Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Bội chi ngân sách nhà nước và thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.27 KB, 40 trang )

MỞ ĐẦU
Một nhà nước để hoàn thành tốt các nhiệm vụ thì nhà nước đó cần có các công
cụ riêng của mình. Một trong những công cụ đắc lực nhất đó chính là ngân sách nhà
nước. Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách nhà nước ở nước ta đã thể hiện
rõ trong việc giúp nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm soát lạm
phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, đảm bảo sự
ổn định và phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh đó thì ngân sách nhà nước
vẫn còn các mặt còn tồn tại như việc sử dụng ngân sách chưa đúng lúc đúng cách, sự
yếu kém trong việc quản lý thu chi đã đặt ra cho ta thấy cần có cái nhìn sâu hơn về tình
trạng bội chi ngân sách nhà nước và ảnh hưởng của nó tới các hoạt động kinh tế là hết
sức rộng lớn.
Vậy thế nào là bội chi ngân sách nhà nước? Những nhân tố nào ảnh hưởng tới
bội chi? Thực trạng và cách xử lý bội chi của nhà nước ta như thế nào? Trong thời gian
tới để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế cao và ổn định thì liệu nước ta có chấp nhận
một mức bội chi ở mức cao hay không? Em xin đề cập đến một số vấn đề trên trong đề
án môn học với đề tài: “Bội chi ngân sách nhà nước và thực trạng bội chi ngân sách
nhà nước ở Việt Nam hiện nay”. Kết cấu đề án gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về bội chi ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Các giải pháp kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước.
Chương 1
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước
1.1. Vai trò của ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Trong tiến trình lịch sử, vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân ngày càng
quan trọng. Nhà nước đã tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ quốc gia để thực hiện các mục
tiêu của mình. Từ đó khái niệm Ngân sách Nhà nước (NSNN) đã xuất hiện. Với tư cách là
công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước, NSNN ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở hai
tiền đề khách quan là tiền đề nhà nước và tiền đề kinh tế hàng hóa -tiền tệ.
Về khái niệm, Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã


được Quốc hội quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ở Việt Nam, năm ngân sách trùng với năm dương lịch bắt đầu
từ 1/1 và kết thúc vào 31/12.
Về mặt bản chất Ngân sách nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước. Các quan hệ kinh tế bao gồm:
• Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ
• Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức tài chính trung gian
• Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức xã hội
• Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các hộ gia đình
• Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính
• Quan hệ kinh tế giữa NSNN với hoạt động tài chính đối ngoại
Trong giai đoạn hiện nay, cơ chế quản lý ngân sách rất được Nhà nước quan tâm, từng
bước được đổi mới , khái niệm NSNN được xem là mắt xích quan trọng, giữ vai trò chủ đạo
trong tài chính Nhà nước. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 và các quy định pháp luật về
quản lý thu chi Ngân cách đã được xây dựng theo tiêu chí “quản lý thống nhất nền tài chính
quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
quản lý và sử dụng NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách
và tài sản của Nhà nước, tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại” (trích luật Ngân sách Nhà nước).
1.1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Kích thích sự tăng trưởng kinh tế ( vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế)
Trong cơ chế thị trường kế hoạch hóa tập trung, cùng với việc nhà nước can
thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò của ngân sách nhà nước trong
việc điều chỉnh các hoạt động là hết sức thụ động. Ngân sách nhà nước gần như chỉ là
một cái túi đựng sổ thu rồi thực hiện việc bao cấp vốn cố định, vốn lưu động, cấp bù lỗ,
bù giá, bù lương Trong điều kiện đó, hiệu quả các khoản thu chi ngân sách không
được coi trọng và tất yếu tác động của ngân sách nhà nước là hết sức hạn chế.
Chuyển sang cơ chế thị trường, trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước định hướng về

việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh.Điều đó
được thực hiện thông qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu của ngân sách
chính phủ kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.2. Giải quyết các vấn đề xã hội ( vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội)
Trong thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tính chất bao cấp tràn lan cho mọi
lĩnh vực kinh tế - xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của ngân sách nhà nước trong việc
giải quyết các vấn đề xã hội. Những chế độ bao cấp về nhà ở, cung cấp lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng với giá thấp … đã gây tâm lý sùng bái biên chế nhà nước,
tâm lý trông chờ, ỷ lại nhà nước. Điều đó một mặt làm giảm hiệu quả công tác, hiệu
quả tiền vốn, mặt khác tác động ngược chiều tới việc đảm bảo công bằng xã hội.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của
bộ máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển của các hoạt động xã hội,
y tế, văn hóa có ý nghĩa quyết định.Việc thực hiện các nhiệm vụ cở bản thuộc về Nhà
nước và không vì mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, trong việc thực hiện các nhiệm vụ có
tính chất toàn xã hội, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó,
hàng năm chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp
nhất. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông qua các loại trợ giúp cho dân cư có thu
nhập thấp, có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội; các loại trợ giúp gián tiếp
dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu (lương thực, điện nước …), các
khoản chi phí thực hiện các chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình
chống dịch bệnh, mù chữ …
1.1.2.3. Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực
thị trường)
Trong điều kiện kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ cung
cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào
cung hoặc cầu hàng hóa trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện
thông qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu ngân sách nhà
nước. Bằng nguồn vốn cấp phát của chi tiêu ngân sách nhà nước hàng năm, các quỹ dự
trữ nhà nước về hàng hóa và tài chính được hình thành. Trong trường hợp thị trường có
nhiều biến động, giá cả lên cao hoặc xuống thấp, nhờ lực lượng dự trữ hàng hóa, vật tư

bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và ổn định sản xuất.
Chính phủ cũng có thể sử dụng ngân sách nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi lạm
phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt ngân sách, cắt
giảm các khoản chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, mặt khác
giảm thuế đầu tư, kích thích sản xuất phát triển để tăng cung. Ngoài ra, Chính phủ phát
hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng
góp phần to lớn trong việc làm giảm tốc độ lạm phát trong nền kinh tế quốc dân.
1.2. Nội dung hoạt động của ngân sách nhà nước
1.2.1. Thu ngân sách nhà nước
Thu Ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính những
để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Thu NSNN bao gồm các khoản thu chủ yếu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu từ
hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản
viện trợ của nước ngoài…
Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập cá nhân, doanh nghiệp cho
nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc
không mang tính hoàn trả trực tiếp.
Lệ phí là khoản thu do Nhà nước quy định để phục vụ công việc quản lý hành chính
Nhà nước theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật. Tiền lệ phí thu được dùng để bù đắp
các khoản chi phí phát sinh khi giải quyết công việc của bộ phận quản lý trực tiếp hoặc gián
tiếp. Lệ phí vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về việc thực hiện một số thủ tục
hành chính, vừa mang tính chất động viên đóng góp cho NSNN.
Phí là khoản thu do Nhà nước quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của NSNN mà
nhà nước đã dùng để: đầu tư xây dựng, mua sắm, bảo dưỡng và quản lý tài sản quốc gia; tài
trợ cho tổ chức, cá nhân hoạt động sự nghiệp, hoạt động công cộng như giao thông. Phí là một
khoản thu mang tính bù đắp và bắt buộc khi một cá nhân hay tổ chức hưởng một lợi ích hoặc
được sử dụng một dịch vụ công do Nhà nước cung cấp, vì vậy phí mang tính hoàn trả trực
tiếp.
Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước
• Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của nhà nước vào các cơ sở kinh

