.3.1. Khái niệm
“Quản lý” thường được hiểu đó là quá trình mà chủ thể quản lý sử dụng các công
cụ quản lý và phương pháp quản lý thích hợp nhằm điều khiển đối tượng quản lý hoạt
động và phát triển nhằm đạt đến những mục tiêu đã định. Quản lý được sử dụng khi nói
2
tới các hoạt động và các nhiệm vụ mà nhà quản lý phải thực hiện thường xuyên từ việc
lập kế hoạch đến quá trình thực hiện kế hoạch đồng thời tổ chức kiểm tra. Ngoài ra nó
còn hàm ý cả mục tiêu, kết quả và hiệu năng hoạt động của tổ chức.
Tài chính được thể hiện là sự vận động của các dòng vốn gắn với sự tạo lập và sử
dụng những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội trong đó phản ánh các mối
quan hệ kinh tế phát sinh giữa các chủ thể.
Quản lý tài chính trong các tổ chức công là quá trình áp dụng các công cụ và
phương pháp quản lý nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tài chính trong tổ chức công để
đạt những mục tiêu đã định.
Chủ thể quản lý tài chính trong các tổ chức công ở đây chính là bộ máy quản lý tài
chính cụ thể là những con người có trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến
hoạt động quản lý tài chính. Trách nhiệm quản lý tài chính trong các tổ chức công trước
hết thuộc về trách nhiệm của thủ trưởng và Ban lãnh đạo tổ chức công. Vì quản lý tài
chính là một nội dung quản lý chuyên ngành nên Phòng tài chính kế toán của các tổ chức
công và cá nhân Trưởng Phòng Tài chính kế toán cũng thuộc nhóm chủ thể trực tiếp quản
lý hoạt động tài chính trong các tổ chức công. Bên cạnh đó trưởng các bộ phận Phòng
ban trực thuộc tổ chức công cũng như mỗi cá nhân trong tổ chức cũng có những đóng
góp quan trọng tạo nên việc quản lý có hiệu quả tài chính trong tổ chức mình.
Đối tượng quản lý của Quản lý tài chính trong các tổ chức công đó chính là hoạt
động tài chính của những tổ chức này. Đó là các mối quan hệ kinh tế trong phân phối gắn
liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong mỗi tổ chức công. Cụ thể là
việc quản lý các nguồn tài chính cũng như những khoản chi đầu tư hoặc các khoản chi
thường xuyên của tổ chức công.
Quá trình quản lý tài chính trong các tổ chức công có thể được sử dụng nhiều

phương pháp như: Phương pháp hành chính, phương pháp tổ chức, phương pháp kinh tế
cũng như nhiều công cụ quản lý khác nhau: công cu pháp luật, các dòn bẩy kinh tế, kiểm
tra giám sát Trong đó với quản lý tài chính, công cụ pháp luật được coi là một loại công
cụ quản lý có vai trò quan trọng đặc biệt. Công cụ pháp luật được thể hiện dưới dạng: các
chính sách cơ chế quản lý tài chính, các chế độ quản lý tài chính kế toán, các văn bản
pháp luật quy đinh về các định mức tiêu chuẩn về tài chính
Cho dù sử dụng nhiều phương pháp hay nhiều công cụ quản lý khác nhau nhưng
mục đích hướng đến của quản lý tài chính trong các tổ chức công cũng là tính hiệu quả
trong hoạt động tài chính để nhằm đạt đến những mục tiêu đã định của mỗi tổ chức.
1.3.2. Đặc điểm
Quản lý tài chính trong các tổ chức công là một trong những nội dung quan trọng
của quản lý tài chính công. Do vậy đặc điểm của quản lý tài chính trong tổ chức công vừa
mang những nét cơ bản của quản lý tài chính công đồng thời lại gắn với đặc điểm và
mục đích hoạt động của mỗi tổ chức công. Nhìn chung, quản lý tài chính công có những
đặc điểm liên quan đến chủ thể quản lý tài chính, nguồn lực tài chính và việc sử dụng
nguồn lực tài chính trong tổ chức công
Tổ chức công ở đây là những đơn vị được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành quyết định thành lập nhằm quản lý Nhà nước về một lĩnh vực nào đó hoặc thực hiện
một nhiệm vụ chuyên môn nhất định. Ở đây tổ chức công chủ yếu đề cập đến cơ quan
hành chính nhà nước hoặc đơn vị sự nghiệp Nhà nước. Vậy chủ thể trực tiếp quản lý tài
chính tổ chức công có thể là các cơ quan hành chính hoặc đơn vị sự nghiệp. Cơ quan
hành chính Nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ hành chính công cho xã hội còn
đơn vị sự nghiệp có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và những dịch vụ
nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành trong xã hội. Với các chức năng và
3
nhiệm vụ như vậy nên những hoạt động tổ chức công này hoàn toàn mang tính chất phục
vụ nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và hoạt động của các tổ chức này đặc
biệt là hoạt động tài chính không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Do những điểm riêng nên
hoạt động quản lý tài chính trong tổ chức công được áp dụng theo chế độ quản lý tài
chính đặc thù.

Nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động của tổ chức công được lấy từ nhiều
nguồn khác nhau với những hình thức và phương pháp khác nhau. Tuy nhiên nguồn lực
tài chính chủ yếu phục vụ cho hoạt động và duy trì sự tồn tại của bộ máy tổ chức là từ
Ngân sách Nhà nước. Việc tạo lập và sử dụng nguồn lực tài chính trong các tổ chức công
căn cứ trên chế độ quy định pháp lý có liên quan hiện hành.
Việc sử dụng nguồn lực tài chính trong các tổ chức công gắn liền với việc thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ được Nhà nước giao cho mỗi tổ chức công. Nên việc
đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính bên cạnh việc đánh giá về mặt kinh tế còn
xem xét đánh giá về mặt xã hội và việc đạt được những mục tiêu đã định trong sự phát
triển xã hội.
1.3.3. Phạm vi quản lý tài chính của tổ chức công
a. Nguồn lực tài chính trong tổ chức công
Các nguồn lực tài chính trong tổ chức công chủ yếu bao gồm 3 nguồn: Nguồn thu
từ ngân sách nhà nước, nguồn tự thu của tổ chức công và nguồn khác theo quy định.
Nguồn thu Từ Ngân sách trong mỗi tổ chức công là nguồn kinh phí được cấp từ
ngân sách (Ngân sách Trung ương hoặc Ngân sách địa phương) cho tổ chức công nhằm
đảm bảo cho tổ chức đó hoạt động để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được cơ quan
quản lý cấp trên giao. Các khoản thu do Ngân sách nhà nước cấp hàng năm được sử dụng
toàn bộ để đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên và chi không thường xuyên của đơn
vị. Các khoản thu từ ngân sách dựa trên cơ sở biên chế, kể cả biên chế dự bị (nếu có) và
định mức phân bổ NSNN hàng năm tính trên biên chế và các khoản chi hoạt động nghiệp
vụ đặc thù theo chế độ quy định
Nguồn thu từ ngân sách của các tổ chức công còn có các khoản kinh phí từ ngân
sách cấp cho việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; chương trình đào tạo
bồi dưỡng cán bộ, viên chức; các chương trình mục tiếu quốc gia; các nhiệm vụ do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng; các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền
giao; chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định; cho việc đầu tư
xây dựng cơ bản; việc mua sắm tài sản, các trang thiết bị; việc sửa chữa lớn các tải sản cố
định phục vụ cho hoạt động sự nghiệp và những khoản vốn đối ứng thực hiện dự án có
nguồn vốn nước ngoài được cấp có thẩm quyền giao.

Nguồn tự thu của tổ chức công: là những khoản thu phí, lệ phí thuộc ngân sách Nhà
nước, những khoản thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ được để lại
đơn vị.
Trong các khoản tự thu trên của đơn vị, khoản thu từ phí và lệ phí chiếm tỷ lệ lớn.
Khoản thu phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ
công cộng thuần tuý theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tổ chức, cá
nhân phải trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó.
Khoản thu lệ phí là khoản thu gắn liền với việc cung cấp trực tiếp các dịch vụ
hành chính pháp lý của Nhà nước cho các thể nhân, pháp nhân nhằm phục vụ cho
công việc quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.
Hệ thống phí hiện hành ở Việt Nam được phân loại theo tính chất công việc
gắn với lĩnh vực, nhóm ngành có những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật tương tự nhau
4
để tránh trùng lặp và gắn với trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác quản lý
và kiểm soát đối với từng loại phí.
Theo lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, phí gồm nhiều loại khác nhau. Phí
phát sinh từ các lĩnh vực hoạt động kinh tế như phí bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, phí
thẩm định đầu tư, phí thẩm định kinh doanh thương mại có điều kiện…Phí phát sinh
từ các lĩnh vực hoạt động văn xã gồm phí tham quan, phí thẩm định văn hoá phẩm,
học phí, viện phí…Phí phát sinh từ các lĩnh vực khác như án phí, phí dịch vụ pháp
lý…
Theo cấp quản lý thuộc bộ máy nhà nước, phí thuộc NSNN bao gồm phí trung
ương và phí địa phương. Phí trung ương quản lý loại phí thuộc nguồn thu của Ngân
sách trung ương và do các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu. Phí địa
phương quản lý là loại phí thuộc nguồn thu của ngân sách địa phương và do các cơ
quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu.
Hệ thống lệ phí hiện hành ở nước ta được phân loại theo nhóm các công việc
quản lý nhà nước để thuận tiện cho các quản lý và kiểm soát đối với từng loại lệ phí;
mỗi nhóm lại được chia thành các loại khác nhau.
Theo tính chất của các dịch vụ thu lệ phí, lệ phí gồm nhiều loại khác nhau. Lệ

phí quản lý nhà nước liên quan đền quyền và nghĩa vụ của công dân như lệ phí quốc
tịch, lệ phí hộ khẩu, lệ phí cấp hộ chiếu…Lệ phí quản lý nhà nước liên quan đến
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản như lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính….Lệ phí
quản lý nhà nước liên quan đến sản xuất, kinh doanh như lệ phí cấp phép hành
nghề….lệ phí quản lý nhà nước đặc biệt về chủ quyền quốc gia như lệ phí bay qua
vùng trời, lệ phí hoa hồng chữ ký…Lệ phí quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác
như lệ phí công chứng, lệ phí cấp văn bằng…
Theo cấp quản lý thuộc bộ máy nhà nước, lệ phí bao gồm lệ phí trung ương và
lệ phí địa phương. Lệ phí trung ương quản quản lý là loại phí lệ thuộc nguồn thu của
ngân sách trung ương và do các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu. Lệ phí
điạ phương quản lý là loại lệ phí thuộc nguồn thu của ngân sách địa phương và do
các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu.
Ngoài ra, nguồn tự thu của tổ chức công còn có tiền thu từ những hoạt động sản
xuất hoặc cung cấp dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và chức năng của mỗi tổ
chức. Những mức thu từ những hoạt động này do thủ trưởng mỗi tổ chức được quyền
quyết định dựa trên những quy định pháp luật có liên quan và nguyên tắc đảm bảo bù đắp
chi phí.
Nguồn thu khác của tổ chức công theo quy định của pháp luật: là những khoản
thu từ các dự án viện trợ, quà biếu tặng và những khoản thu khác theo quy định của pháp
luật.
Quản lý quá trình thu tại đơn vị cần phải đáp ứng yêu cầu tập trung đầy đủ kịp thời
các nguồn lực tài chính của tổ chức công để đáp ứng kịp thòi nhu cầu hoạt động trong
đơn vị. Điều này đòi hỏi tổ chức công phải xây dựng được các khoản thu hợp lý đúng đắn
theo quy định của các cơ quan chức năng, việc xây dựng kế hoạch thu của mỗi tổ chức
cần phải theo sát với tình hình thực tế của đơn vị, quy trình thu phải hợp lý và khoa học,
tổ chức bộ máy thu hợp lý gọn nhẹ và hiệu quả. Tổ chức công cần phải tiến hành kiểm tra
thường xuyên và có định kỳ đảm bảo quá trình thu đúng, thu đủ.
b. Các khoản chi trong tổ chức công
Trong tổ chức công các khoản chi được chia thành hai loại: Các khoản chi hoạt
động thường xuyên và Các khoản chi hoạt động không thường xuyên.

