Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 113 trang )






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN THỊ PHƯƠNG HIỀN




TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2007
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2007.




Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC



Trang


mở đầu
1

Chương 1: khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
5
1.1.
Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự 1999
5
1.1.1.
Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
5
1.1.2.
Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
6
1.1.3.
Chủ thể
18
1.1.4.
Mặt chủ quan
19
1.2.
Lịch sử lập pháp hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ
1945 đến nay
21
1.2.1.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ

luật hình sự năm 1985 có hiệu lực pháp luật
21
1.2.2.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật
hình sự việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay
27
1.3.
Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm
khác
33
1.3.1.
Phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140
Bộ luật hình sự 1999)
33
1.3.2.
Phân biệt với tội lừa dối khách hàng (Điều 162 Bộ luật hình
sự 1999)
35
1.3.3.
Phân biệt với tội đánh bạc (Điều 248 Bộ luật hình sự 1999)
36

Chương 2: các hình thức trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự
trong những trường hợp đặc biệt đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
39
2.1.
Các hình thức trách nhiệm hình sự đối tội lừa đảo chiếm đoạt
39



tài sản
2.1.1.
Hình phạt
39
2.1.2.
Các biện pháp tư pháp
48
2.1.3.
Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
49
2.2.
Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
những trường hợp đặc biệt
50
2.2.1.
Chuẩn bị phạm tội
50
2.2.2.
Phạm tội chưa đạt
51
2.2.3.
Đồng phạm
52

Chương 3: Thực trạng và các biện pháp phòng chống tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
55
3.1.
Khái quát tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta

những năm gần đây
55
3.1.1.
Thực trạng tình hình tội phạm
55
3.1.2.
Diễn biến, tính chất của tình hình tội phạm
57
3.2.
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
65
3.2.1.
Những nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội
66
3.2.2.
Những nguyên nhân và điều kiện về tổ chức quản lí nhà nước,
quản lý xã hội và quản lí con người
67
3.2.3.
Những nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ hoạt động của
cơ quan bảo vệ pháp luật
69
3.2.4.
Những nguyên nhân xuất phát từ việc tuyên truyền và giáo
dục pháp luật
73
3.2.5.
Dự báo tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
75
3.3.

Một số biện pháp đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong giai đoạn hiện nay
77
3.3.1.
Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động đấu tranh phòng chống
tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
77
3.3.2.
Các biện pháp đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
85

kết luận
101



danh mục tài liệu tham khảo
102


1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Một trong những quyền quan trọng luôn được pháp luật nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng bảo vệ tránh sự xâm hại của các hành vi phạm tội
là quyền sở hữu. Trong thời gian qua các tội phạm xâm phạm sở hữu diễn ra
rất phức tạp, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản nhà nước, tài sản của công
dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là

một trong những tội xâm phạm sở hữu diễn biến theo chiều hướng gia tăng,
đây là loại tội phạm xảy ra thường xuyên, với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo
quyệt, từ chủ thể thực hiện tội phạm đến các đối tượng bị xâm hại đều rất đa
dạng. Trong giai đoạn nền kinh tế của đất nước đang phát triển theo cơ chế thị
trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý và chính sách pháp
luật không phải lúc nào cũng ngay lập tức phù hợp với thực trạng nền kinh tế,
do đó tình hình tội phạm có nhiều biến đổi, đặc biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản đã được thực hiện với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, chiếm đoạt tài
sản có giá trị rất lớn, có những vụ án chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng của nhà
nước, có nhiều trường hợp lợi dụng việc giao kết hợp đồng đầu tư, hợp đồng
vay vốn hoặc sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến về vi tính, tin học để làm
thẻ tín dụng giả, tìm kiếm mật mã số tài khoản của người khác… nhằm lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Bộ luật hình sự do Nhà nước ban hành quy định các
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định các chế tài tương
ứng nhằm trừng trị và giáo dục đối với người phạm tội cũng như răn đe phòng
ngừa chung đối với toàn xã hội nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ
lợi ích của nhà nước, lợi ích của mọi tổ chức và lợi ích của công dân, góp
phần duy trì trật tự trị an xã hội. Tuy nhiên trong từng điều luật cụ thể các nhà
làm luật chỉ có thể quy định các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu
thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra với muôn hình muôn
vẻ, vô cùng đa dạng và phức tạp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, chỉ