tế.
• Thu tiền sử dụng vốn NSNN từ các doanh nghiệp nhà nước.
• Tiền thu hồi vốn nhà nước cấp tại các cơ sở kinh tế (tiền bán cổ phần tại các doanh
nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, bán doanh nghiệp nhà nước)
• Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi) từ các tổ chức, cá nhân trong nước
vay qua tổng cục đầu tư phát triển hoặc qua hệ thống ngân hàng và từ chính phủ nước
ngoài, các tổ chức quốc tế.
Thu từ hoạt động sự nghiệp
• Thu từ bán sản phẩm các đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị sự nghiệp có cơ chế tài chính là
dự toán NSNN nên toàn bộ các khoản thu phải nộp vào NSNN
• Các khoản chênh lệch thu – chi cả các đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu.
Ngoài ra thu NSNN bao gồm các khoản tiền bán cho thuê tài sản Nhà nước, các khoản huy
động đóng góp, viện trợ, thu kết dư ngân sách và các khoản thu khác theo quy định của pháp
luật.
1.2.2. Chi ngân sách nhà nước
Chi Ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước phân bố và sử dụng các quỹ tiền tệ đã
được tập trung vào ngân sách để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn liền với việc thực hiện các
chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội, các khoản chi thường xuyên bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm
hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác.
Chi đầu tư phát triển về :
• Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
• Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của
Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp.
• Chi bổ sung dự trữ nhà nước.
• Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước;
Chi thường xuyên về:
• Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin văn học
nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác.
• Các hoạt động sự nghiệp kinh tế.

• Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
• Hoạt động của các cơ quan nhà nước.
• Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt và hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội.
• Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
• Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài các khoản thực chi còn có các khoản được liệt kê vào chi NSNN là: chi trả nợ
(bao gồm cả gốc và lãi) các khoản tiền do Chính phủ vay; chi cho vay; chi viện trợ của ngân
sách trung ương cho các chính phủ và tổ chức nước ngoài; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
NSNN…
2. Cân đối ngân sách nhà nước
2.1. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối NSNN là quan hệ cân bằng giữa thu và chi của NSNN trong một thời kỳ
(thường là một năm ngân sách). Khái niệm cân đối NSNN xuất phát từ yêu cầu khách quan
đối với phân bổ và điều hòa thu, chi NSNN trong sự vận động của nguồn lực tài chính, cũng là
quá trình kinh tế do Nhà nước vận dụng các biện pháp điều tiết tài chính để tiến hành kiểm
soát và điều hòa sự phân phối nguồn lực tài chính xã hội.
Về bản chất, cân đối NSNN là cân đối giữa nguồn lực tài chính mà nhà nước huy động
và tập trung được vào quỹ NSNN trong một năm, với nguồn lực được phân phối, sử dụng để
thỏa mãn nhu cầu của nhà nước cũng trong năm đó. Theo đó, xét trên góc độ tổng thể, cân đối
NSNN phản ánh mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa và cả tính hài
hòa, hợp lý trong cơ cấu giữa các khoản thu và các khoản chi NSNN, để qua đó thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ
thể. Xét trên phương diện phân cấp quản lý NSNN, cân đối NSNN là cân đối về phân bổ và
chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách, để qua đó các cấp chính quyền thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao.
2.2. Các trạng thái của ngân sách nhà nước
Mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa được biểu hiện qua 3
trạng thái sau:
NSNN cân bằng: nhà nước huy động nguồn thu vừa đủ để trang trải chi tiêu
NSNN thặng dư: thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách. Nhà nước đã huy động nguồn

lực quá mức cần thiết hoặc không xây dựng được chương trình chi tiêu hợp lý tương ứng với
số thu hoặc kinh tế phát triển thịnh vượng làm tăng thu ngân sách ngoài dự toán và nhà nước
có thể chủ động sắp xếp phân bổ thặng dư cho những năm tiếp theo.
NSNN bội chi (thâm hụt): nghĩa là chi NSNN lớn hơn thu NSNN. Trong trường hợp
này, thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi. Nguyên nhân có thể là do nhà nước không
sắp xếp được nhu cầu chi cho phù hợp với khả năng; cơ cấu chi tiêu dùng và đầu tư không hợp
lý gây lãng phí; do tình trạng thất thu ngân sách; nhưng cũng có thể là do nền kinh tế suy
thoái theo chu kỳ hoặc ảnh hưởng bởi thiên tai hay chiến tranh, thu NSNN giảm sút tương đối
so với nhu cầu chi để phục hồi nền kinh tế.
2.3. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Cân đối NSNN phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi NSNN nhằm đạt được
các mục tiêu của chính sách tài khóa. NSNN vừa là công cụ thực hiện chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước. Việc thay đổi trạng thái cân đối thu chi ngân sách tác động nhất
định đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự tính toán thu - chi cân đối NSNN
không phản ảnh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế – xã hội, mà ngược lại về phần mình,
cân đối NSNN có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế
xã hội bằng khả năng quản lý các nguồn lực và phân bổ các nguồn lực có hiệu quả. Như vậy,
vấn đề cốt lõi của cân đối NSNN là đánh giá và khai thác nguồn thu một cách hợp lý; phân bổ
và sử dụng nguồn lực hiệu quả; phần thiếu hụt sẽ bù đắp bằng vay nợ được đặt trong một
chiến lược quản lý nợ công tối ưu.
Về nội dung, cân đối NSNN bao gồm cân đối giữa tổng thu và tổng chi, cân đối giữa
các khoản thu và các khoản chi NSNN, cân đối về phân bổ chuyển giao nguồn lực giữa các
cấp trong hệ thống NSNN, đồng thời phải kiểm soát được tình trạng NSNN để qua đó thực
hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô và trong từng lĩnh vực, địa bàn
Cân đối NSNN mang tính định lượng và tính tiên liệu. Cân đối ngân sách phải được
định lượng cụ thể tổng thu, tổng chi, quy mô so với GPD; chi tiết các khoản mục thu, chi và
phân bổ ngân sách trung ương với ngân sách các cấp địa phương. Cân đối NSNN phải tiên liệu
được khả năng thu, chi NSNN trong ngắn hạn và dài hạn để đảm bảo tính ổn định của chính
sách tài khóa và việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
3. Bội chi ngân sách nhà nước