Các khoản chi thường xuyên:
5
Các khoản chi hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có
thẩm quyền giao, gồm: các khoản chi cho con người như: tiền lương, tiền công, các
khoản phụ cấp lương, các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công
đoàn theo quy định hiện hành; các khoản chi hành chính: vật tư văn phòng, dịch vụ công
công ); các khoản chi hoạt động nghiệp vụ (khoản chi đặc thù của đơn vị hay còn gọi là
chi đặc thù của từng đơn vị) như chi thuốc, máu, dịch truyền của ngành Y tế, chi biên
soạn giáo trình tài liệu học tập của ngành Giáo dục – Đào tạo, chi cho vận động viên,
huấn luyện viên của ngành Thể dục thể thao ; các khoản chi mua sắm tài sản, công cụ
thiết bị văn phòng, duy tu, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định, cơ sở vật chất và các
khoản chi khác theo chế độ quy định.
Các khoản chi hoạt động thường xuyên phục vụ cho công tác thu phí, lệ phí và hoạt
động cung cấp dịch vụ của tổ chức công bao gồm: các khoản tiền lương, tiền công, các
khoản phụ cấp lương, các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công
đoàn theo quy định hiện hành cho số lao động trực tiếp phục vụ hoạt động thu phí, lệ phí
và hoạt động cung cấp dịch vụ; các khoản chi nộp thuế, tính khấu hao TSCĐ (nếu có),
các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định và các
khoản chi khác theo chế độ quy định phục vụ cho các hoạt động này tại tổ chức công.
Đặc điểm của chi thường xuyên:
Thứ nhất, đại bộ phận các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định khá rõ
nét. Tính ổn định của chi thường xuyên còn bắt nguồn từ tính ổn định trong từng
hoạt động cụ thể mà mỗi bộ phận cụ thể của cơ quan đơn vị phải thực hiện.
Thứ hai, xét theo cơ cấu chi ở từng niên độ và mục đích sử dụng cuối cùng của
vốn cấp phát thì đại bộ phận các khoản chi thường xuyên của cơ quan đơn vị có hiệu
lực tác động trong khoảng thời gian ngắn và mang tính chất tiêu dùng.
Khi nghiên cứu cơ cấu các khỏan chi của cơ quan đơn vị theo mục đích sử dụng
cuối cùng của vốn cấp phát, người ta thường phân loại các khoản chi thành hai
nhóm: Chi tích lũy và chi tiêu dùng. Theo tiêu thức này thì đại bộ phận các khoản chi
thường xuyên được xếp vào chi tiêu dùng, ở trong từng niên độ ngân sách đó các

khoản chi thường xuyên chủ yếu nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành
chính Nhà nước; về quốc phòng, an ninh; về các hoạt động sự nghiệp; các hoạt động
xã hội khác do Nhà nước tổ chức.
Thứ ba, phạm vi, mức độ chi thường xuyên của cơ quan đơn vị gắn chặt với cơ
cấu tổ chức của bộ máy Nhà nước và sự lựa chọn của Nhà nước trong việc cung ứng
các hàng hóa công cộng. Với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, nên
tất yếu quá trình phân phối và sử dụng vốn NSNN luôn phải hướng vào việc đảm bảo
sự hoạt động bình thường của bộ máy Nhà nước đó. Nếu một khi bộ máy quản lý
Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả thì số chi thường xuyên cho nó được giảm
bớt và ngược lại. Hoặc quyết định của Nhà nước trong việc lựa chọn phạm vi và mức
độ cung ứng các hàng hóa công cộng cũng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến phạm vi và
mức độ chi thường xuyên của NSNN.
Các khoản chi không thường xuyên: gồm những khoản chi để thực hiện các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ, các khoản chi thực hiện chương trình đào tạo bồi
dưỡng cán bộ viên chức, các khoản chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, các
khoản chi thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng theo giá hoặc khung giá do Nhà
nước quy định, chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo quy
định, chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao, chi thực hiện
tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có), chi đầu tư phát triển bao
gồm: chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định
6
thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chi thực hiện các dự án từ nguồn
vốn viện trợ nước ngoài, chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết và các khoản chi khác
theo quy định (nếu có).
Các tổ chức công phải đảm bảo yêu cầu cung cấp đầy đủ các khoản chi đáp ứng
nhu cầu thưc hiện các chức năng và nhiệm vụ trong hoạt động của tổ chức, quản lý có
hiệu quả các khoản chi thường xuyên và không thường xuyên trong các tổ chức.
Các tổ chức công cần thiết xây dựng một chính sách chi hợp lý và hiệu quả, tổ
chức công phải xác định tính ưu tiên với mỗi khoản chi trong mỗi điều kiện hoàn cảnh cụ
thể, xây dựng quy trình cấp phát, kiểm soát và thành toán các khoản chi một cách chặt

chẽ khoa học, thực hiện việc kiểm tra quá trình chi và các khoản chi đảm bảo tính tiết
kiệm và hiệu quả.
1.3.4. Tổ chức bộ máy quản lý tài chính trong tổ chức công
Việc quản lý tài chính trong các tổ chức công trước hết phải phù hợp với những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể tại mỗi tổ chức. Nhưng dù tổ chức đó thuộc loại hình nào thì
việc quản lý tài chính cũng phải tuân thủ theo một số nguyên tắc quản lý tài chính như
sau:
- Đảm bảo các khoản chi thường xuyên của tổ chức phải tuân theo chế độ, định mức
tiêu chuẩn của Nhà nước quy định hoặc theo chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu nội bộ
đã được duyệt để tổ chức đó hoạt động liên tục và hiệu quả.
- Trách nhiệm quản lý tài chính của các tổ chức công thuộc về tổ chức công mà người
đứng đầu chịu trách nhiệm ở đây chính là người lãnh đạo tổ chức.
- Trong quá trình quản lý tài chính tại các tổ chức công cần phải tôn trọng dự toán
năm được duyệt. Trong trường hợp cần điều chỉnh dự toán cần được cơ quan có thẩm
quyền cho phép điều chỉnh để đảm bảo cho tổ chức hoàn thành tốt những chức năng và
nhiệm vụ của mình.
Tổ chức bộ máy trực tiếp quản lý tài chính trong các tổ chức công bao gồm: Lãnh
đạo tổ chức công, Trưởng Phòng tài chính kế toán, Phòng tài chính kế toán, Trưởng các
phòng bộ phận trong tổ chức.

Ban lãnh đạo tổ chức công là những cá nhân phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước
cơ quan quản lý cấp trên và trước pháp luật về các quyết định của mình trong quá trình
quản lý tài chính của tổ chức. Trong đó người thủ trưởng đơn vị là người chủ tài khoản,
người trực tiếp đưa ra các quyết định quản lý việc huy động và sử dụng nguồn lực tài
chính trong đơn vị.
Thủ trưởng đơn vị tổ chức thực hiện công tác hạch toán kế toán, thống kê, quản lý
tài sản theo đúng quy định của pháp luật, phản ảnh đầy đủ, kịp thời toàn bộ các khoản thu,
chi của đơn vị trong sổ sách kế toán và thực hiện các quy định về chế độ thông tin, báo cáo
hoạt động sự nghiệp của đơn vị theo quy định hiện hành. Đồng thời thủ trưởng đơn vị
cũng là người thường xuyên phải kiểm tra giám sát công tác tài chính kế toán, quản lý tài

7
Ban lãnh đạo
Thủ trưởng đơn vị
Trưởng phòng tài chính kế toán
Phòng tài chính
kế toán
Các phòng, bộ
phận thuộc tổ chức
Các phòng, bộ
phận thuộc tổ chức
sản trong đơn vị nhằm chống thất thu, lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực
tài chính trong đơn vị.
Trưởng Phòng Tài chính kế toán là cá nhân phải chịu trách nhiệm trước lãnh đạo
và cơ quan tài chính, cơ quan quản lý cấp trên về toàn bộ hoạt động tài chính kế toán của
tổ chức. Trưởng Phòng phải trực tiếp bố trí nhân lực điều hành công tác của phòng Tài
chính kế toán, tổ chức điều hành bộ máy kế toán đảm bảo thực hiện đúng cơ chế tự chủ
tài chính, Quản lý các khoản thu cũng như xây dựng các định mức chi và quản lý các
khoản chi phát sinh trong tổ chức, thực hiện công tác kế toán và xây dựng báo cáo kế
toán theo quy định của pháp luật, thực hiện việc phân tích giám sát các hoạt động tài
chính của tổ chức. Bên cạnh đó ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng tư vấn tham mưu
cho lãnh đạo về hoạt động tài chính, đề xuất các phương án sử dụng tiết kiệm hiệu quả
các khoản chi và tăng các khoản thu của tổ chức.
Phòng tài chính kế toán dưới sự chỉ đạo trực tiếp của trưởng phòng chịu trách
nhiệm thực hiện công tác kế toán từ việc lưu trữ chứng từ kế toán đến việc hạch toán vào
sổ kế toán và xây dựng các báo cáo kế tóan, thực hiện việc lập dự toán các khoản thu chi,
quản lý việc thực hiện các khoản thu chi tài chính cũng như toàn bộ vật tư tài sản trong tổ
chức.
Bên cạnh đó trưởng các phòng hay bộ phận trực thuộc tổ chức cũng cần thiết phải
phối hợp với phòng tài chính kế toán có trách nhiệm thực hiện đúng các quy định pháp
luật, các quy chế nội bộ có liên quan đến các khoản thu hay những khoản chi tài chính