2
được quy định trong Bộ luật hình sự bởi những dấu hiệu đặc trưng nhất. Mặt
khác, về phương diện lập pháp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam cũng đã qua nhiều lần sửa đổi, gần đây nhất được quy định
thống nhất tại Điều 139 Bộ luật hình sự 1999, điều luật này là sự hội nhập các
điều 134, 134a, 157 Bộ luật hình sự 1985 quy định về các tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của công dân, lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và lợi
dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Do đó

việc nghiên cứu làm sáng rõ nội dung pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, thực trạng và các biện pháp đấu tranh
phòng ngừa thích hợp là điều rất quan trọng, nhằm góp phần áp dụng pháp luật
một cách đúng đắn khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi và
tiến tới loại bỏ tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng
trong xã hội hiện nay. Chính vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản - những vấn đề lý luận và thực tiễn" để viết luận văn tốt
nghiệp cao học luật.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, nhiều tác giả đi sâu phân tích tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc
độ lý luận hình sự và tội phạm học như Trịnh Hồng Dương, Vũ Thiện Kim,
Võ Khánh Vinh… nhưng do tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn này đã có
nhiều tay đổi, các công trình nghiên cứu trước kia đã không còn phù hợp, do đó
cần phải đi sâu nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn hiện
nay, làm rõ các dấu hiệu pháp lý cũng như nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tìm ra các biện pháp hữu hiệu để đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
2. Mục đích, phạm vi, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đánh
giá thực trạng, nguyên nhân và điều kiện phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

3
ở nước ta trong thời gian qua, từ đó đề ra một số biện pháp góp phần nâng cao
hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả của luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Bộ
luật hình sự 1999.
- Nghiên cứu quá trình lập pháp hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản.
- Phân tích các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
- Đánh giá thực trạng về tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
những năm gần đây. Đánh giá kết quả hoạt động trong việc phát hiện điều tra,
truy tố và xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Tìm ra những thủ đoạn phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hậu quả
của tội phạm đó. Làm rõ những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động của cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội là nguyên nhân và điều kiện phạm tội nói trên.
- Đề xuất những biện pháp đấu tranh, phòng chống tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Kết quả nghiên cứu làm sáng rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực trạng, nguyên nhân và điều kiện phạm tội
từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quá trình áp dụng pháp luật hình sự, tìm ra
những giải pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng chống triệt để đối với loại tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của công dân và của mọi
tổ chức xã hội, xây dựng một xã hội an toàn, lành mạnh mang tính nhân văn cao.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong luận văn, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được nghiên cứu dưới góc
độ hình sự và tội phạm học trong một số năm gần đây (cụ thể: từ năm 1998
đến năm 2006).

4
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả dựa trên
các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có
lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói riêng.
Đề tài vừa mang tính lí luận vừa mang tính thực tiễn góp phần tích

cực làm phong phú thêm lí luận và cơ sở thực tiễn trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta hiện nay.
Khi viết luận văn tác giả có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích so sánh, tổng hợp,
phương pháp logic, phương pháp lịch sử và phương pháp hệ thống.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản.
Chương 2: Các hình thức trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự
trong những trường hợp đặc biệt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chương 3: Thực trạng và các biện pháp phòng chống tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.




5
Chương 1
KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ
CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Bộ luật hình sự 1999 quy định 13 điều tại chương XIV về các tội xâm
phạm sở hữu. Khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội
xâm phạm sở hữu như sau: "Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại

đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân"[37].
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội phạm này, vì vậy
khái niệm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung
của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các dấu hiệu đặc thù
riêng. Khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản: (Tội) lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản người khác
bằng thủ đoạn gian dối. Tuy nhiên khái niệm trên mới chỉ để cập đến tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản ở khía cạnh khái quát nhất. Căn cứ vào quy định tại
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999:
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi
triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm [7].