3.1. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi NSNN (hay còn gọi là thâm hụt NSNN) là tình trạng chi NSNN vượt quá thu
NSNN trong một năm tài khóa, là hiện tượng NSNN không cân đối thể hiện trong sự thiếu hụt
giữa cung và cầu về nguồn lực tài chính của nhà nước.
3.2. Đo lường bội chi ngân sách nhà nước
Về mặt kỹ thuật, NSNN có bội chi hay không, bội chi nhiều hay ít, còn tùy thuộc vào
cách đo lường bội chi NSNN. Ở mỗi nước có thể tồn tại một cách hiểu về bội chi NSNN khác
nhau. Có ba yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đo lường bội chi NSNN: (1) phạm vi tính bội chi
NSNN; (2) việc xác định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN; (3) thời gian ghi nhận thu –
chi NSNN.
(1) Phạm vi tính bội chi ngân sách nhà nước
- Bội chi ngân sách toàn diện
Bội chi ngân sách toàn diện tính trên phạm vi toàn bộ khu vực công. Theo World
Bank, khu vực công bao gồm:
• Chính phủ
• Các cấp chính quyền địa phương
• Ngân hàng trung ương
• Các các tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước (trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước), nguồn
vốn hoạt động của nó do ngân sách nhà nước quyết định và trong trường hợp vỡ nợ
nhà nước phải trả nợ thay cho các tổ chức đó.
Như vậy, khi các thể chế trong khu vực công vỡ nợ, hoặc không vỡ nợ nhưng khi cần
thanh toán trong trường hợp muốn tái cấu trúc lại các thể chế này, thì trách nhiệm thanh toán
cuối cùng thuộc về chính phủ. Và khi đó, khoản thanh toán nợ này nếu thực tế phát sinh trong
năm thì được tính vào chi NSNN của năm thanh toán. Từ đó, bội chi ngân sách toàn diện bao
gồm mức bội chi được xác định cho toàn bộ khu vực công. Đây là thước đo rộng nhất để xác
định mức bội chi.
- Bội chi ngân sách chính phủ
Khác với WB, IMF lại cho rằng để phân biệt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ,
đồng thời làm cơ sở đối chiếu giữa thống kê tài chính tiền tệ với thống kê tài chính chính phủ
thì phạm vi xác định bội chi chỉ nên giới hạn trong khu vực chính phủ. Theo sổ tay Thống kê

Tài chính Chính phủ của IMF, khái niệm chính phủ gồm tất cả các cấp chính quyền mà không
bao gồm hoạt động ngân hàng trung ương, cho dù nó có trực thuộc chính phủ hay không. Tại
mỗi cấp chính quyền, bên cạnh quỹ NSNN còn có các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách
và quỹ hoạt động bảo hiểm xã hội. Các quỹ này được trợ cấp một phần lớn từ NSNN.
Do vậy, bội chi ngân sách chính phủ theo nghĩa rộng là số bội chi của các cấp chính
quyền với các hoạt động với sự hỗ trợ hoặc bao cấp của NSNN CHO tất cả các quỹ nói trên.
Nhưng nếu hiểu theo nghĩa hẹp, bội chi ngân sách chính phủ chỉ bao gồm bội chi của các cấp
chính quyền liên quan đến hoạt động của quỹ ngân sách nhà nước mà thôi.
- Bội chi ngân sách trung ương
Một số quốc gia khi tính bội chi NSNN chỉ tính bội chi liên quan đến hoạt động NSNN
do chính quyền trung ương trực tiếp thực hiện. Đi đôi với quan điểm này là việc không cho
phép ngân sách địa phương bội chi. Cách xác định phạm vi tính bội chi ngân sách hẹp như vậy
là nhằm thiết lập kỷ luật tài chính tổng thể trong điều kiện năng lực quản lý có nhiều hạn chế.
Luật Ngân sách nhà nước Việt Nam năm 2002 hiểu theo nghĩa này (xem khoản 3 điều 8 Luật
NSNN 2002).
(2) Xác định các khoản thu, chi trong cân đối ngân sách nhà nước
- Trên thực tế, tùy thuộc vào mục đích chính trị, mục tiêu của chính sách tài khóa…
mỗi nền kinh tế sẽ có những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Chẳng hạn, khoản vay nợ qua phát hành trái phiếu và viện trợ (nếu có) có nên ghi vào
cân đối NSNN hay không thì câu trả lời đôi khi là khác nhau giữa các quốc gia. Nhật Bản ghi
các khoản này vào số thu NSNN hàng năm, trong khi Mỹ thì đưa các khoản này để xử lý bội
chi NSNN. Ở Việt Nam, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định tính các khoản viện trợ
không hoàn lại vào thu ngân nhưng không tính các khoản vay nợ kể cả trong và ngoài nước.
Việc ghi các khoản này vào số thu NSNN hàng năm để cân đối NSNN nổi lên hai vấn
đề cần xem xét: (i) nếu đưa các khoản này vào cân đối NSNN, thì sẽ làm cho mức bội chi
NSNN trở nên nhỏ hơn. Ở mức độ nào đó, đây cũng là cách để các nhà chính trị vẽ lại bức
tranh cân đối NSNN tốt hơn, qua đó không làm mất đi tín nhiệm đối với cử tri về năng lực
quản lý chính phủ; (ii) tuy vậy, việc đưa khoản này vào cân đối NSNN sẽ làm gia tăng rủi ro
tiềm ẩn đối với cân đối NSNN, tính ổn định của NSNN không cao. Và gánh nặng nợ là mối đe
dọa lớn đến tính ổn định của nền tài chính quốc gia trong dài hạn.

- Ngoài ra, mục đích sử dụng của các báo cáo về bội chi NSNN cũng ảnh hưởng đến
việc quyết định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá sự tích lũy của chính phủ cho nhu
cầu đầu tư phát triển thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách vãng lai. Là chênh lệch của số thu,
chi thường xuyên.
Bội chi ngân sách vãng lai = Chi thường xuyên – Thu thường xuyên
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tình hình ngân sách tổng thể của nhà
nước và tác động của nó đến môi trường kinh tế vĩ mô (tình hình lưu thông tiền tệ, cầu trong
nước và cán cân thanh toán quốc tế) thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách qui ước (bội chi
ngân sách thông thường).
Bội chi ngân sách qui ước = Thu thường xuyên và viện trợ không hoàn lại – tổng chi
(bao gồm cả cho vay thuần)
Trong đó: Cho vay thuần = Số cho vay ra – Số thu hồi nợ gốc
Tuy nhiên, cách tính này chưa cho phép phân tích sự tác động của bội chi NSNN đến
tổng cầu cũng như sự phân bổ nguồn lực và tái phân phối thu nhập trong nền kinh tế. Cùng
một mức bội chi như nhau nhưng nếu cơ cấu thu, chi và nguồn bù đắp bội chi khác nhau thì
tác động hoàn toàn khác nhau.
IMF khuyến cáo rằng khi phân tích ngân sách để lập dự toán thì chỉ nên coi các nguồn
viện trợ, kể cả viện trợ không hoàn lại, là nguồn bù đắp thâm hụt như các khoản vay nợ. Vì
các khoản viện trợ thường không có kế hoạch chắc chắn, không ổn định, nếu lập dự toán chi
ngân sách có tính đến các khoản viện trợ có thể sẽ phải điều chỉnh chi NSNN trong quá trình
thực hiện, gây những tác động tiêu cực đến hoạt động ngân sách.
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tính bền vững tài khóa thì bội chi
ngân sách căn bản sẽ thích hợp.
Bội chi ngân sách căn bản = Bội chi ngân sách qui ước – Chi trả lãi
Với các tính này, nếu chính phủ có các quyết định thu – chi làm giảm bội chi ngân sách căn
bản, thì số chi cho hoạt động của chính phủ trong cung cấp hàng hóa, dịch vụ công sẽ ít đi.
Nếu chính phủ mở rộng các nhu cầu tài chính của mình và làm tăng chi trả lãi thì có nghĩa là
chính phủ phải giảm các cơ hội chi thường xuyên không bắt buộc cũng như chi đầu tư để có
thể cải thiện hệ thống giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng

Trong trường hợp muốn so sánh với quốc gia khác trong bối cảnh mức độ lạm phát của
hai quốc gia là khác nhau, hoặc khắc phục tình trạng bội chi bị đánh giá quá cao do lạm phát
(đặc biệt là đối với những nước có mức lạm phát và nợ công cao) thì bội chi NSNN là bội chi
ngân sách nghiệp vụ. Bởi vì, lạm phát sẽ làm giảm giá trị thực số dư nợ danh nghĩa của khu
vực công, khi chính phủ trả lãi tiền vay thì một phần trong đó mang tính chất hoàn lại tiền gốc
đã bị trượt giá theo năm tháng cho chủ thể cho vay. Khi tính bội chi NSNN nếu phần này
không được loại ra thì mức bội chi thực chất đã bị đánh giá cao hơn mức bội chi thực sự.
Bội chi ngân sách nghiệp vụ = Bội chi ngân sách qui ước – trả lãi do lạm phát = Bội
chi ngân sách căn bản + trả lãi thực
(trả lãi danh nghĩa = trả lãi do lạm phát+ trả lãi thực)
Theo thông lệ quốc tế, thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu vào quỹ NSNN
mà khoản thu đó không kèm theo, không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp. Chi trong
cân đối NSNN là các khoản chi ra từ NSNN được đảm bảo bằng các nguồn thu NSNN trong
cân đối. Điều này cũng có nghĩa là những khoản chi của nhà nước nhưng do các nguồn khác
đảm nhiệm thì không tính vào chi trong cân đối NSNN. Như vậy, theo thông lệ quốc tế, thu
trong cân đối NSNN bao gồm: các khoản thu thuế, phí và các khoản thu khác (kể cả viện trợ
không hoàn lại) mà không bao gồm các khoản vay trong và ngoài nước. Chi trong cân đối
NSNN bao gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, các khoản chi khác, chi trả lãi vay mà
không bao gồm chi trả nợ gốc tiền vay. Chi trả lãi tiền vay cần được xếp vào chi NSNN vì nó
là hệ quả của việc điều hành chính sách NSNN có bội chi và được chính nguồn thu trong cân
đối NSNN đảm bảo.
Ở Việt Nam hiện nay, cách tính bội chi khác với thông lệ quốc tế này ở điểm là Việt
Nam tính vào chi NSNN tất cả các khoản chi trả nợ cả gốc và lãi. Cách tính này cho kết quả
định lượng bội chi cao hơn so với cách tính không bao gồm trả nợ gốc nhưng thuận tiện khi
nhận thấy được số bội chi của một năm chính bằng các khoản vay bù đắp bội chi trong năm
đó.
(3) Xác định thời gian ghi nhận thu, chi ngân sách nhà nước
Việc phân định thời gian ghi nhận thu, chi NSNN trong cân đối hợp lý sẽ giúp cho
chính phủ tổng kết và đánh giá tình hình tài chính của quốc gia, qua đó có biện pháp điều
chỉnh kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công. Trên thực tế,

xác định thời gian ghi nhận thu – chi NSNN tùy thuộc vào quy tắc kế toán chính phủ được áp
dụng là kế toán thực thu - thực chi hay kế toán dồn tích. Và chính qui tắc kế toán được áp
dụng sẽ ảnh hưởng đến kết quả đo lường bội chi NSNN trong từng tài khóa. Với kế toán thực
thu – thực chi, nghiệp vụ kinh tế phát sinh chỉ được ghi chép vào sổ sách kế toán khi thực sự
có phát sinh thu chi tiền tệ. Trong khi đó, với kế toán dồn tích thì bất kỳ nghiệp vụ kinh tế nào
phát sinh cũng phải được ghi nhận đúng với bản chất của vấn đề.
Tóm lại xác định phạm vi, xác định các khoản thu, chi trong cân đối khi đo lường mức
bội chi NSNN và qui tắc kế toán chính phủ nào được sử dụng sẽ phụ thuộc vào:
• Việc xác định vai trò của nhà nước;
• Mục đích chính trị và mục đích sử dụng báo cáo;
• Mục tiêu của chính sách tài khóa;
• Năng lực quản lý của các cấp chính quyền;
• Bối cảnh kinh tế – xã hội.
3.3. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
3.3.1. Các nguyên nhân khách quan:
Do kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ. Kinh tế suy thoái thì sẽ làm cho nguồn thu
NSNN sút giảm, nhu cầu chi tiêu gia tăng (trợ cấp xã hội, những khoản chi để phục hồi nền
kinh tế), kết quả NSNN có thể bị bội chi.
Thiên tai, tình hình bất ổn của an ninh thế giới. Tình hình bất ổn của an ninh thế giới
và diễn biến phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng nhu cầu chi cho quốc phòng và an ninh trật
tự xã hội, gia tăng nhu cầu chi NSNN để khắc phục hậu quả của thiên tai.
3.3.2. Các nguyên nhân chủ quan:
Do quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý. Quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý
được thể hiện qua việc đánh giá và khai thác nguồn thu chưa tốt; phân bổ và sử dụng NSNN
còn nhiều bất cập, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính nhà nước; phân cấp quản lý
NSNN chưa khuyến khích địa phương nỗ lực trong khai thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu
hiệu quả. Kết quả là thu NSNN không đủ để trang trải nhu cầu chi tiêu.
Do nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ của chính sách tài khóa để
kích cầu, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
Do cách đo lường bội chi.