hay việc quản lý và sử dụng vật tư và tài sản của tổ chức.
1.4. Nội dung quản lý tài chính trong tổ chức công
Quản lý tài chính trong các tổ chức công được tiến hành bắt đầu từ việc quản lý
việc lập dự toán thu chi tài chính sau đó là quản lý việc chấp hành dự toán cuối cùng là
việc quyết toán thu chi tài chính.
1.4.1. Lập dự toán thu chi tài chính
Lập dự toán thu chi tài chính trong mỗi tổ chức công là khâu mở đồng quan trọng
mang ý nghĩa quyết định đến toán bộ quá trình quản lý tài chính trong tổ chức. Bởi nó là
cơ sở thực hiện và dẫn dắt toàn bộ quá trình thực hiện quản lý tài chính sau này của đơn
vị.
Hàng năm, căn cứ vào các văn bản hướng dẫn lập dự toán của Bộ tài chính và
hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên; căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được cấp có
thẩm quyền giao; căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ của năm trước và dự kiến cho
năm kế hoạch; căn cứ vào các định mức, chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của nhà nước
quy định tổ chức công lập dự toán thu và dự toán chi tài chính theo đúng chế độ quy
định.
Dự toán thu của tổ chức công cần phải sát với hoạt động thực tế để đảm bảo khai
thác có hiệu quả các khoản thu và nuôi dưỡng được nguồn thu. Dự toán thu cụ thể từng
nguồn thu, từng khoản thu: nguồn từ ngân sách cấp, nguồn do tổ chức công tự thu và
những nguồn khác. Qua đó có thể phân tích được tính ưu nhược điểm của từng khoản
thu, nguồn thu và là căn cứ cho việc xây dựng dự toán chi.
Dự toán chi gồm có dự toán chi cho hoạt động thường xuyên và chi cho hoạt động
không thường xuyên của tổ chức. Việc xây dựng dự toán chi đặc biệt là những khoản chi
thường xuyên phải tuân thủ theo đúng chính sách chế độ định mức đã quy định, các
khoản chi phải gắn với hoạt động của đơn vị và đòi hỏi tính chính xác và hiệu quả sử
dụng.
Hiện nay việc xây dựng dự toán ngân sách theo kết quả đầu ra đang là yêu cầu đặt
ra với các tổ chức công. Bởi với phương thức này khi xây dựng dự toán tổ chức sẽ phải
8
xác định cụ thể những mục tiêu và những cam kết rõ ràng về yêu cầu số lượng, chất

lượng của hàng hoá dịch vụ công cung cấp cho xã hội tương ứng với số kinh phí mà ngân
sách cấp cho đơn vị. Khác với phương thức quản lý ngân sách truyền thống chủ yếu dựa
trên cơ chế kiểm soát chi phí đầu vào, phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra
chủ yếu tập trung vào hiệu quả của các khoản chi và kết quả của quá trình hoạt động sau
các khoản chi lấy kết quả đầu ra là đối tượng và mục tiêu chính để xây dựng dự toán thu
chi tài chính cho mỗi tổ chức.
1.4.2. Chấp hành dự toán thu chi tài chính
Trong quá trình thực hiện dự toán, tổ chức công tuyệt đối chấp hành dự toán thu
chi tài chính hành năm đã được duyệt theo chế độ chính sách của Nhà nước và toàn bộ
các khoản thu chi trên thực tế phải được căn cứ trên các văn bản quy định pháp luật có
liên quan và dựa trên cơ sở cân đối giữa thu và chi.
Đối với kinh phí ngân sách đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của tổ chức sẽ
được cấp qua kho bạc Nhà nước trên cơ sở dự toán đã được phê duyệt. Tổ chức thực hiện
ghi sổ kế toán và hạch toán quyết toán theo các mục cho của mục lục ngân sách Nhà
nước tương ứng với từng nội dung chi. Còn đối với các khoản kinh phí khác như: kinh
phí cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, thực hiện tinh giản biên chế,
thực hiện những nhiệm vụ đột xuất hoặc vốn đầu tư mua sắm trang thiết bị được quản
lý và cấp phát theo dự toán đã được phê duyệt và cũng được ghi vào các mục chi trong
Mục lục ngân sách theo quy định. Với nguồn thu khác tổ chức công chủ động tổ chức thu
và đảm bảo cân đối và phần chênh lệch thu chi được sử dụng căn cứ trên văn bản pháp
luật có liên quan và những đặc thù hoạt động của tổ chức.
Quá trình thực hiện dự toán khi có phát sinh những yếu tố làm thay đổi những
mức kính phí được tăng hoặc giảm cần thiết phải điều chỉnh các nội dung, nhóm mục
trong dự toán thu chi được cấp có thẩm quyền giao cho phù hợp với điều kiện thực tế, tổ
chức cần có văn bản để nghị bổ sung điều chỉnh dự toán kinh phí, giải trình chi tiết các
yếu tố làm tăng hoặc giảm dự toán kinh phí gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Cơ
quan quản lý cấp trên trực tiếp (trường hợp không phải là đơn vị dự toán cấp 1) xem xét
tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp 1, cơ quan ở
TW và địa phương (đơn vị dự toán cấp 1) xem xét dự toán cho các đơn vị trực thuộc tổng
hợp và lập dự toán chi NSNN thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan Tài chính cùng cấp có

thẩm quyền quyết định. Sau đó tổ chức phải gửi báo cáo đến kho bạc Nhà nước nơi tổ
chức mở tài khoản giao dịch để theo dõi quản lý và việc điều chỉnh dự toán phải được
thực hiện đầy đủ các bước theo quy định của pháp luật.
Nếu có những biến động khách quan làm thay đổi dự toán (có thể tăng hoặc giảm
dự toán), tổ chức công sẽ được ngân sách nhà nước bổ sung hoặc giảm theo đúng thủ tục
quy định của Luật Ngân sách Nhà nước đảm bảo cho tổ chức hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Tổ chức công phải mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để thực hiện chi qua kho
bạc nhà nước đối với các khoản kinh phí thuộc ngân sách Nhà nước và được mở tài
khoản tại ngân hàng hoặc tại kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu thi của các
hoạt động khác của đơn vị như hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ.
Kết thúc năm ngân sách, kinh phí do ngân sách chi hoạt động thường xuyên và các
khoản thu sự nghiệp chưa sử dụng hết, đơn vị được chuyển sang năm sau để tiếp tục sử
dụng. Còn đối với kinh phí chi cho hoạt động không thường xuyên, khi điều chỉnh các
nhóm mục chi, nhiệm vụ chi, kinh phí cuối năm chưa sử dụng hoặc chưa sử dụng hết,
thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn hiện
hành.
9
1.4.3. Quyết toán thu chi tài chính
Đây là khâu cuối cùng trong quy trình quản lý tài chính của tổ chức công. Cuối
quý, cuối năm tổ chức công phải tiến hành lập báo cáo kế toán, báo cáo quyết toán thu
chi tài chính về tình hình sử dụng nguồn tài chính để gửi đến các cơ quan chức năng theo
quy định. Báo cáo quyết toán ngân sách của tổ chức phản ánh tổng hợp tính hình tài sản,
thu chi và kết quả sử dụng nguồn lực tài chính tại tổ chức nhằm cung cấp thông tin tài
chính của đơn vị giúp cho việc đánh giá tình hình và thực trạng của đơn vị.
1.5. Cơ chế quản lý tài chính đối với tổ chức công
1.5.1. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý
hành chính đối với cơ quan hành chính
Việc thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí
quản lý hành chính nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho các cơ quan chủ động hơn trong việc

sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính một cách hợp lý nhất để hoàn thành các
chức năng và nhiệm vụ được giao. Quyền tự chủ gắn với trách nhiệm của người lãnh đạo
cũng như toàn bộ các cán bộ công chức trong cơ quan, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức bộ
máy lao động hiệu quả và sử dụng kinh phí quản lý hành chính hợp lý.
Về biên chế, cơ quan hành chính được thực hiện chế độ tự chủ được quyền chủ
động trong việc sử dụng biên chế như: được quyết định việc sắp xếo, phân công, điều
động cán bộ công chức theo vị trí công việc đảm bảo hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan, được quyền tiếp nhận số lao động trong biên chế bằng hoặc thấp hơn chỉ tiêu biên
chế được cấp có thẩm quyền giao. Trong trường hợp cơ quan có số biên chế thực tế thấp
hơn chỉ tiêu biên chế được giao vẫn được cơ quan có thẩm quyền giao kinh phí quản lý
hành chính theo chỉ tiêu biên chế được giao.
Việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính được
thực hiện với nguồn kinh phí từ NSNN cấp, các khoản phí, lệ phí được để lại theo chế độ
quy định và các khoản thu hợp pháp khác theo quy định pháp luật.
Hàng năm nguồn kinh phí từ NSNN cấp cho cơ quan hành chính được xác định
trên cơ sở chỉ tiêu biên chế được cấp có thẩm quyền giao, định mức phân bổ dự toán chi
ngân sách tính trên biên chế, các khoản chi hoạt đọng nghiệp vụ đặc thù theo chế độ quy
định và tình hình thực hiện dự toán năm trước. Với các cơ quan TW, các Bộ thì định mức
phân bổ dự toán chi NSNN do Thủ tướng Chính phủ quyết định, còn đối với các cơ quan
thuộc các Bộ, các Cơ quan TW do Bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan TW quy định trên
cơ sở cụ thể hoá định thức phân bổ dự toán chi Ngân sách do Thủ tướng Chính phủ quyết
định.
Với các khoản thu từ phí, lệ phí được để lại và các khoản thu khác: việc xác định
mức phí, lệ phí được trích lại đảm bảo hoạt động phục vụ căn cứ vào các văn bản do cơ
quan có thẩm quyền quy định (trừ số phí, lệ phí được để lại mua sắm TSCĐ và các quy
định khác nếu có); các khoản thu khác được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Các khoản chi kinh phí được giao thực hiện chế độ tự chủ trong cơ quan hành
chính gồm: những khoản chi thanh toán cho cá nhân (tiền lương, tiền công, phụ cấp
lương, các khoản đóng góp theo lương, tiền thưởng, phúc lợi ); Chi thanh toán dịch vụ
công cộng, chi phí thuê mướn, chi vật tư văn phòng, thông tin tuyên truyền liên lạc; Chi