6
Ta thấy tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm
sở hữu, với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, kẻ phạm tội phải sử
dụng thủ đoạn gian dối, làm cho người bị hại tưởng giả là thật, tự nguyện đưa
tài sản cho kẻ phạm tội.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt, được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối.
Tuy nhiên khái niệm trên chỉ khái quát về tội phạm, muốn hiểu cặn kẽ
về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xem xét qua các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ
thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

* Khách thể
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại.
Những quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ là những
quan hệ xã hội được xác định trong Điều 1 và Điều 8 của Bộ luật hình sự, đó
là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự, tự do, tài sản, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài
sản, đây là quan hệ xã hội chủ yếu mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm
hại, không giống một số các tội xâm phạm sở hữu khác như tội cướp tài sản,
cưỡng đoạt tài sản… ngoài quan hệ sở hữu thì quan hệ nhân thân cũng là
khách thể của các tội phạm này.
Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Quan hệ xã hội này bị tội phạm

7
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thông qua việc làm biến đổi tình trạng
bình thường của những đối tượng vật chất (tài sản) là một bộ phận của quan
hệ sở hữu [45].
Theo Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005, tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản [5].
Tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể thuộc bất
cứ hình thức sở hữu nào được pháp luật thừa nhận và phải được thể hiện dưới
dạng vật chất vì những gì không thuộc về thế giới vật chất sẽ không thể là đối
tượng của hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, quyền về tài sản không phải mọi
trường hợp đều là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ví dụ
như bản di chúc về quyền thừa kế tài sản của một người, nhưng những giấy tờ
thể hiện quyền về tài sản như hóa đơn lĩnh hàng…lại có thể là đối tượng của

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định.
Cần lưu ý nhiều vật có thực do tính chất và công dụng đặc biệt không
được coi là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà là đối tượng của
hành vi phạm tội khác, ví dụ: Các chất ma tuý, các loại vũ khí quân dụng…
hành (Điều194, Điều 230 Bộ luật hình sự 1999).
Pháp luật nói chung cũng như Luật hình sự nói riêng luôn luôn bảo vệ
quyền sở hữu hợp pháp và chỉ bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp, nên về nguyên
tắc tài sản được Luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó
không có nghĩa những hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp của công dân
khác không bị coi là phạm tội. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dù tài sản
đó là tài sản bất hợp pháp, vẫn bị coi là trái pháp luật và có thể cấu thành tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, pháp luật hình sự xử lý người phạm tội lừa đảo để
bảo vệ quyền sở hữu và để đảm bảo trật tự an toàn chung của xã hội.
* Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm,
hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất. Các biểu hiện khác như hậu quả

8
của tội phạm, công cụ, phương tiện… cũng chỉ thể hiện khi có hành vi khách
quan.
Những nội dung của mặt khách quan mà luật hình sự quan tâm nghiên
cứu là:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả;
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm.
không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và
do vậy cũng không có tội phạm. Việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt

khách quan của tội phạm vì thế có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các dấu hiệu đặc
trưng sau:
Thứ nhất, dấu hiệu hành vi
Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội là
nội dung cơ bản nhất và được biểu hiện dưới hai hình thức hành động là việc
chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm và hành vi phạm tội bằng không hành
động là việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc
dù có đủ điều kiện để làm nhằm tránh nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao
gồm hai hành vi thực tế: hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật
nhằm để người khác tin đó là sự thật.

9
Xét về mặt khách quan, hành vi lừa dối là hành vi đưa ra những thông
tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong
muốn người khác tin đó là sự thật. Hành vi lừa dối là biểu hiện cụ thể của thủ
đoạn gian dối.
Về thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nhiều
hình thức thực hiện khác nhau. Việc nghiên cứu các hình thức thực hiện này
không có ý nghĩa trong việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng xem
xét hình thức thực hiện có giá trị lớn trong công tác đấu tranh, phòng chống
tội phạm này.
- Hành vi chiếm đoạt: Được hiểu là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp
luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt xét về mặt khách quan là hành vi làm
cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản của mình, tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm

cho chủ tài sản mất tài sản, vừa làm cho người chiếm đoạt có được tài sản đó.
Quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở
hữu mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở
hữu.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản coi là hoàn thành khi có hậu quả xảy ra,
kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Coi là chiếm đoạt được:
+ Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản
thì hành vi chiếm đoạt được là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã
tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài
sản cho người phạm tội.
Ví dụ: A muốn chiếm đoạt chiếc xe máy của B nên đã hỏi mượn xe
của B với lý do phải vào bệnh viện gấp vì mẹ bị tai nạn. B tưởng thật nên
đồng ý cho mượn. Mượn được xe, A đem đến hiệu cầm đồ đặt lấy 5 triệu

10
đồng để ăn tiêu, sau đó bỏ trốn. Như vậy, A đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản và hành vi chiếm đoạt được là hành vi nhận xe của B.
+ Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của người phạm
tội thì hành vi chiếm đoạt được là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho
người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa
dối đã nhận nhầm tài sản (nhận thiếu, nhận sai loại tài sản được nhận) hoặc
không nhận.
Ví dụ: A nhờ B chuyển cho C 50 triệu đồng. Lúc giao nhận tiền giữa
B và C, B đã dùng thủ đoạn gian dối để khiến C tưởng rằng mình đã nhận đủ
50 triệu đồng và không ngần ngại ký giấy nhận tiền. Khi về đến nhà, C mới
phát hiện ra số tiền mà C nhận được từ B chỉ có 40 triệu đồng, C đã nhận
thiếu mất 10 triệu đồng. Như vậy, B đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
hành vi chiếm đoạt được là hành vi giữ lại số tiền 10 triệu đồng đáng lẽ phải
giao cho C.
Hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối tạo điều kiện cho hành
vi chiếm đoạt được thực hiện một cách công khai, dễ dàng.Trong thực tế có
những biểu hiện gian dối nhằm mục đích khác không phải là hành vi khách
quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.Ví dụ: Đối tượng A vào một cửa hàng
văn phòng phẩm, giả vờ hỏi mua rất nhiều mặt hàng và yêu cầu người bán
hàng đóng gói những mặt hàng đó vào thùng cactông, trong khi người bán
hàng mải chọn và đóng gói hàng hóa, A đã nhanh tay chiếm đoạt 02 chiếc
máy tính cá nhân cất vào túi xách của mình. Sau đó A nói dối là quên tiền ở
nhà, yêu cầu người bán hàng để nguyên số hàng đã đóng gói vào một chỗ, chờ
A về nhà lấy tiền sẽ quay lại lấy hàng. Chờ mãi không thấy A quay lại, người
bán hàng mở thùng cactông ra kiểm tra mới phát hiện bị A chiếm đoạt tài sản.
Trong vụ án này A có thực hiện hành vi gian dối để cho chủ sở hữu mất cảnh
giác, không tập trung quản lý tài sản nhằm dễ dàng chiếm đoạt tài sản, nhưng
hành vi chiếm đoạt là lén lút, che giấu không cho chủ sở hữu biết, đây là hành

11
vi khách quan của tội trộm cắp tài sản. Không phải hành vi gian dối nào cũng
là biểu hiện khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối của người phạm
tội bao giờ cũng phải có trước, sau đó mới diễn ra việc giao tài sản giữa người bị
hại với người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận
được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy từng trường
hợp cụ thể thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là
hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thông
thường hành vi chiếm đoạt xảy ra kế tiếp ngay sau hành vi lừa dối. Nhưng
cũng có trường hợp giữa hai hành vi này có khoảng cách nhất định về thời
gian.
Tuy nhiên có những trường hợp dùng thủ đoạn gian dối để thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản, nhưng được Bộ luật hình sự quy định thành tội
phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng khác.
Ví dụ: Hành vi gian dối trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh
tráo loại hàng … để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi phạm tội lừa dối
khách hàng (Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999).
Xét thấy hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tương
tự với hành vi khách quan của nhiều tội phạm khác. Vì vậy, để định tội danh
chính xác phải đặt hành vi khách quan trong mối liên hệ với các yếu tố khác,
nghiên cứu một cách toàn diện các yếu tố của cấu thành tội phạm [21].
Thứ hai, dấu hiệu hậu quả
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan
hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện thông qua sự biến đổi
tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể
của tội phạm.