3.4. Tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế vĩ mô
3.4.1. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế
Xuất phát từ đẳng thức kinh tế xác định tổng sản phẩm quốc nội
GDP = C + I + G + NX
Trong đó GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng tư nhân, I là tổng đầu tư, G là
chi tiêu chính phủ, NX là xuất khẩu ròng
Đưa thêm biến số thuế T vào đằng thức ta có:
(GDP – C – T) + (T – G) = I
S = (GDP – C – T)
S + (T – G) = I
Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) là tiết kiệm chính phủ, cũng chính là chênh lệch
giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức NSNN cân bằng, trường hợp
(T – G) > 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T – G) < 0 NSNN bội chi. Trong bối cảnh NSNN
bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội chi bằng cách vay trong nước hoặc nước ngoài.
Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư nhân giảm, tổng đầu tư giảm; để duy tri được mức tổng
đầu tư chính phủ phải lựa chọn phương án đi vay nước ngoài. Mỗi khi chính phủ chi tiêu quá
một đồng vượt số thu ngân sách, buộc phải tài trợ bằng cách tăng nợ công một đồng.
3.4.2. Ảnh hưởng lạm phát
Về cơ bản, hầu hết chính phủ các nước đều dùng các biện pháp sau để khắc phục bội
chi NSNN: vay trong nước, vay nước ngoài hoặc phát hành tiền. Tùy từng điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể mà các nguồn bù đắp bội chi được sử dụng riêng rẽ hay kết hợp. Từ đó cũng gây
ra tác động lên nền kinh tế khác nhau.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng cách phát hành trái phiếu
(kể cả phát hành trong nước và phát hành ra nước ngoài), thi tất yếu chính phủ phải trả tiền nợ
gốc và lãi trái phiếu trong tương lai đồng thời gây áp lực lên xã hội bằng việc tăng thuế. Tuy
nhiên bằng cách này, bội chi NSNN sẽ không gây lạm phát và đặc biệt trong trường hợp bội
chi được tài trợ cho các dự án đầu tư sinh lợi thì nó lại là động lực cho sự phát triển của nên
kinh tế trong dài hạn.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng việc phát hành tiền, hành
động này ngay lập tức làm cho lương tiền cung ứng trong lưu thông tăng. Cung tiền tăng là

một yếu tố quan trọng làm tăng tổng cầu. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế tăng cung tiền có
tác dụng kích thích nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư tăng tổng sản phẩm tiến tới mức tiềm năng,
ảnh hưởng lạm phát là tối thiếu. Tuy nhiên duy trì bội chi kéo dài trong thời kỳ kinh tế tăng
trường phát hành tiền sẽ gây ra lạm phát cao, rất nguy hại.
3.4.3. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế
Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu dùng hay
đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận bội chi để tài trọ cho
các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong dài hạn, thì chính lợi tức từ dự án lại tạo ra
và làm tăng nguồn thu trong dài hạn cho ngân sách nhà nước, giúp NSNN trả được gốc và lãi
cho các khoản vay tài trợ bội chi trong quá khứ. Trường hợp bội chi NSNN được sử dụng cho
mục đích tiêu dùng tức thời thì phần lớn ảnh hưởng của nó chỉ tác động đến tổng cầu trong
ngắn hạn (tại thời điểm bội chi xảy ra), và trong dài hạn nó không tai ra một nguồn thu tiềm
năng cho ngân sách mà chính nó làm nặng nề hơn khoản nợ công trong tương lai.
3.4.4. Thâm hụt cán cân thương mại
Bù đắp bội chi NSNN bằng các tăng vay nợ góp phần làm tăng lãi suât, sẽ ảnh hưởng
bất lợi đến cán cân thanh toán thương mại quốc tế. Lãi suất thị trường của nước này tăng lên
cao so với các đồng tiền các nước khác trên thế giới thì người nước ngoài sẽ tìm kiếm đồng
nội tệ của nước có bội chi để mua các chứng khoán chính phủ và các tài sản tài chính khác.
Dẫn đến tình trạng nhập siêu ở nước có ngân sách bội chi lớn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRONG BỐI CẢNH PHỤC HỒI NỀN KINH TÊ
1. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam
1.1. Về kinh tế
Có thể nói, nhờ các chính sách kích thích kinh tế của Chinh phủ, kinh tế Việt Nam đã
ngăn chặn được đà suy giảm và đang duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý. Tính chung cả năm
2009, tăng trưởng GDP Việt Nam đạt 5,32%. Mặc dù mức tăng trưởng này thấp hơn khá nhiều
so với các năm trước song trong điều kiện khủng hoảng kinh tế thế giới thì đây vẫn được đánh
giá là mức tăng trưởng tốt và thuộc loại tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á.
Biểu đồ 1

Vể cơ cấu kinh tế, từ năm 2000 đến nay, tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng đã
tăng từ 35,4% lên 41,7%, tỷ trọng khu vực nông, lâm thủy sản giảm từ 23,3% xuống 17%.
Điều này phù hợp với định hướng phát triển Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp
vào năm 2020.
Biểu đồ 2
Về kiểm soát lạm phát, lạm phát được giữ ở mức thấp trong năm 2009. Tính
chung cả năm, lạm phát trung bình ở mức 6.88%, hoàn thành mục tiêu kiềm chế lạm
phát dưới 7% của Chính phủ. Đây là một cố gắng vượt bậc của Việt Nam trong điều
hành kinh tế vĩ mô theo hướng tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, trong năm 2010, kiềm
chế lạm phát sẽ khó khăn hơn nhiều bởi nhiều yếu tố như sự tăng giá của các mặt hàng
nguyên liệu, nhiên liệu trên thế giới, độ trễ của chính sách tiền tệ nới lỏng trong năm
2009, cùng với đó là nhu cầu chi tiêu của Chính Phủ và nhu cầu mở rộng sản xuất kinh
doanh hậu khủng hoảng. Do đó, lạm phát đã trở thành một trong những mối quan ngại
lớn nhất đối với kinh tế Việt Nam trong năm 2010. Thông điệp đầu năm 2010 của Thủ
tướng chính phủ đã khẳng định mục tiêu ổn định vĩ mô, phát triển bền vững được ưu
tiên hàng đầu. Với quyết sách đó, lạm phát sẽ được kiềm chế ở mức chấp nhận được để
đảm bảo tăng trưởng bền vững. Nhiều khả năng, lạm phát trong năm 2010 sẽ được giữ
ở mức dưới 10%.
Thị trường tài chính Việt Nam đang từng bước được hoàn thiện và phát triển, đã có
đóng góp nhất định trong việc điều tiết cung cầu vốn và cung cấp các phương tiện thanh toán
cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay thị trường trài chính vẫn còn nhỏ bé, hoạt động yếu kém,
thông tin chưa minh bạch, vẫn chưa tạo được sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phân thị
trường. Điều đó phần nào làm giảm đi tính hiệu quả trong việc thực thi chính sách tài chính –
tiền tệ, hạn chế khả năng giúp Chính phủ có thể linh hoạt trong thực thi kế hoạch NSNN.
1.2. Về xã hội
GDP đầu người được cải thiện qua các năm: 639 USD/người năm 2005, 724
USD/người năm 2006, 835 USD/người năm 2007 và đến năm 2009 ước tính đạt 1066
USD/người. Mặc dù những con số trên còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực, song đã
cho thấy quá trình chuyển biến tích cực trong việc gia tăng thu nhập của người dân. Bên cạnh
đó, số hộ giàu tăng lên đồng thời tỷ lệ hộ nghèo cũng giảm xuống đáng kể. Việt Nam được