hội nghị, công tác phí trong nước, chi đoàn đi công tác và đón các đoàn; Các khoản chi
nghiệp vụ chuyên môn; Các khoản chi đặc thù của ngành, chi mua sắm trang phục; Chi
mua sắm tài sản, trang thiết bị, phương tiện, vật tư, sửa chữa thường xuyên TSCĐ (ngoại
trừ nguồn kinh phí mua sắm và sửa chữa lớn TSCĐ); các khoản chi có tính chất thường
xuyên khác và những khoản chi phục vụ cho công tác thu phí và lệ phí theo quy định.
10
Ngoài kinh phí quản lý hành chính được giao để thực hiện chế độ tự chủ trên,
hàng năm cơ quan hành chính còn được NSNN bố trí kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ
nhưng không thực hiện chế độ tự chủ như: Chi mua sắm sửa chữa lớn TSCĐ; Chi đóng
niên liễm, vốn đối ứng các dự án theo hiệp định với các tổ chức quốc tế; Chi thực hiện
các nhiệm vụ có tính chất đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; Kinh phí thực hiện các
chương trình mục tiêu quốc gia; Kinh phí thực hiện tinh giản biên chế (nếu có); Kinh phí
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước; Kinh phí nghiên cứu khoa học; Kinh phí
đầu tư xây dựng cơ bản theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Kinh phí thực
hiện các nhiệm vụ không thường xuyên khác.
Trong quá trình quản lý tài chính bắt đầu từ khâu lập dự toán, căn cứ vào văn bản
hướng dẫn lập dự toán của Bộ tài chính, cơ quan quản lý cấp trên và tình hình thực hiện
nhiệm vụ năm trước và năm kế hoạch, cơ quan hành chính thực hiện chế độ tự chủ phải
lập dự toán trong đó phân ra chi ngân sách quản lý hành chính đề nghị giao thực hiện chế
độ tự chủ và dự toán chi ngân sách giao không thực hiện chế độ tự chủ dự toán. Đồng
thời phải thuyết minh chi tiết theo từng nội dung công việc gửi cơ quan chủ quản cấp (cơ
quan chủ quản tổng hợp gửi sang cơ quan tài chính đồng cấp) trên hoặc cơ quan tài chính
cùng cấp.
Căn cứ dự toán chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao, cơ quan chủ quản cấp
trên (đơn vị dự toán cấp I) phân bổ và giao dự toán chi ngân sách nhà nước cho các cơ
quan thực hiện chế độ tự chủ chi tiết theo hai phần: Phần dự toán chi ngân sách nhà nước
giao thực hiện chế độ tự chủ và phần dự toán chi ngân sách nhà nước giao không thực
hiện chế độ tự chủ. Đối với cơ quan không có đơn vị dự toán trực thuộc, căn cứ vào dự
toán chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ phân
bổ dự toán được giao theo hai phần: Phần dự toán chi ngân sách nhà nước giao thực hiện

chế độ tự chủ và phần dự toán chi ngân sách nhà nước giao không thực hiện chế độ tự
chủ, gửi cơ quan tài chính cùng cấp để thẩm tra theo quy định. Dự toán chi ngân sách nhà
nước để thực hiện chế độ tự chủ được giao và phân bổ vào một nhóm mục chi của mục
lục ngân sách nhà nước - nhóm mục các khoản chi khác. Dự toán chi ngân sách giao
không thực hiện chế độ tự chủ được giao và phân bổ vào 4 nhóm mục chi theo quy định
hiện hành.
Khi rút dự toán từ Kho bạc nhà nước, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ phải ghi rõ
nội dung chi thuộc nguồn kinh phí được giao thực hiện chế độ tự chủ.
Khi kết thúc năm ngân sách, sau khi đã hoàn thành các nhiệm vụ, công việc được
giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực tế thấp hơn dự toán kinh phí quản lý
hành chính được giao thực hiện chế độ tự chỉ thì phần chênh lệch này được xác định là
kinh phí quản lý hành chính tiết kệm được. Tuy nhiên với khoản kinh phí đã được giao
nhưng chưa hoàn thành công việc trong năm phỉa chuyên sang năm sau để hoàn thành
công việc đó không được xác định là kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được.
Với khoản kinh phí hành chính được tiết kiệm sử dụng để bổ sung thu nhập cho
cán bộ, công chức theo hệ số tăng thêm quỹ tiền lương nhưng tố đa không quá 1,0 lần so
vớ mức tiền lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy định; Chi khen thưởng và phúc lợi;
Trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công chức; Thủ trưởng cơ quan
thực hiện chế độ tự chủ quyết định phương án sử dụng kinh phí tiết kiệm nêu trên sau khi
thống nhất ý kiến bằng văn bản với tổ chức Công đoàn cơ quan.
1.5.2. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
Việc áp dụng cơ chế quản lý tài chính theo hướng giao quyền tự chủ tự chịu trách
nhiệm cho đơn vị sự nghiệp với mục đích tạo quyền chủ động, tự quyết, tự chịu trách
nhiệm cho đơn vị sự nghiệp đặc biệt thủ trưởng đơn vị; thúc đẩy phát triển hoạt động sự
11
nghiệp theo hướng đa dạng hoá các loại hình đồng thời sắp xếp bộ máy tổ chức lao động
hợp lý hơn và tăng thêm thu nhập, phúc lợi và khen thưởng cho người lao động.
Nguồn tài chính trong đơn vị sự nghiệp gồm: Nguồn kinh phí NSNN cấp (kinh phí
thực hiện các chức năng nhiệm vụ, kinh phí thực hiện những nhiệm vụ khoa học và
chương trình mục tiêu quốc gia, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, vốn đối ứng ), Nguồn thu

sự nghiệp (phần được để lại từ số thu phí, lệ phí thuộc NSNN theo quy định, thu từ hoạt
động dịch vụ phải nộp thuế được mở tài khoản tại ngân hàng, thu từ hoạt động sự nghiệp
khác nếu có, Lãi được chia từ những hoạt động liên doanh, liên kết, lãi từ tiền gửi ngân
hàng); Nguồn vốn viện trợ, quà biếu tặng theo quy định của pháp luật; Nguồn khác
(nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của các bộ, viên chức trong đơn
vị, nguồn vốn liên doanh liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định).
Trong quá trình thực hiện các khoản thu, đơn vị sự nghiệp phải thực hiện thu
đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định. Trường hợp nhà nước có thẩm quyền quy định khung mức thu, đơn vị căn cứ nhu
cầu chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội để quyết định mức thu cụ
thể cho phù hợp với từng loại hoạt động, từng đối tượng, nhưng không được vượt quá
khung mức thu do cơ quan có thẩm quyền quy định. Đơn vị thực hiện chế độ miễn, giảm
cho các đối tượng chính sách - xã hội theo quy định của nhà nước. Với các sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ được cơ quan nhà nước đặt hàng thì mức thu theo đơn giá do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quy định; trường hợp sản phẩm chưa được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định giá, thì mức thu được xác định trên cơ sở dự toán chi phí được cơ
quan tài chính cùng cấp thẩm định chấp thuận. Đối với những hoạt động dịch vụ theo hợp
đồng với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên doanh, liên kết,
đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm đủ bù
đắp chi phí và có tích luỹ.
Các nội dung chi trong đơn vị sự nghiệp chia thành 2 loại: Chi thường xuyên và
Chi không thường xuyên. Chi thường xuyên gồm: Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm
vụ được cấp có thẩm quyền giao; Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu
phí, lệ phí; Chi cho các hoạt động dịch vụ (kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với ngân sách
nhà nước, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi tiền vay theo
quy định của pháp luật). Chi không thường xuyên gồm: Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ; Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức; Chi
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia; Chi thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước đặt
hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá do nhà nước

quy định; Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo quy định;
Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; Chi thực hiện tinh
giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có); Chi đầu tư xây dựng cơ bản,
mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định thực hiện các dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt; Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài; Chi
cho các hoạt động liên doanh, liên kết; Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
Với các khoản chi thường xuyên Thủ trưởng đơn vị được quyết định một số mức
chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định. Căn cứ tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định
phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc và được quyết định đầu
tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của pháp luật.
Việc quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp bắt đầu từ việc lập dự toán ngân sách
tài chính cho đơn vị. Việc lập ngân sách đối với đơn vị sự nghiệp được chia thành 2 loại:
12
Lập dự toán năm đầu thời kỳ ổn định phân loại đơn vị sự nghiệp và Lập dự toán 2 năm
tiếp theo trong thời kỳ ổn định phân loại đơn vị sự nghiệp. Dự toán kinh phí hoạt động
của đơn vị sự nghiệp hoàn thành sẽ được gửi đến cơ quan quản lý cấp trên theo quy định
hiện hành.
Lập dự toán năm đầu thời kỳ ổn định phân loại đơn vị sự nghiệp: Căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, nhiệm vụ của năm kế hoạch, chế độ chi
tiêu tài chính hiện hành; căn cứ kết quả hoạt động sự nghiệp, tình hình thu, chi tài chính
của năm trước liền kề; đơn vị lập dự toán thu, chi năm kế hoạch; xác định phân loại đơn
vị sự nghiệp; số kinh phí đề nghị ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên
(đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp do
ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động); lập dự toán kinh phí chi không
thường xuyên theo quy định hiện hành.
Lập dự toán 2 năm tiếp theo trong thời kỳ ổn định phân loại đơn vị sự nghiệp:
Căn cứ mức kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao của năm trước liền kề và nhiệm vụ
tăng hoặc giảm của năm kế hoạch, đơn vị lập dự toán thu, chi hoạt động thường xuyên

của năm kế hoạch. Đối với kinh phí hoạt động không thường xuyên, đơn vị lập dự toán
theo quy định hiện hành.
Sau đó, Bộ chủ quản (đối với đơn vị sự nghiệp trực thuộc Trung ương); cơ quan
chủ quản địa phương (đối với đơn vị sự nghiệp trực thuộc địa phương) quyết định giao
dự toán thu, chi ngân sách năm đầu thời kỳ ổn định phân loại cho đơn vị sự nghiệp, trong
phạm vi dự toán thu, chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao, sau khi có ý kiến thống
nhất bằng văn bản của cơ quan tài chính cùng cấp.
Hàng năm, trong thời kỳ ổn định phân loại đơn vị sự nghiệp, cơ quan chủ quản
quyết định giao dự toán thu, chi ngân sách cho đơn vị sự nghiệp, trong đó kinh phí bảo
đảm hoạt động thường xuyên theo mức năm trước liền kề và kinh phí được tăng thêm
(bao gồm cả kinh phí thực hiện nhiệm vụ tăng thêm) hoặc giảm theo quy định của cấp có
thẩm quyền (đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động và đơn vị
sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động) trong phạm vi dự
toán thu, chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao, sau khi có ý kiến thống nhất bằng
văn bản của cơ quan tài chính cùng cấp.
Trong quá trình thực hiện dự toán thu, chi: Đối với kinh phí chi hoạt động thường
xuyên: trong quá trình thực hiện, đơn vị được điều chỉnh các nội dung chi, các nhóm mục
chi trong dự toán chi được cấp có thẩm quyền giao cho phù hợp với tình hình thực tế của
đơn vị, đồng thời gửi cơ quan quản lý cấp trên và Kho bạc Nhà nước nơi đơn vị mở tài
khoản để theo dõi, quản lý, thanh toán và quyết toán. Kết thúc năm ngân sách, kinh phí
do ngân sách chi hoạt động thường xuyên và các khoản thu sự nghiệp chưa sử dụng hết,
đơn vị được chuyển sang năm sau để tiếp tục sử dụng. Đối với kinh phí chi cho hoạt động
không thường xuyên: khi điều chỉnh các nhóm mục chi, nhiệm vụ chi, kinh phí cuối năm
chưa sử dụng hoặc chưa sử dụng hết, thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà
nước và các văn bản hướng dẫn hiện hành.
Đối với đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp tự đảm
bảo một phần chi phí hoạt động, hàng năm sau khi đã trang trải các khoản chi phí, nộp
thuế và các khoản nộp khác theo quy định phần chênh lệch thu lớn hơn chi - kết quả hoạt
động tài chính của đơn vị được sử dụng bằng cách trích lập quỹ đơn vị như: Quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ khen thưởng, Quỹ Phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu

nhập. Mức trả thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ do Thủ trưởng đơn vị sự nghiệp
quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ.
13
Đối với đơn vị sự nghiệp do ngân sách Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt
động được sử dụng kinh phí tiết kiệm được từ khoản chênh lệch thu lớn hơn chi sau khi
đã trang trải hết các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản khác theo trình tự: Chi trả thu
nhâp tăng thêm, tổng mức chi trả thu nhập trong năm của đơn vị tối đa không quá 2 lần
quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy định; Chi khen thưởng cho tập thể, cá
nhân trong và ngoài đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp vào hoạt động
của đơn vị; Chi phúc lợi trợ cấp khó khăn đột xuất cho người lao động; Chi tăng cường
cơ sở vật chất của đơn vị; với đơn vị xét thấy khả năng tiết kiệm kinh phí không ổn định
có thể lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao
động.
CHƯƠNG II
LẬP DỰ TOÁN TRONG CÁC TỔ CHỨC CÔNG
2.1. Khái quát việc lập dự toán trong các tổ chức công
2.1.1. Khái niệm lập dự toán trong các tổ chức công
Lập dự toán là quá trình phân tích, đánh giá, tổng hợp, lập dự toán nhằm xác lập
các chỉ tiêu thu chi của đơn vị dự kiến có thể đạt được trong năm kế hoạch, đồng thời xác
lập các biện pháp chủ yếu về kinh tế - tài chính để đảm bảo thực hiện tốt các chỉ tiêu đã
đề ra.
Lập dự toán là khâu quan trọng trong quá trình quản lý tài chính của đơn vị. Trong
hoạt động quản lý nhà nước đối với kinh tế, lập dự toán luôn là nhiệm vụ không thể thiếu
để hoạt động quan lý nền kinh tế có hiệu quả, lập dự toán là công cụ quản lý đắc lực của
cơ quan chức năng cũng như của chính bản thân đơn vị. Quản lý việc lập dự toán góp
phần cho quá trình lập được chính xác, hiệu quả và đúng chế độ.
2.1.2. Ý nghĩa của việc lập dự toán:
Trong quy trình quản lý tài chính các tổ chức công, lập dự toán là khâu mở đầu
quan trọng, bắt buộc phải thực hiện trong quá trình quản lý tài chính. Nó có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, đó là:

14
Thứ nhất, thông qua việc lập dự toán để đánh giá khả năng và nhu cầu về tài chính
của các đơn vị, từ đó phát huy tính hiệu quả đồng thời hạn chế những trở ngại trong quá
trình sử dụng tài chính của các đơn vị.
Thứ hai, theo nguyên tắc quản lý tài chính, chi phải dựa trên thu mà thu và chi
trong các tổ chức công không phải là đồng nhất với nhau về mặt thời gian, có những lúc
có nhu cầu chi nhưng chưa có thu và ngược lại. Do đó, cần có kế hoạch thu và chi để các
nhà quản lý có thể chủ động điều hành đơn vị.
Thứ ba, dự toán là cơ sở để tổ chức thực hiện. Lập dự toán là hoạt động tiền khả
thi của quá trình thực hiện dự toán. Do đó lập dự toán có vai trò quan trọng trong hoạt
động tổ chức của một đơn vị, nó là cơ sở dẫn dắt quá trình thực hiện dự toán của đơn vị
sau này. Việc lập dự toán cũng là tiêu chí để đánh giá hiệu quả việc thực hiện dự toán
trong các tổ chức công.
2.1.3. Yêu cầu của việc lập dự toán:
Mục tiêu cơ bản của việc lập dự toán trong một đơn vị là nhằm phân tích, đánh giá
các khoản thu, chi tài chính trên cơ sở khoa học và thực tiễn, đưa ra các chỉ tiêu thu, chi
tài chính sát với thực tế sao cho có hiệu quả nhất. Điều đó đòi hỏi việc lập dự toán phải
đáp ứng các yêu cầu sau:
- Phải phản ánh đầy đủ chính xác các khoản thu, chi dự kiến theo đúng chế độ, tiêu
chuẩn, định mức của nhà nước
- Việc lập dự toán phải theo từng lĩnh vực thu và lĩnh vực chi
- Phải đảm bảo nguyên tắc cân đối, chi phải có nguồn đảm bảo
- Lập dự toán phải đúng theo nội dung, biểu mẫu quy định, đúng thời gian, phải thể
hiện đầy đủ các khoản thu chi theo Mục lục Ngân sách nhà nước và hướng dẫn
của Bộ Tài chính gửi kịp thời cho các cơ quan chức năng của nhà nước xét duyệt
- Dự toán được lập phải kèm theo các báo cáo thuyết minh rõ cơ sở, căn cứ tính
toán.
2.1.4. Quy trình lập dự toán của các tổ chức công:
Quá trình lập dự toán được tiến hành theo các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Thông báo số kiểm tra

Bước 2: Lập dự toán
Bước 3: Hoàn chỉnh dự toán và trình cấp trên
2.1.4.1. Thông báo số kiểm tra.
Hàng năm. để lập dự toán trong các tổ chức công cần đòi hỏi phải có công tác
hướng dẫn lập dự toán của cơ quan tài chính cấp trên và thông báo số kiểm tra dự toán.
Trước ngày 31 tháng 5 hàng năm, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách năm sau. Căn cứ vào
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
dự toán ngân sách nhà nước năm sau, trước ngày 10 tháng 6 hàng năm, Bộ Tài chính ban
hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự toán và thông báo số
kiểm tra về dự toán ngân sách với tổng mức và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách đối với
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, tổng số
thu, chi và một số lĩnh vực chi quan trọng đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời
hạn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư phát triển và phối hợp
với Bộ Tài chính thông báo số kiểm tra vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách nhà nước,
vốn tín dụng đầu tư. Sau đó, căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư
hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư và
yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, địa phương, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
15
thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách
nhà nước cho các đơn vị trực thuộc; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức hướng dẫn và
thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân
dân cấp huyện; Uỷ ban nhân dân cấp huyện thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách
cho các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương,
Uỷ ban nhân dân các cấp, khi thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà nước do
các đơn vị trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp dưới đảm bảo số thu không thấp hơn số
kiểm tra, số chi phải phù hợp với số kiểm tra về tổng mức và cơ cấu.
Bước này còn được gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan hành chính

ở trung ương và địa phương cho các cơ quan chủ quản cấp ngành và Uỷ ban nhân
dân cấp dưới. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp đã được
phân cấp về quản lý chi của các tổ chức công lại cụ thể hoá các định mức chi cho phù
hợp với điều kiện cụ thể của mình, tiếp tục hướng dẫn cho các đơn vị dự toán trực
thuộc, để các đơn vị này hướng dẫn theo hệ thống dọc cho xuống đến tận đơn vị dự
toán cấp cơ sở. Ví dụ: Bộ Giáo dục & Đào tạo sau khi nhận được văn bản hướng dẫn
và số kiểm tra được giao để lập dự toán kinh phí của ngành Giáo dục – Đào tạo, phải
tiếp tục cụ thể hoá các mức chi; phương pháp xác định các khoản chi hay khả năng
tạo lập nguồn kinh phí; thời gian và cách thức lập, gửi, xét duyệt dự toán kinh phí;
.v.v thành văn bản hướng dẫn của ngành gửi các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc.
Công việc này còn tiếp tục diễn ra ở các đơn vị dự toán cấp II cho đến khi văn bản
hướng dẫn và số kiểm tra được giao tới tận các đơn vị dự toán cơ sở thuộc Bộ Giáo
dục & Đào tạo.
Với hệ thống ngân sách địa phương qui trình giao số kiểm tra còn diễn ra ở
nhiều cấp ngân sách và nhiều đơn vị dự toán thuộc các cấp khác nhau cho đến khi
nào đơn vị dự toán cơ sở (đơn vị dự toán cấp III) nhận được số kiểm tra và văn bản
hướng dẫn lập dự toán kinh phí, thì mới được coi là hoàn tất công việc của bước này.
2.1.4.2. Lập dự toán.
Dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí, các đơn vị dự
toán cơ sở tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán cấp trên
hoặc cơ quan Tài chính.
Căn cứ vào mức độ phân cấp về thu, chi, cơ quan Tài chính các cấp ở địa
phương có trách nhiệm xem xét và tổng hợp dự toán kinh phí của các cơ quan, đơn vị
dự toán cấp I của ngân sách cấp mình. Ví dụ: Phòng Tài chính cấp huyện có nhiệm
vụ xem xét và tổng hợp dự toán kinh phí của các đơn vị dự toán cấp I của ngân sách
cấp huyện để lập dự toán của ngân sách huyện; đồng thời báo cáo dự toán của ngân
sách huyện cho Sở Tài chính. Sở Tài chính có nhiệm vụ xem xét và tổng hợp dự toán
kinh phí của đơn vị dự toán cấp I của ngân sách cấp tỉnh và dự toán của ngân sách
các huyện để lập dự toán ngân sách tỉnh và báo cáo dự toán ngân sách tỉnh cho Bộ
Tài chính. Bộ Tài chính có trách nhiệm kiểm tra, tổng hợp dự toán kinh phí của các

bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương - với tư
cách là đơn vị dự toán cấp I của ngân sách trung ương, cùng với dự toán chi thường
xuyên từ ngân sách các tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) thành dự toán NSNN.
Đối với các cơ quan hành chính Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp hàng năm phải
lập đầy đủ dự toán thu và dự toán chi cho các nhiệm vụ từ nguồn thu phí, lệ phí và thu
khác được để lại đơn vị theo chế độ quy định để gửi lên cơ quan chủ quản cấp trên. Công
tác lập dự toán được tiến hành vào cuối quý II đầu quý III của năm báo cáo. Căn cứ vào
16
kết quả thực hiện kế hoạch tài chính năm trước để lập dự toán năm nay đồng thời trên cơ
sở các chính sách, chế độ hiện hành để xác định định mức cụ thể.
Việc tổng hợp chi tiết tất cả các nguồn thu, nhiệm vụ chi được phản ánh đầy đủ
trên Biểu Dự toán thu chi ngân sách nhà nước năm kế hoạch (Phụ lục 01).
Tên đơn vị: Phụ lục 1

DỰ TOÁN THU, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM
Đơn vị tính:
STT Nội dung Uớc thực hiện năm báo cáo
Số thực tế đã
thực hiện
Số ước thực
hiện
A TỔNG SỐ THU
I Kinh phí NSNN cấp
1 Kinh phí ĐTXDCB
2 Kinh phí chuyên môn
3 Kinh phí khác
II Số thu từ phí, lệ phí
1 Phí
2 Lệ phí
III Thu khác