12
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, nghĩa là
trong cấu thành tội phạm có phản ánh dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
nhưng hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, có những trường hợp hậu quả
chưa xẩy ra vẫn có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ví dụ trường hợp
chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt phạm vào điểm a khoản 3 hoặc điểm a
khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự. Hậu quả của tội phạm được phản ánh trong
cấu thành tội phạm thông qua thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị
chiếm đoạt, chính vì vậy việc xác định tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc, đây là dấu hiệu định lượng để xác định cấu
thành cơ bản hoặc cấu thành định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (khoản 1
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999) quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt ở mức
500.000 đồng là mức nguy hiểm đáng kể làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình
sự. Cụ thể: Nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 500.000 đồng trở lên luôn cấu

thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì
phải kèm theo dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP [9]
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu"
của Bộ luật hình sự năm 1999 thì các dấu hiệu định tội trên được giải thích như sau:
- Gây hậu quả nghiêm trọng: Hậu quả ở đây không phải là hậu quả
trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm thông qua thiệt hại về tài sản
mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt, mà là hậu quả gián tiếp do tội phạm
gây ra. Đây là trường hợp do thực hiện hành vi phạm tội đã gây ra những thiệt
hại nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại hoặc cho xã hội.
Thông thường hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị coi là gây hậu
quả nghiêm trọng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Làm chết một người.

13
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai
người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên.
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ba đến bốn
người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%.
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với
tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100% nếu không
thuộc các trường hợp trên.
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với
tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị
từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng.
+ Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu
đồng [9].
Ngoài những thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được nêu

trên còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu
quả do hành vi phạm tội gây ra như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội.
Cần chú ý trường hợp tài sản bị chiếm đoạt dưới 500 nghìn đồng nếu
gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì cũng chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999, nếu
không có tình tiết định khung hình phạt khác [9].
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt: Tức là trước đó đã
bị xử lý bằng một trong các hình thức sau đây về hành vi chiếm đoạt, nhưng
chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý mà lại thực hiện hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính. Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của điều

14
lệnh, điều lệ của lực lượng vũ trang vũ trang nhân dân. Đã bị xử lý kỷ luật
theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền [9].
+ Hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý là hết thời hạn do Pháp
lệnh, điều lệnh hoặc điều lệ quy định. Điều 10 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính quy định: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu quá 1 năm,
kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết hiệu lực thi
hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt
vi phạm hành chính. Đối với các trường hợp bị xử lý mà chưa có quy định về
thời hạn để được coi là chưa bị xử lý, thì thời hạn đó là một năm kể từ ngày bị
xử lý [9].
Bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt nếu trước đó đã bị xử
phạt hành chính về một trong các hành vi sau: Cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản,
trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

tài sản, tham ô tài sản, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản [9].
- Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm: Là trường hợp trước khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, người phạm tội đã bị Tòa án kết án về một trong các tội có tính chất
chiếm đoạt nhưng chưa được xóa án tích theo quy định tại Điều 63, 64, 65, 77
Bộ luật hình sự 1999. Tội chiếm đoạt tài sản là một trong các tội sau: Cướp
tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự), bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134
Bộ luật hình sự), cưỡng đoạt tài sản (Điều 135 Bộ luật hình sự), cướp giật tài
sản (Điều 136 BLHSĐ), công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137 Bộ luật
hình sự), trộm cắp tài sản (Điều 138 Bộ luật hình sự), lừa đảo chiếm đoạt tài
sản (Điều 139 Bộ luật hình sự), lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều
140 Bộ luật hình sự), tham ô tài sản (Điều 278 Bộ luật hình sự), lạm dụng
chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280 Bộ luật hình sự) [9].
Ngoài các trường hợp cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu
trên, theo quy định tại phần chung Bộ luật hình sự 1999 nếu người phạm tội