quốc tế đánh giá cao thành công trong việc xóa đói giảm nghèo. Nhiều chương trình, chính
sách đầu tư phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội từ NSNN được thực hiện hiệu quả, góp
phần nâng cao đời sống vật chất của nhân dân.
Tuy nhiên, với quy mô dân số hiện tại, trong những năm tới, dân số Việt Nam mỗi năm
tăng khoảng hơn 1 triệu người, đòi hỏi Nhà nước cần quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội
như giải quyết việc làm, giáo dục, y tế, an ninh trật tự xã hội. Mặt khác, cùng với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, khoảng cách thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các
vùng miền và chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng. Đây cũng là vấn đề xã hội cần giải
quyết, đặt ra yêu cầu Nhà nước phải phân phối thu nhập trong các tầng lớp dân cư, đảm bảo
phát triển hài hòa giữa nông thôn và thành thị, các vùng miền, thực hiện công bằng xã hội.
Tóm lại, mặc dù tình hình kinh tế xã hội vẫn tồn tại nhiều khó khăn và yếu kém, nhưng
đặt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn
trong ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tạo
điều kiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền
vững của sự phát triển trong những năm tới.
2. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước trong bối cảnh phục hồi kinh tế
2.1. Thực trạng thu ngân sách
2.1.1. Hoạt động thu ngân sách trong những năm gần đây
Trong năm 2009, mặc dù bị ảnh hưởng trong những tháng đầu năm do thực hiện miễn,
giảm, giãn thuế và giá dầu thô trên thế giới giảm nhưng những tháng cuối năm nhờ sản xuất
kinh doanh trong nước phát triển, công tác hành thu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Theo tờ trình của Chính phủ, thu ngân sách Nhà nước năm 2009 đạt 442.340 tỷ đồng, vượt
13,4% (52.440 tỷ đồng) so với dự toán, tăng thêm 51.690 tỷ đồng so với báo cáo Quốc hội tại
Kỳ họp thứ 6. Trong đó, thu nội địa tăng 16hem 30.006 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất – nhập
khẩu tăng 16hem 18.664 tỷ đồng… Như vậy, chỉ trong vòng hơn 2 tháng tính từ thời điểm báo
cáo Quốc hội đến hết năm tài chính, chênh lệch giữa số liệu ước thực hiện và số liệu thực hiện
quá lớn, tới mức 51.690 tỷ đồng, tương đương gần 3% GDP, gần bằng một nửa số bội chi
ngân sách của năm 2009.
Theo như ước tính của Tổng cục Thống kê từ đầu năm đến 15/12/2009, so với dự toán
năm, các khoản thu nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ

hoạt động XNK bằng 101,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước bằng
106,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 88,8%; thu
thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 95,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng
87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%.
Công tác thu ngân sách trong những năm gần đây:
Biểu đồ 3
Tính ra, trong giai đoạn 2005-2009, tổng số thu NSNN tăng khá về con số tuyệt đối,
tốc độ tăng trung bình là 14,15% mỗi năm.
Tỷ lệ động viên GDP vào NSNN khá ổn định qua các năm, trung bình đạt 28,64%
GDP trong giai đoạn 2005 - 2008:
Biểu đồ 4
Tốc độ tăng thu nội địa tăng qua các năm với tốc độ khá lớn, trong giai đoạn 2004-
2007 trung bình đạt 23,66% thể hiện thu NSNN ngày càng tận dụng hơn nữa sức mạnh nội tại
của nền kinh tế.
Biểu đồ 5
2.1.2. Những bất cập trong khai thác nguồn thu
Trốn thuế và lậu thuế đang là vấn đề nan giải hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thất
thu thuế còn do có nhiều khoản thu chưa được khai thác tương ứng với tiềm năng. Chẳng hạn,
thuế thu nhập đối với cá nhân có thu nhập cao tuy tăng dần nhưng chỉ đóng góp một tỷ trọng
nhỏ trong thu nội địa (năm 2005: 3,5%, năm 2006: 3,6% và năm 2007: 4,05%, ƯTH năm
2008: 4,86%, DT năm 2009: 6,24%) trong khi GDP và thu nhập bình quân đầu người trong
giai đoạn này tăng trưởng khá. Rõ ràng vai trò điều tiết thu nhập mà Nhà nước hướng tới khi
xây dựng sắc thuế này là chưa thực hiện được. Đối với các khoản thuế GTGT và thuế TNDN
thực tế sự “ăn chia” tiền thuế của Nhà nước giữa cán bộ quản lý thuế với doanh nghiệp là rất
phổ biến.
Việc quản lý công sản, đặc biệt là tài nguyên đất thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập,
điều này đã làm hạn chế việc khai thác nguồn lực tài chính phục vụ đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, phục vụ chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo, tạo áp lực cho cân đối NSNN.
2.2. Thực trạng chi ngân sách
2.2.1. Kết quả chi trong những năm gần đây

Trong năm 2009, tổng chi NSNN từ đầu năm đến 15/12/2009, Tổng cục Thông kê ước
tính bằng 472.630 nghìn tỷ đồng đạt 96,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng
95,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 93,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 99,6%; chi trả nợ và viện
trợ bằng 102,7%.
Sự gia tăng đầu tư của Chính Phủ trong năm 2009 chủ yếu tập trung cho ngành giao
thông vận tải, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư cho y tế. Tính riêng nguồn vốn đầu
tư từ ngân sách Nhà nước cho ngành giao thông đạt hơn 30 nghìn tỷ đồng năm 2009, và dự
kiến trong năm 2010 tiếp tục giải ngân đầu tư với lượng vốn lên tới 70 nghìn tỷ đồng, chiếm
khoảng gần 10% GDP.
2.2.2. Kỷ luật tài khóa và phân bổ nguồn lực
Trên cơ sở thu NSNN hàng năm tăng trưởng khá nên từ năm 2005 đến năm 2008, tổng
chi NSNN hàng năm tăng khoảng 22% , một mức tăng khá cao, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc cơ cấu lại các khoản chi để có thể phân bổ hợp lý hơn giữa các loại hình chi tiêu, giữa các
ngành, các lĩnh vực. So sánh với mức gia tăng nguồn thu nội địa 23,66% trong giai đoạn 2004-
2007, thì tốc độ gia tăng của chi NSNN hàng năm vẫn nhỏ hơn. Như vậy, nguồn lực trong
nước đã được tận dụng tốt hơn, thể hiện chất lượng công tác điều hành NSNN ngày càng đạt
hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chi NSNN tăng với tốc độ cao (năm
2006: 17,27%; năm 2007: 23,61%, năm 2008: 24,55%)
Chi NSNN qua các năm (đơn vị: nghìn tỷ)
2004 2005 2006 2007 ƯTH
2008
DT 2009 DT 2010
Chi NSNN 214176 262697 308058 380785 474280 491300 582200
% Tốc độ tăng chi
NSNN
18,21 22,65 17,27 23,61 24,55
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Bảng 1
Quy mô chi ngân sách của Việt Nam hiện nay vào hơn 30% GDP và gần gấp đôi so