IV Số thu được để lại đơn
vị sử dụng theo chế độ
1 Phí, lệ phí
2 Cơ sở vật chất
3 Thu khác
B TỔNG SỐ CHI
I Chi thường xuyên
1 Lương, phụ cấp
2 Chi chuyên môn
3 Mua sắm, sửa chữa
4 Chi khác
II Chi không thường
xuyên
1 Chi đầu ĐTXDCB
2 Chi khác
Các đơn vị phải lập dự toán theo các bước sau:
Bước 1: Lập dự toán thu
Dự toán thu có tầm quan trọng đặc biệt trong việc lập dự toán chi và triển khai
nhiệm vụ chi đảm bảo chủ động thu, chi trong đơn vị. Việc lập dự toán thu phải sát với
thực tế hoạt động của đơn vị, đánh giá đúng nguồn lực từ đó phát huy khả năng khai thác
và nuôi dưỡng nguồn thu của đơn vị. Để việc lập dự toán được hiệu quả trước hết đơn vị
cần phân tích tiềm năng, đánh giá thế mạnh và khả năng thu của đơn vị, trên cơ sở phân
tích đánh giá đó mới đảm bảo khai thác hiệu quả và nuôi dưỡng ngồn thu cho đơn vị.
Cách thức tiến hành khai thác nguồn thu bắt đầu bằng cách thống kê đầy đủ các khoản
thu, phân tích phát hiện những ưu nhược điểm của từng khoản thu, xác định nguồn thu
17
nào có khả năng tăng thu, nguồn thu nào không có khả năng khai thác hoặc trong quá
trình khai thác không có hiệu quả, lãnh đạo đơn vị trên cơ sở phân tích đánh giá để ra
quyết định.
Theo cách phân loại các tổ chức công có thể chia việc lập dự toán thu đối với các

tổ chức công làm 2 cách. Đó là:
- Đối với các tổ chức công không có nguồn thu sự nghiệp, trên cơ sở phân bổ và giao dự
toán ngân sách năm đối với các đơn vị theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, các đơn
vị này tuỳ theo ngành và lĩnh vực hoạt động của đơn vị mình để xây dựng dự toán thu
theo đúng quy định của nhà nước.
- Đối với các tổ chức công có thêm nguồn thu sự nghiệp thì ngoài việc lập dự toán thu
trên cơ sở phân bổ và giao dự toán ngân sách năm theo quy định của Thủ tướng Chính
phủ, các đơn vị cần phải lập dự toán đối với các nguồn thu ngoài ngân sách.
Bước 2: Lập dự toán chi
Dự toán chi phản ánh nhu cầu chi dự kiến năm kế hoạch của đơn vị theo Mục lục
ngân sách. Để xây dựng được dự toán chi, trước hết đơn vị phải căn cứ chức năng nhiệm
vụ được giao, căn cứ vào định mức tiêu chuẩn chi và dự toán thu đã được lập của năm,
sau đó dự báo nhu cầu chi trong năm kế hoạch và kết quả thực hiện kế hoạch chi tiêu năm
trước để lập dự toán.
Tuy nhiên, đối với mỗi đơn vị, việc lập dự toán chi đòi hỏi phải cụ thể theo
nguyên tắc:
- Các khoản chi phải có nguồn đảm bảo
- Các khoản chi qua các năm phải tương đối ổn định
- Các khoản chi thường xuyên phải gắn chặt với các hoạt động của đơn vị
- Các mức chi phải tuân thủ theo đúng chế độ, chính sách quyđịnh hiện hành của
nhà nước
- Các khoản chi được lập phải đạt hiệu quả cao với nguồn lực thấp nhất
Bước 3: Lập Báo cáo thuyết minh dự toán
Trên cơ sở dự toán thu và dự toán chi, phòng Kế hoạch – Tài chính tiến hành lập
Bản Báo cáo thuyết minh dự toán. Trên Bản báo cáo thuyết minh dự toán phải chỉ ra
được các nội dung sau:
- Căn cứ xác định các chỉ tiêu trong dự toán
- Cơ cấu thu, chi tài chính dự toán có phù hợp với định mức quy định hay không
- Sự thay đổi thu chi tài chính dự toán năm kế hoạch so với năm báo cáo như thế
nào, nguyên nhân cụ thể của sự thay đổi đó

- Các biện pháp cơ bản để thực hiện tốt dự toán
2.1.4.3. Hoàn chỉnh dự toán và trình cấp trên
Căn cứ vào dự toán đã được cơ quan quyền lực nhà nước đồng cấp thông qua
và đã được sự chấp thuận của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; cơ quan Tài
chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ đề nghị cơ quan quyền lực Nhà
nước đồng cấp chính thức phân bổ và giao dự toán chi thường xuyên cho mỗi ngành,
mỗi cấp, mỗi đơn vị. Theo Luật NSNN số 01/2002/QH11 ngày 16 tháng 12 năm
2002 của Quốc hội khoá XI, thì Quốc hội phải phân bổ dự toán ngân sách trung
ương; Hội đồng nhân dân các cấp phải phân bổ dự toán ngân sách cấp mình. Việc lập
dự toán chi thường xuyên chỉ được coi là hoàn tất và tuân thủ đúng qui định của Luật
NSNN hiện hành khi vào thời điểm trước này 31 tháng 12 của năm báo cáo, tất cả
các đơn vị dự toán cấp III đã nhận được thông báo về tổng số kinh phí theo dự toán
của đơn vị đã được duyệt và đơn vị được quyền sử dụng cho năm kế hoạch.
18
Đối với các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp, cơ quan tài chính cấp trên
sau khi hướng dẫn các đơn vị lập dự toán phải tiếp tục hướng dẫn các đơn vị hoàn chỉnh
dự toán nếu có sự thay đổi về cơ cấu và định mức dự toán thu, chi. Sau đó, các đơn vị
phải trình dự toán lên các cấp có thẩm quyền phê duyệt đồng thời phải gửi kèm theo bản
thuyết minh chi tiết căn cứ tính toán từng khoản thu, chi. Cụ thể:
- Các đơn vị sử dụng ngân sách lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi nhiệm vụ
được giao, gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp
(trường hợp không phải là đơn vị dự toán cấp I) xem xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị
cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp I.
- Các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm
vi nhiệm vụ được giao gửi cơ quan Tài chính, cơ quan Kế hoạch và Đầu tư cùng cấp.
- Các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương (đơn vị dự toán cấp I) lập dự toán
thu, chi ngân sách thuộc phạm vi trực tiếp quản lý, xem xét dự toán do các đơn vị trực
thuộc lập; tổng hợp và lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan
Tài chính, cơ quan Kế hoạch và Đầu tư cùng cấp. Các cơ quan nhà nước Trung ương gửi
báo cáo trước ngày 20 tháng 7 năm trước. Thời gian gửi báo cáo của các cơ quan nhà

nước địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
2.2. Nội dung lập dự toán trong các tổ chức công
2.2.1. Lập dự toán thu
2.2.1.1. Sự cần thiết phải lập dự toán thu:
Đối với một nhà quản lý, việc quản lý dự toán thu là vô cùng quan trọng, các nhà
quản lý phải nắm chắc nguồn thu, dự liệu được trước về khả năng thu, đảm bảo nhiệm vụ
chi.
Trong thực tế, nhu cầu chi luôn là vô hạn trong khi nguồn thu lại bị giới hạn bởi
nguồn lực khan hiếm. Vì vậy, để duy trì hoạt động và phát triển của đơn vị các nhà quản
lý cần xác định rõ nhu cầu chi cần thiết trên cơ sở các khả năng thu có thể đáp ứng.
Như vậy, có thể thấy thông qua việc lập dự toán thu, các nhà quản lý có thể xác
định đầy đủ các khoản thu, đồng thời đánh giá được các tiềm năng và lợi thế của đơn vị,
khả năng tăng thu, có phương án khai thác và nuôi dưỡng nguồn thu. Điều đó vừa tránh
được sự bỏ sót nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện phát triển nguồn thu lâu dài cho đơn vị.
Việc lập dự toán thu giúp cho nhà lập kế hoạch có thời gian và điều kiện để xác
lập chỉ tiêu thu đúng đắn, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Bên cạnh đó, việc lập dự toán
thu làm kỹ, làm tốt tạo ra những dự báo nguồn lực thu cho đơn vị chính xác tạo điều kiện
thuận lợi cho các khâu tiếp theo đặc biệt là khâu chấp hành dự toán.
2.2.1.2. Căn cứ lập dự toán thu
Để lập dự toán thu trong năm nay cần phải căn cứ vào kết quả thực hiện kế hoạch
năm trước và năm hiện hành cụ thể là dựa vào Báo cáo thực hiện năm trước và Báo cáo
kế hoạch thực hiện năm hiện hành để xây dựng kế hoạch năm nay. Bên cạnh đó căn cứ
vào quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản hướng dẫn luật hàng năm để xây
dựng. Cơ quan tài chính có chức năng giúp trực tiếp cho Thủ trưởng đơn vị đồng thời là
chủ tài khoản xây dựng dự toán cho năm kế hoạch hàng năm. Cụ thể:
- Lập dự toán thu phải căn cứ vào quy định của pháp luật
- Căn cứ vào chính sách chế độ thu ngân sách nhà nước
- Căn cứ nhiệm vụ kinh tế - văn hoá, các nhiệm vụ được giao để lập dự toán
- Căn cứ nhiệm vụ khác của đơn vị để lập khoản bổ sung
- Căn cứ vào kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thu của năm

ngay trước đó và năm hiện hành để lập dự toán năm nay. Tuy nhiên cần lưu ý rằng
19
việc lập dự toán thu của năm trước chỉ có ý nghĩa tham khảo, không nên áp đặt
năm trước cho năm sau vì thực tế các năm là khác nhau.
2.2.1.3. Phương pháp lập dự toán thu
Việc xác định mức thu cho mỗi chỉ tiêu trên biểu này được xác định như sau:
- Trong cột Chỉ tiêu dự toán thu:
Cột Chỉ tiêu dự toán thu là cột liệt kê toàn bộ các khoản thu của đơn vị. Các khoản
thu này được nhà nước quy định về mức thu.
Đối với khoản thu từ ngân sách nhà nước, đơn vị được cấp qua Kho bạc Nhà nước
dưới hình thức Kho bạc nhà nước sẽ cấp định kỳ hàng tháng khi các đơn vị trình Kho bạc
các khoản chi thường xuyên và chi không thường xuyên của đơn vị.
Đối với khoản thu phí và lệ phí của đơn vị được chia làm hai phần, một phần để
lại đơn vị sử dụng theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với từng loại
phí, lệ phí, một phần nộp ngân sách nhà nước. Đối với những loại phí, lệ phí để lại và
nộp ngân sách nhà nước được chia theo tỷ lệ phần trăm thì hàng năm cơ quan có thẩm
quyền giao dự toán sẽ điều chỉnh cho phù hợp với hoạt động của đơn vị.
Xác định mức thu phí và lệ phí
Thẩm định quy định về phí và lệ phí là thẩm quyền quy định mức thu, chế độ thu
nộp, quản lý và sử dụng tiền phí và lệ phí. Phân cấp thẩm quyền quy định phí và
lệ phí được thực hiện dựa vào tính chất và phạm vi ảnh hưởng của từng loại, lệ phí.
Chính phủ quy định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến
nhiều chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương quy định đối với một số loại phí gắn với quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên,
thuộc chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính quyền địa phương. Bộ tài chính
quy định đối với các loại phí còn lại áp dụng thống nhất trong cả nước.
Chính phủ quy định đối với một số lệ phí quan trọng, có số thu lớn, có ý nghĩa
pháp lý quốc tế. HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định đối với một số
loại lệ phí gắn chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính quyền địa phương, phù
hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của địa phương. Bộ tài chính quy định đối với