15
có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã có
những hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm nhưng chưa chiếm đoạt được vì
những nguyên nhân khách quan vẫn có thể bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản ở giai đoạn phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội tùy vào
từng trường hợp cụ thể [7].
Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Người chuẩn bị phạm
một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện".
Điều 18 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "…Người phạm tội chưa
đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt".
Đối chiếu hai điều luật trên với Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 ta
thấy:
- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, chỉ xem xét các tình tiết thuộc

khoản 3 và 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999. Người mới có hành vi chuẩn bị
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì đã bị phát hiện có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội phạm này ở giai đoạn chuẩn bị nếu tài sản có ý định
chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đồng trở lên (theo các điểm a khoản 3 và
khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999). Ví dụ: A đã chuẩn bị sẵn những
mẫu hóa đơn, chứng từ, đã khắc con dấu giả hoặc có hành vi làm giả hóa đơn,
chứng từ để chiếm đoạt tài sản thì bị phát hiện và đã khai nhận ý đồ phạm tội
của mình. Nếu tài sản mà A định chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đồng trở
lên thì A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng" (điểm b khoản 3) và "gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng" (điểm b khoản 4) không được đặt ra vì các hậu
quả này là hậu quả của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra, mà
trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội kẻ phạm tội chưa thực sự có hành vi phạm
tội nên không thể nói đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hay hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng.

16
- Người đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không
thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn thì phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt trong mọi trường hợp.
Việc xác định đúng giá trị tài sản bị chiếm đoạt đối với hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trường
hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp nào chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng đúng khung hình phạt.
Do đó, cần chú ý một số điểm sau đây trong việc xác định giá trị tài sản đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
+ Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định căn cứ vào kết luận của
Hội đồng định giá do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu kết luận về trị giá
tài sản bị chiếm đoạt. Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa,

cơ quan điều tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác
định đó là tài sản gì, nhãn mác của tài sản đó như thế nào, giá trị tài sản đó
theo thời giá thực tế tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm là bao
nhiêu, tài sản đó còn khoảng bao nhiêu phần trăm… để có kết luận cuối cùng
về giá trị tài sản bị xâm phạm.
+ Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành
vi phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản có giá
trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm. Nếu người
phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không quan tâm đến giá
trị của tài sản bị chiếm đoạt, thì căn cứ vào giá trị thực của tài sản bị xâm
phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
+ Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới
mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình
sự 1999 và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách
nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết

17
án nhưng chưa được xóa án tích…), đồng thời trong các hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời
hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần chiếm đoạt bằng
hoặc trên mức 500.000 đồng thì người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự đối với tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu:
- Các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên
tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
- Việc thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất
chuyên nghiệp, lấy tài sản bị chiếm đoạt làm nguồn sống chính.
- Với mục đích chiếm đoạt, nhưng do điều kiện khách quan nên việc
lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài

sản bị chiếm đoạt mỗi lần dưới 500 ngàn đồng.
Ngoài hậu quả (giá trị tài sản bị chiếm đoạt) là dấu hiệu định tội được
phân tích ở trên thì thực tế hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn
gây hậu quả nguy hiểm khác (ngoài hành vi xâm phạm chủ yếu của khách thể
trực tiếp) đó là những thiệt hại về tài sản, về thể chất hoặc những hậu quả phi
vật chất khác diễn ra ở những cấp độ khác nhau thể hiện mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những hậu quả
này thường phát sinh do việc tài sản bị chiếm đoạt (có mối quan hệ nhân quả
giữa việc tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả). Do đó khi xác định hậu quả là
thiệt hại về tài sản thì phải xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Hậu quả
phi vật chất ở đây được biểu hiện: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội. Những thiệt hại phát sinh này, tùy từng vụ án và tình hình cụ
thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đã gây hậu quả nghiêm trọng,
gây hậu quả rất nghiêm trọng hay gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để làm
căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự (theo khoản 1 Điều Bộ luật hình sự
1999). Chiếm đoạt tài sản dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả rất nghiêm