với con số tương ứng của Thái Lan, Singapore và Philippines. Đây thực sự là một thách thức
lớn đối với cân bằng ngân sách trong những năm tới đối với Việt Nam.
Chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên của NSNN
2005 2006 2007 ƯTH 2008 BQ
% Tốc độ tăng chi TX 22,55 22,31 26,50 28,25 24,90
% Tốc độ tăng ĐTPT 19,79 11,54 18,07 12,94 15,59
% Chi TX/Tổng chi 50,37 52,54 53,77 57,06 53,44
% Chi ĐTPT/Tổng chi 30,15 28,68 28,08 25,60 28,13
% Chi ĐTPT/GDP 9,63 9,23 9,40 8,24 9,13
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Bảng 2
Chi thường xuyên tăng với tốc độ lớn trong những năm gần đây (từ mức 22,31% năm
2006 lên mức 26,5% và 28,25 các năm 2007 và 2008). Tốc độ tăng chi đầu tư phát triển khá
khác nhau giữa các năm (năm 2005 là 19,79% trong khi năm 2006 chỉ ở mức 11,54%). Có thể
thấy, tốc độ tăng chi thường xuyên lớn hơn tốc độ tăng chi đầu tư phát triển.
Vể cơ cấu chi NSNN, chi thường xuyên chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng chi
NSNN, từ 50,37% năm 2005 lên mức 53,77% năm 2007. Theo dự toán năm 2010, tỷ lệ này
lên mức 57,64%, một mức khá cao. Do đó, trong thời gian tới, chi thường xuyên đòi hỏi phải
được điều hành ở mức chi ổn định và vừa phải. Trong khi đó, tỷ lệ chi ĐTPT/Tổng chi có xu
hướng giảm dần do những năm gần đây, nhu cầu chi thường xuyên của NSNN gia tăng, cùng
với đó sự tham gia tốt hơn của nguồn vốn đầu tư từ khu vực nhà nước và dân cư trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ ĐTPT/GDP tương đối ổn định, trung bình đạt 9,13%, ước tính
năm 2008 đạt 8,24%. Qua các năm, tỷ lệ này lớn hơn tỷ lệ bội chi NSNN/GDP. Điều này
chứng tỏ nguyên tắc cân đối NSNN được quy định trong điều 8 Luật NSNN được tôn trọng
triệt để: “trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới
cân bằng thu, chi ngân sách”.
2.2.3. Những thành tựu đạt được
Kỷ luật tài khóa tổng thể được tôn trọng, phân bổ và sử dụng nguồn lực đã hợp lý hơn.
NSNN tập trung vào những khoản chi cơ bản làm nền tảng phát triển kinh tế – xã hội, bố trí
cho các các công trình dự án trọng điểm quốc gia, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển sự

nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa xã hội. Đã kịp thời bổ sung vốn cho nền kinh tế, chủ
động thực hiện các biện pháp kích cầu và tiêu dùng, khuyến khích sản xuất kinh doanh và xuất
khẩu. NSNN đã được phân bố theo hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát
huy mọi tiềm năng kinh tế của từng địa phương, từng vùng, đưa kinh tế chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng các ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao; chú trọng đầu tư cơ sở
hạ tầng cho nông thôn, các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dan tộc ít người.
Chi đầu tư phát triển tập trung cải tạo và xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng các công
trình kinh tế mũi nhọn, trọng yếu, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, khuyến khích
đầu tư trong nước và nước ngoài. Chi thường xuyên đảm bảo cho hoạt động quản lý của nhà
nước, củng cố quốc phòng an ninh, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, nhất là
chú trọng cho vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn. Thực hiện việc kiểm soát chi chặt
chẽ nhằm từng bước nâng cao kỷ cương và hiệu quả các khoản chi NSNN.
Đặc biệt, NSNN đã chú trọng đầu tư cho con người, góp phần thực hiện binh đẳng và
công bằng xã hội. Chi ngân sách cho giáo dục là một trong những khoản mục chiếm tỷ lệ lớn
trong tổng chi (năm 2005: 10,89%, năm 2006: 12,12%, năm 2007: 13,46%) và có tốc độ tăng
nhanh nhất trong những năm gần đây (theo nguồn của Tổng cục thống kê: năm 2006 là
30,48%, năm 2007 là 44,04%), khẳng định chủ trương của Nhà nước coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu; đảm bảo chi cho phát triển xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo thông qua việc
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, nước sạch vệ sinh môi
trường, chương trình Biển Đông hải đảo… Đồng thời, để hỗ trợ nhiệm vụ chi ngân sách khá
nặng nề, sức ép tăng chi rất lớn, công tác quản lý tài chính đã mở rộng chủ trương xã hội hóa
đầu tư, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị sự
nghiệp, gắn quản lý kinh phí với quản lý con người, thúc đẩy tinh giản biên chế, đẩy mạnh
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
2.2.4. Những mặt còn tồn tại
Trong điều hành chi NSNN phải đảm bảo chi đúng, chi đầy đủ và chi kịp thời cho
những khoản cần chi, nhưng ở đây xuất hiện vấn đề: Để đảm bảo chi đúng thì việc rà soát,
đánh giá, phân loại đúng các khoản chi, xác định các khoản chi thuộc phạm vi chức năng
NSNN phải đảm bảo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, 22ang túng. Để có giới hạn chi đủ cần có
định mức tiêu chuẩn phù hợp, nhưng hiện nay hệ thống này của ta còn rất lạc hậu, không