những lệ phí còn lại.
Mức thu phí đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư phải bảo đảm thu hồi vốn
trong thời gian hợp lý, có tính đến những chính sách của Nhà nước trong từng thời ký.
Mức thu phí đối với các dịch vụ do tổ chức, cá nhân đầu tư vốn phải bảo đảm thu hồi
trong thời gian hợp lý, phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp.
Căn cứ để xác định để xác định mức thu phí gồm vốn đầu tư để trang trải các chi
phí thực hiện các dịch vụ thu phí, bao gồm cả các chi phí thực hiện các thu phí; khả năng
thu phí, hiệu quả thu phí dự kiến trong đề án thu phí; tính chất, đặc điểm của từng dịch vụ
thu phí; chủ trương chính sách nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội và đặc điểm của các
vùng trong từng thời kỳ; mức thu loại phí tương ứng ở các nước trong khu vực và thế
giới nếu có.
Các khoản chi phí để thực hiện các dịch vụ thu phí bao gồm:
- Chi phí xây dựng, mua sắm, duy tư, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và định
kỳ máy móc, thiết bị, phương tiện làm việc…hoặc thuê ngoài tài sản trực tiếp phục vụ
công việc thu phí. Chi phí này được phân bổ theo mức độ hao mòn của những tài sản trực
tiếp phục vụ công việc thu phí;
- Chi phí vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu sử dụng trong quá trình thực hiện công việc
thu phí
20
- Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản đóng
góp theo tiền lương, tiền công, theo chế độ hiện hành cho lao động trực tiếp thu phí, lệ
phí
Tổ chức, cá nhân được thu phí có trách nhiệm xây dựng mức thu kèm theo đề án
thu phí để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Đề án thu phí phải nêu rõ
phương thức đầu tư, thời gian đầu tư hoàn thành, thời gian đưa dự án đầu tư vào sử dụng,
thời gian dự kiến bắt đầu thu phí, dự kiến mức thu và căn cứ xây dựng mức thu, đánh giá
khả năng đóng góp của đối tượng nộp phí, hiệu quả thu phí và khả năng thu hồi vốn. Mức
thu phí trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung cần có ý
kiến của cơ quan tài chính cung cấp (trừ trường hợp cơ quan xây dựng mức thu là cơ
quan tài chính). Ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính phải được gửi kèm trong hồ

sơ trình duyệt mức thu phí và là một căn cứ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét
quyết định mức thu phí
Việc xây dựng mức thu đối với những loại phí thuộc thẩm quyền của chính phủ
quy định được thực hiện theo quy định của chính phủ đối với từng loại phí cụ thể; những
loại phí thuộc thẩm quyền của Bộ tài chính và thuộc thẩm quyền của NĐND cấp tỉnh quy
định do UBND cấp tỉnh trình được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ tài chính.
Mức thu lệ phí được ấn định trước bằng một số tiền nhất định đối với từng công
việc quản lý nhà nước, không nhằm mục đích bù đắp chi phí để thực hiện công việc thu
lệ phí, phù hợp với thống kê lệ quốc tế.
Tổ chức được thu lệ phí có trách nhiệm xây dựng mức thu kèm theo văn bản đề
nghị thu lệ phí gửi bộ tài chính để Bộ tài chính trình Chính phủ xem xét ban hành hoặc
Bộ Tài chính nghiên cứu, ban hành theo thẩm quyền.
Riêng lệ phí trước bạ, mức thu được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị tài sản
trước bạ theo quy định của chính phủ.
Đối với khoản thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, đơn vị tự xây dựng kế hoạch
thu để điều hành trong năm.
- Trong cột Ước thực hiện năm báo cáo:
Ước thực hiện năm báo cáo là phản ánh số thu dự kiến năm báo cáo (thực chất là
năm hiện hành tại thời điểm lập dự toán thu). Số liệu ghi cột này bao gồm 2 phần:
+ Số thực tế thực hiện lũy kế từ đầu năm báo cáo đến thời điểm lập dự toán (Nghĩa là
số liệu tính từ đầu năm đến cuối quý II đầu quý III năm báo cáo). Căn cứ vào số tổng hợp
thu, chi của đơn vị theo chỉ tiêu báo cáo và quyết toán trong chế độ kế toán đơn vị để lấy
số liệu ở cột lũy kế của tháng cuối gần nhất với thời điểm lập dự toán. Trên sổ này đã ghi
chép theo các nội dung thu tương ứng với các chỉ tiêu thu trong lập dự toán
+ Số ước thực hiện trong thời gian còn lại của năm báo cáo: Trên cơ sở số thực hiện
từ đầu năm, dự kiến khả năng thu thực hiện đến cuối năm. Thông thường số ước thực
hiện năm báo cáo ít nhất phải đạt dự toán về tổng thu của năm đó. Nếu trong thực tế có
khoản thu nào bị hụt thì phải bù trừ bằng số thu của các nội dung khác sao cho chênh
lệch giữa ước thực hiện và dự toán đã được quyết định là nhỏ nhất. Trừ trường hợp do
những nguyên nhân khách quan tạo ra sự đột biến như thiên tai, bão lụt thì số ước thực

hiện mới được phép xác định thấp hơn dự toán.
- Trong cột Dự toán năm kế hoạch:
Dự toán năm kế hoạch được tiến hành trên cơ sở tính toán các khoản thu chủ yếu
của đơn vị, cách tính dựa vào công thức:
Số thu của Số đối tượng phải chịu Mức thu của mục đó
mỗi mục dự kiến = số thu dự kiến kỳ kế x trên một đối tượng
năm kế hoạch hoạch của mục đó dự kiến kỳ kế hoạch
21
Trong đó:
- Mức thu của mỗi mục dự kiến năm kế hoạch trên một đối tượng thu sẽ căn cứ vào
các văn bản quy định về chế độ thu, nộp hiện hành hoặc theo sự hướng dẫn trực
tiếp của cơ quan tài chính các cấp.
- Số lượng, đối tượng thu được tính toán cân nhắc trên cơ sở thực tế năm báo cáo và
dự kiến tăng giảm trong năm kế hoạch.
2.2.2. Lập dự toán chi
Các cơ quan hành chính phải cơ cấu lại nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước cho phù
hợp trên cơ sở thực hiện theo cơ chế giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng
biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo quy định nhằm tăng quyền tự chủ gắn với
trách nhiệm, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và hiệu suất hoạt động. Các đơn vị sự
nghiệp công lập thực hiện theo quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; đồng
thời, thực hiện thí điểm chuyển một số đơn vị sự nghiệp công lập có điều kiện sang hoạt
động theo cơ chế doanh nghiệp.
2.2.2.1. Căn cứ lập dự toán chi:
Hàng năm, đơn vị trên cơ sở ngân sách giao để lập kế hoạch chi. Dự toán chi của
đơn vị phải được xây dựng dựa trên các căn cứ sau:
- Nhiệm vụ chi ngân sách và dự báo nhu cầu chi trong năm kế hoạch
- Dự toán thu năm kế hoạch của đơn vị
- Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành
- Tình hình thực hiện dự toán của năm trước

Cụ thể:
- Đối với việc lập dự toán chi thường xuyên phải tuân theo các chính sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức do các cơ quan nhà nước có thẩm quỳên quy định. Hằng năm, các
đơn vị căn cứ vào các chỉ tiêu do cấp trên giao như chỉ tiêu biên chế, chỉ tiêu quản lý nhà
nước, nhiệm vụ thường xuyên như nhiệm vụ chuyên môn, nhiệm vụ không thường xuyên
như nhiệm vụ đặc thù của đơn vị để xây dựng kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ.
- Đối với việc lập dự toán chi đầu tư phát triển phải căn cứ vào những dự án đầu tư
có đủ các điều kiện bố trí vốn theo quy định về Quy chế quản lý vốn đầu tư xây dựng và
phù hợp với kế hoạch tài chính 5 năm, khả năng ngân sách hàng năm; đồng thời ưu tiên
bố trí đủ vốn phù hợp với tiến độ triển khai của các chương trình, dự án đã được cấp có
thẩm quyền quyết định và đang thực hiện dở dang.
Để việc lập dự toán chi được chính xác, hiệu quả lãnh đạo đơn vị phải tổ chức
kiểm tra quá trình thực hiện việc lập dự toán chi nhằm mục đích xác định:
- Mức độ tuân thủ các căn cứ lập dự toán
- Mức độ tuân thủ các báo biểu và tài liệu trong hồ sơ dự toán
- Tính hợp lý về mức độ của các chỉ tiêu dự toán
- Mức độ tuân thủ trình tự các bước và thời gian trong quá trình lập dự toán
2.2.2.2. Yêu cầu của lập dự toán chi:
Trong quá trình lập dự toán chi cần chú ý cân đối khả năng thu với nhu cầu chi,
xác định nguồn kinh phí có thể đáp ứng, sau đó xác định tổng chi tương ứng với từng
mục chi, lập danh sách thứ tự ưu tiên các khoản chi để lập biểu cân đối dự toán thu chi.
Trên cơ sở biểu được lập, đơn vị lập bản giải trình các biện pháp dự kiến áp dụng để thực
hiện các chỉ tiêu đã ghi trong dự toán.
Để lập dự toán chi, đơn vị phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tuân thủ sự hướng dẫn lập dự toán của cơ quan tài chính cấp trên
- Lập đúng nội dung, biểu mẫu và thời hạn
22
- Phải có thuyết minh rõ ràng về các căn cứ tính toán
- Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành
- Bố trí dự phòng chi

2.2.2.3. Phương pháp lập:
a. Lập dự toán chi thường xuyên:
Lập dự toán c
ác khoản chi cho con người thuộc khu vực hành chính - sự
nghiệp
Đây được coi là nội dung chi quan trọng đầu tiên để có thể có được một trong
ba yếu tố đầu vào của bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào muốn tồn tại và hoạt động.
Thuộc các khoản chi cho con người của khu vực hành chính - sự nghiệp, bao gồm:
Tiền lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, tiền thưởng, các khoản đóng góp
theo tiền lương và các khoản thanh toán khác cho cá nhân. Ngoài ra, ở một số đơn vị
đặc thù là các trường còn có khoản chi về học bổng cho học sinh và sinh viên theo
chế độ Nhà nước đã quy định cho mỗi loại trường hợp cụ thể và mức học bổng mà
mỗi sinh viên được hưởng cũng được tính trong cơ cấu chi thường xuyên thuộc
nhóm mục này.
Lương và phụ cấp lương là khoản chi cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Việc lập
dự toán về quỹ lương và khoản trích nộp theo lương của đơn vị phai căn cứ vào thời gian
lao động, chất lượng lao động để lập dự toán quỹ lương và khoản trích nộp theo lương
sao cho đảm bảo đúng quy định. Vận dụng hình thức tính tiền lương và tiền thưởng theo
đúng quy định. Quỹ lương và thưởng của đơn vị bao gồm:
Tiền lương chính là phần tiền lương trả cho công chức, viên chức theo ngạch bậc
do nhà nước quy định. Theo quy định hiện nay, hệ thống bảng lương áp dụng cho đơn vị
hành chính sự nghiệp như sau:
- Hệ thống bảng lương công chức, viên chức được quy định theo ngành có các ngạch và
trong mỗi ngạch có các bậc lương thâm niên
- Ngạch phản ánh nội dung công việc và trình độ công chức, viên chức theo tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ
- Bậc lương theo ngạch thể hiện thâm niên của công chức, viên chức theo ngạch đó. Căn
cứ vào ngạch, bậc của công chức để xác định tiền lương chính tương ứng của công chức
đó dựa vào công thức sau:
Tiền lương chính = Mức lương x Hệ số lương