18
trọng) hay để làm căn cứ quyết định hình phạt (theo điểm g khoản 2, các điểm
b khoản 3 và khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999).
Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ phải xác định hậu
quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà còn đòi hỏi làm rõ mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi lừa đảo với hậu quả đó. Bởi vì, con người chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả nguy hiểm đó do
chính hành vi khách quan của họ gây ra [22].
Mối quan hệ nhân quả ở đây được biểu hiện:
- Hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu quyết định việc chiếm đoạt được

tài sản của người phạm tội.
Vì việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội có thể gây ra
những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội nên việc xác định mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả trên không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội
mà còn có ý nghĩa trong quyết định hình phạt.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên tội
phạm hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, tức là lúc
người phạm tội đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và người bị hại đã mất
khả năng làm chủ được tài sản đó trên thực tế.
1.1.3. Chủ thể
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ
tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [16].
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo
luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt

19
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật hình sự 1999) [7], [9].
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 Bộ luật hình sự 1999
quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [7].
Như vậy, theo Điều 12 Bộ luật hình sự 1999, chúng ta thấy chủ thể
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn độ tuổi sau:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi

trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định từ khoản 1 đến khoản 4
Điều 139 Bộ luật hình sự 1999.
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu có hành vi phạm tội thuộc
kKhoản 3 hoặc khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 vì đây là tội rất
nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù) và là tội đặc
biệt nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình).
Người dưới 14 tuổi dù có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự, tuy nhiên có thể phải chịu những biện pháp khác ngoài các chế tài
hình sự để giáo dục.
Do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên
không có sự ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi
thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Trừ một

20
số người được hưởng quyền miễn trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ
được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Khi nghiên cứu về chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần phải
chú ý đến đặc điểm nhân thân của người phạm tội như: nghề nghiệp, hoàn
cảnh gia đình, trình độ văn hóa, đời sống kinh tế, ý thức pháp luật, tiền án,
tiền sự… Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm
hình sự của người phạm tội cũng như các biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1.1.4. Mặt chủ quan
Tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan.
Nếu mặt khách quan là biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là
hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, bao gồm: lỗi, động cơ và mục
đích phạm tội [16].
Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản nhưng không nêu dấu hiệu lỗi của người phạm tội, tuy nhiên xét theo bản
chất và tính chất của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì về mặt chủ quan
của tội phạm được thể hiện do lỗi cố ý trực tiếp với mục đích chiếm đoạt tài sản.
* Dấu hiệu lỗi
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc
cơ bản. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc "quy
tội khách quan", nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ trên cơ sở
hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. "Một hành vi gây thiệt hại cho
xã hội sẽ bị coi là có lỗi, nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và
quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện khách quan và chủ
quan để lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã
hội" [21].
Lỗi cố ý trực tiếp trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện:

21
- Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà mình thực hiện là xâm phạm sở hữu của người khác, nhận
thức rõ những thủ đoạn đưa ra là hoàn toàn không có thật, nhằm làm người
khác tin đó là sự thật. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước khi
thực hiện hành vi lừa dối đã có ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa dối đưa đến kết
quả là chiếm đoạt được tài sản của người khác.
* Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm
tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.
Mục đích của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là mong
muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích này bao giờ cũng có trước khi thực
hiện hành vi phạm tội. Có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt
buộc của cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, người phạm tội
có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hay chấp nhận

mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: Công ty tư nhân X do A làm giám đốc, thành lập với danh
nghĩa kinh doanh nhưng thực chất là để được nhận hóa đơn giá trị gia tăng ở
cơ quan thuế và từ đó thực hiện việc bán các hóa đơn này cho các đơn vị khác
để kiếm lời bất chính. Trong trường hợp A bán hóa đơn cho Công ty Y do B
làm giám đốc và Công ty Y này đã sử dụng số hóa đơn đó để thực hiện hành
vi lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng. Nếu A biết rõ việc bán
hóa đơn giá trị gia tăng để B lập hồ sơ giả trong việc xin hoàn thuế thì A được
coi là đồng phạm với B trong vụ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản này.
Mặc dù mục đích chính của A là kiếm lời nhưng A đã chấp nhận mục đích
chiếm đoạt của B thì A cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò là
người giúp sức trong vụ đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

×