thống nhất giữa nhiều ngành nhiều cấp. Chú trọng cho chi đầu tư phát triển là cần thiết, song,
do cơ chế quản lý ngân sách theo đầu vào nên chưa tạo được sự phối hợp cân đối giữa chi đầu
tư phát triển và chi thường xuyên, dẫn đến tình trạng thiếu linh hoạt trong sự điều phối nguồn
lực trong nội bộ các ngành: có ngành chi đầu tư phát triển quá cao so với những khoản chi
thường xuyên cần thiết; ngược lại đối với một số ngành khác. Chính sự thiếu phối hợp này đưa
đến hiệu quả chi thấp. Chẳng hạn như, sự bất cập và chậm trễ trong hoạt động bảo dưỡng, cải
tạo hệ thống thủy lợi và thoát nước đã làm xói mòn hiệu quả của nguồn vốn phân bổ trong lĩnh
vực nông nghiệp. Xu hướng phổ biến hiện nay là chú trọng quá mức tới việc xây mới trong
khi không quan tâm đúng mức tới việc bảo dưỡng và duy trì hệ thống tưới tiêu hiện có; trong
khi đó, hoạt động bảo dưỡng và quản lý hệ thống thủy lợi và tưới tiêu không chỉ tạo ra nhiều
việc làm mà còn giúp nâng cao năng suất nông nghiệp.
Về chi lương, hiện nay quỹ lương của ta chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi thường
xuyên nhưng mức lương của cán bộ, công nhân viên rất thấp, đó là một bất hợp lý. Việc cải
cách tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là cải cách về tổ chức các cơ quan công
quyền, cải cách về quy chế công chức, tinh giản biên chế nhằm trả lương đúng với yêu cầu của
công vụ, cho những người đủ khả năng đáp ứng yêu cầu công vụ của nhà nước.
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng khi đánh giá tình hình phân bổ và sử dụng
nguồn lực tài chính Nhà nước, đó là: chi NSNN vẫn chưa dứt bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp,
không tính đến hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực tài chính Nhà nước. Tình trạng cấp vốn lưu
động, gia hạn nợ đọng thuế hoặc khoanh nợ, đảo nợ, giảm nợ… cho các DNNN làm ăn thua lỗ
vẫn tiếp tục diễn ra. Điều này, về lâu dài không những có hại cho chính doanh nghiệp mà còn
tạo nên gánh nặng cho NSNN, vì những doanh nghiệp yếu kém thường thiếu sức cạnh tranh,
không giải quyết được nợ nần dây dưa gây hại đến cả hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các
hoạt động đầu tư bằng vốn NSNN không thật sự được công khai hóa, sự phân định trách
nhiệm thiếu minh bạch, thiếu sự giám sát toàn diện từ công chúng, năng lực quản lý của các
bộ ngành yếu kém không theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế. Kết quả là tình trạng
thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB của NSNN diễn ra rất phổ biến. Và, một khi khoản chi
không được sử dụng hiệu quả thì mục đích của việc vay nợ và khía cạnh tích cực của bội chi
ngân sách sẽ không được phát huy. Tác động của việc này là làm gia tăng các nghĩa vụ nợ
tương 23ang23ho chính phủ, và do đó, gia tăng cả bội chi NSNN trong tương lai.

2.3. Phân cấp tài chính giữa các cấp ngân sách nhà nước
Theo luật NSNN 2002, nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể của mỗi cấp chính quyền đã
được phân định khá rõ 23ang theo nguyên tắc: ngân sách Trung ương giữ các nguồn thu quan
trọng và đảm nhận những nhiệm vụ chi chủ yếu; theo thời gian, ngân sách địa phương được
mở rộng quyền tự chủ trong khai thác các nguồn thu tại chỗ để thực hiện các khoản chi quản
lý hành chính, cung cấp dịch vụ công phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của địa
phương. Kết quả là NSĐP từ chỗ chiếm trung bình 45% tổng chi NSNN giai đoạn 1997-2002
lên mức trung bình 52.4% giai đoạn 2003-2007. Điều này tạo nền tảng cơ bản cho địa phương
chủ động nhằm cân đối ngân sách tích cực hơn.
Biểu đồ 7
Phân cấp chi Ngân sách trung ương và địa phương qua các năm:
2003 2004 2005 2006 2007
NSTW 95,189 110,955 136056 161353 203344
NSĐP 85,994 103,221 126641 146705 177441
Tổng chi 181,183 214,176 262697 308058 380785
% NSTW 52,54% 51,81% 51,79% 52,38% 53,40%
% NS ĐP 47,46% 48,19% 48,21% 47,62% 46,60%
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Bảng 3
Để thực hiện nhiệm vụ chi được phân cấp, cơ cấu nguồn thu phân định được chia thành
3 nhóm: các khoản thu 100% của NSTW; các khoản thu 100% của NSĐP; các khoản thu
phân chia theo tỷ lệ % giữa NSTW và NSĐP.
Tỷ lệ % phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương với ngân sách cấp tỉnh do
Chính phủ quyết định. Tỷ lệ này được áp dụng chung đối với tất cả các khoản thu được phân
chia và được xác định riêng cho từng tỉnh theo công thức:
Tỷ lệ phần trăm (%) = (A – B – C)/D
Trong đó, A: tổng số chi ngân sách địa phương; B: tổng số thu địa phương được hưởng
100%; C: phần mà địa phương được hưởng từ tổng số thu phân chia giữa Trung ương và địa
phương; D: tổng số các khoản thu được phân chia giữa NSTW với ngân sách tỉnh. Sau khi tỷ
lệ phân chia được xác định, sẽ được giữ ổn định từ 3 – 5 năm. Trường hợp tỷ lệ này lớn hơn

100% thì địa phương sẽ được hưởng toàn bộ số thu phân chia theo tỷ lệ, phần còn thiếu sẽ
được cấp bổ sung. Trường hợp tỷ lệ này là 100% nghĩa là tỉnh tự cân đối. Trường hợp tỷ lệ
này nhỏ hơn 100% thì NSTW sẽ điều tiết bớt nguồn thu phát sinh trên địa bàn địa phương này.
Như vậy, ngân sách trung ương phải thực hiện nhiệm vụ cân đối cho các ngân sách cấp
tỉnh, hay thực tế là phải bao cấp cho các tỉnh không thể tự đảm bảo được chi ngân sách với số
chi NSĐP lớn hơn tổng số thu địa phương được hưởng 100% và số thu phân chia. Theo số liệu
thống kê, trong giai đoạn 1996 - 2003 cả nước có trên 60 tỉnh – thành nhưng chỉ có 5 tỉnh –
thành tự cân đối được ngân sách, trên 55 tỉnh thành còn lại trung ương phải cấp bổ sung. Sang
giai đoạn từ năm 2004 đến nay, cùng với chính sách đẩy mạnh phi tập trung hóa trong quản lý
NSNN, địa phương được mở rộng quyền tự chủ hơn, một số loại thuế trước đây thuộc khoản
thu 100% của NSTW, nay được chuyển thành khoản thu phân chia theo tỷ lệ giữa NSTW và
NSĐP, như: toàn bộ thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hóa, dịch vụ trong nước. Hiện nay chỉ có 11
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có tỉ lệ phân chia nhỏ hơn 100%, tức là không phải nhận
trợ cấp từ NSTW, bao gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Khánh
Hòa, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ.
2.4. Bội chi ngân sách nhà nước
2.4.1. Mức độ bội chi ngân sách trong thời gian qua
Năm 2009, nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp
lý, bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã sử dụng gói kích cầu khoảng 145.000 tỷ đồng (tương
đương 8 tỷ USD). Quốc hội đã đồng ý tăng bội chi từ 4,82% GDP lên dưới 6,9%. Ước bội chi
ngân sách Nhà nước năm 2009 bằng 6,9% GDP, từ mức 87.300 tỷ đồng lên 115.900 tỷ đồng,
tăng 28.600 tỷ đồng so với dự toán. Số tăng bội chi ngân sách Nhà nước được sử dụng toàn bộ
cho đầu tư phát triển theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, tập trung để thu hồi
ứng chi của ngân sách Trung ương cho các công trình, dự án kích thích kinh tế đã được Quốc
hội cho phép thực hiện.
Biểu đồ 8

×