1người/tháng tối thiểu của công chức
- Thành phần tiền lương chính bao gồm:
+ Tiền lương biên chế của công chức theo ngạch bậc
+ Tiền lương tập sự
+ Tiền lương hợp đồng dài hạn
+ Tiền lương dôi ra ngoài biên chế
+ Tiền lương khác
Phụ cấp lương là phần tiền lương trả thêm ngoài phần tiền lương chính nhằm bù
đắp thêm hao phí sức lao động cho người lao động theo yêu cầu của công việc trong
những trường hợp riêng theo quy định gồm 2 loại:
- Phụ cấp thường xuyên: Là khoản phụ cấp được tính và trả cho tất cả các tháng trong
năm
- Phụ cấp không thường xuyên: Là khoản phụ cấp chỉ được tính khi có sự việc hoạt động
đó xảy ra.
Lập dự toán các khoản chi về nghiệp vụ chuyên môn
23
Hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong các đơn vị hành chính - sự nghiệp được
đảm bảo bằng nguồn kinh phí thường xuyên của ngân sách ở mỗi ngành rất khác
nhau. Nếu như ở cơ quan Công chứng Nhà nước, hoạt động nghiệp vụ chuyên môn
là xác nhận tính hợp lệ, hợp pháp của các loại giấy tờ cho mỗi tổ chức, cá nhân có
nhu cầu; thì ở các đơn vị sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo là hoạt động giảng dạy, học
tập và nghiên cứu khoa học; ở các đơn vị sự nghiệp Y tế lại là hoạt động phòng bệnh,
khám bệnh và chữa bệnh; .v.v
Được tính vào chi nghiệp vụ chuyên môn phải là những khoản chi mà xét về nội
dung kinh tế của nó phải thực sự phục vụ cho hoạt động này. Ví dụ: Các chi phí về
nguyên liệu, vật liệu; chi phí về năng lượng, nhiên liệu; chi phí cho nghiên cứu, hội
thảo khoa học; chi phí về thuê mướn chuyên gia, giáo viên để tư vấn hay đào tạo cho
đội ngũ nghiên cứu; chi phí để tiến hành khảo sát, tham quan học tập những điển
hình tiên tiến về nghiên cứu và ứng dụng quy trình công nghệ của một số hoạt động
nào đó; .v.v

Chính vì vậy, trong quá trình hạch toán các khoản chi thường xuyên phát sinh
tại mỗi đơn vị hành chính - sự nghiệp rất cần phải có sự phân định theo nội dung
kinh tế của nghiệp vụ phát sinh một cách rõ ràng, chuẩn xác. Nhờ đó mà công tác
thống kê, phân tích đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí ở mỗi đơn vị mới
có thể thấy được mức độ quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả đã đạt được ở
mức độ nào đó. Một đơn vị được đánh giá là quản lý và sử dụng kinh phí chi thường
xuyên có hiệu quả khi tỷ trọng chi nghiệp vụ chuyên môn trong tổng số chi của đơn
vị đó luôn phải được ưu tiên sau khi đã trang trải cá nhu cầu chi cho con người theo
quy định.
Lập dự toán các khoản chi mua sắm, sửa chữa
Trong quá trình hoạt động, các đơn vị hành chính - sự nghiệp còn được cấp kinh
phí để mua sắm thêm các tài sản (kể cả tài sản cố định) hay sửa chữa các tài sản đang
trong quá trình sử dụng, nhằm phục vụ kịp thời cho nhu cầu hoạt động và nâng cao
hiệu suất sử dụng của các tài sản đó. Nếu biết chi những đồng tiền để đáp ứng ngay
cho các nhu cầu duy tu, bảo dưỡng tài sản trong quá trình sử dụng một cách đúng
lúc, kịp thời thì sẽ góp phần tích cực trong việc kéo dài tuổi thọ của tài sản, chất
lượng phục vụ của tài sản không bị sụt giảm; và vị thế hiệu quả của vốn đầu tư được
nâng cao đáng kể.
Tuy nhiên, mức chi cho mua sắm, sửa chữa của mỗi đơn vị lại phụ thuộc vào:
(i) tình trạng tài sản của đơn vị thuộc diện được sử dụng vốn NSNN; (ii) khả năng
nguồn vốn NSNN có thể dành cho nhu cầu chi này ở mức độ nào?
Trong điều kiện hiện tại, được tính vào chi cho mua sắm, sửa chữa ở các đơn vị
hành chính - sự nghiệp; bao gồm: Các khoản chi để mua sắm thêm tài sản (bao gồm
cả công cụ, dụng cụ và tài sản cố định) được hạch toán theo các mục: 110, 111, 144,
145, 147, 148 và 134 của Mục lục NSNN. Các khoản chi để thực hiện sửa chữa
thường xuyên và sửa chữa lớn tài sản cố định được hạch toán theo các mục: 117,
118, 134 của Mục lục NSNN.
Lập dự toán các khoản chi khác
Thuộc phạm vi các khoản chi khác nằm trong cơ cấu chi thường xuyên của một
đơn vị, có thể nói một cách khái quát nhất là những khoản chi có thời hạn tác động

ngắn nhưng chưa được đề cập tới ở 03 nhóm mục trên.
Nếu tiếp cận theo góc nhìn từ phía các đơn vị sử dụng ngân sách, thì cơ cấu chi
thường xuyên cho các đơn vị này còn thiếu những nội dung thuộc về chi phí chung
cho hoạt động của mỗi đơn vị đó. Nên ở nhóm chi khác này phải bao gồm các khoản
24
mục chi phí chung và chi phí khác. Các khoản mục thuộc về chi phí chung của mỗi
đơn vị nhằm đáp ứng cho nhu cầu duy trì sự hoạt động quản lý điều hành của mỗi
đơn vị đó. Nó thường bao gồm các mục chi, như: Thanh toán dịch vụ công cộng
(109); vật tư văn phòng (110); thông tin, tuyên truyền, liên lạc (111); hội nghị định
kỳ thuộc về quy định trong quản lý hành chính (112); công tác phí (113); chi phí thuê
mướn phục vụ cho hoạt động quản lý hành chính (114); chi đoàn ra, đoàn vào thuộc
các giao dịch mang tính chất đối ngoại (115,116); chi cho các hoạt động mang tính
xã hội được lấy từ quỹ chung của cơ quan (122); chi tiếp khách (134). Ngoài những
chi phí chung mà mỗi đơn vị thường phát sinh như trên, ở một số đơn vị còn có thể
phát sinh các khoản chi khác mà vẫn phải tính vào nội dung chi của đơn vị như: chi
xử lý không có thu hoặc thu không đủ chi; chi các khoản khác.
Việc phân loại theo nội dung kinh tế là tiêu thức được dùng phổ biến nhất trong
mỗi khâu của chu trình quản lý. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay đòi hỏi việc quản
lý và điều hành NSNN phải theo Luật NSNN hiện hành thì vấn đề cụ thể hóa từng
nội dung chi phải được thể hiện ngay trong dự toán. Mặt khác, thông qua việc phân
loại chi thường xuyên theo nội dung kinh tế các nhà quản lý có thể thu thập được các
thông tin một cách chính xác về tình hình quản lý biên chế và quỹ lương; tình hình
quản lý và sử dụng kinh phí đã hướng vào việc nâng cao hiệu quả chi thường xuyên
đạt ở mức độ nào? Và tình hình tuân thủ các cuộc sống, chế độ chi tại mỗi đơn vị thụ
hưởng; những bất cập có thể nảy sinh trong quá trình chấp hành dự toán trong đó có
nguyên nhân từ các chính sách chế độ chi thường xuyên, hay do cơ chế quản lý đối
với các khoản chi này .v.v để kịp thời có được các biện pháp nhằm hạn chế những
sai lệch do bất cập đó có thể gây ra.
Đối với các nguồn thu sự nghiệp trong đó nguồn thu từ phí và lệ phí được coi là
chủ yếu. Phương án thu phí, lệ phí phải thuyết minh rõ các khoản chi phí cần thiết để

thực hiện các dịch vụ thu phí, làm cơ sở xác định mức thu phí, lệ phí bao gồm:
- Chi phí xây dựng, mua sắm, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và định kỳ máy
móc thiết bị, phương tiện làm việc thuê ngoài tài sản trực tiếp phục vụ cho việc thu phí,
lệ phí được phân bổ theo mức độ hao mòn của tài sản trực tiếp phục vụ công việc thu phí,
lệ phí
- Chi phí vật tư, nguyên nhiên vật liệu sử dụng trong quá trình thu
- Chi trả các khoản lương, tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản đóng góp theo tiền
lương, tiền công theo chế độ hiện hành đối với lao động trực tiếp thu phí, lệ phí
b. Lập dự toán chi không thường xuyên:
Trong chi không thường xuyên, chi đầu tư hay còn gọi là chi đầu tư xây dựng
cơ bản là một khoản chi lớn và chiếm tỷ trọng chủ yếu. Sự vận động của tiền vốn
dùng để trang trải chi phí đầu tư xây dựng cơ bản chịu chi phối trực tiếp bởi đặc
điểm của đầu tư xây dựng cơ bản.
Việc lập dự toán kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản căn cứ vào quy trình thẩm định
dự án, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán từng dự án có kế hoạch triển khai thực hiện trong
năm cũng như những dự án đang triển khai dở dang để tiếp tục lập kế hoạch chi trong
năm kế hoach. Những dự án xây dựng cơ bản kết thúc trong năm kế hoạch phải bố trí lập
dự toán cho công tác nghiệm thu, bàn giao, thanh quyết toán. Trong thời gian lập dự toán
ngân sách nhà nước hàng năm, căn cứ vào tiến độ và mục tiêu thực hiện dự án, chủ đầu
tư lập kế hoạch vốn đầu tư của dự án gửi cơ quan quản lý cấp trên để tổng hợp vào dự
toán ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư phát triển hoặc bằng nguồn vốn chi sự
nghiệp trong dự toán ngân sách nhà nước, các dự án đầu tư sử dụng nhiều nguồn khác
25

×