Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 100 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


LÝ VĂN CHÍNH


Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và
việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam



LUẬN VĂN THẠC SỸ



Người hướng dẫn: PGS.TSKH. Lê Cảm





Hà nội - 2004








1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2
Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ 7
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRANH TỤNG 7
1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố. 7
1.1.1. Khái niệm quyền công tố 7
1.1.2. Thực hành quyền công tố. 15
1.2 Một số vấn đề lý luận cơ bản về tố tụng hình sự tranh tụng. 17
Chương 2. NỘI DUNG QUYỀN CÔNG TỐ 27
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRANH TỤNG 27
2.1. Sự hình thành việc tổ chức và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng. 27
2.2. Nội dung cơ bản của việc thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng. 36
2.3. Tổng luận về những nét đặc trưng cơ bản của quyền công tố trong tố tụng hình sự
tranh tụng. 42
Chương 3. 48
VẬN DỤNG MỘT SỐ YẾU TỐ HỢP LÝ CỦA VIỆC TỔ CHỨC VÀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
3.1. Tổng quan về lịch sử khuôn khổ pháp lý của quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt
Nam. 48
3.2. Thực trạng quyền công tố trong tố tụng hình sự Việt Nam và những đề xuất vận dụng một
số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng.
3.2.1 Tổ chức quyền công tố. 51

3.2.2. Thực hành quyền công tố. 55
3.3. Những khó khăn và lộ trình vận dụng một số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực hành
quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng vào Việt Nam. 75
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
PHỤ LỤC 91

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một bộ phận của cấu trúc quyền lực công trong một Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân nhân, quyền công tố ở Việt Nam được nhà nuớc
uỷ quyền cho Việt kiểm sát nhân dân thực hiện đã có những hiệu quả nhất
định trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm góp phần bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản của
nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Tuy nhiên, việc thực hành quyền công tố ở Việt Nam vẫn chưa đáp
ứng kịp thời đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Việc thực
hành quyền công tố nằm trong bối cảnh chung của ngành tư pháp mà theo
nhận xét của Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị- Ban chấp
hành Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam thì : “Chất lượng công tác tư
pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn
nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự
do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và các cơ quan tư pháp.”
Cụ thể về công tố, Nghị quyết 08 đã có ý kiến chỉ đạo: “Viện Kiểm sát các
cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố
vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội nâng cao chất lượng công tố

của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với Luật sư, người bào
chữa, và những người tham gia tố tụng khác ”
Chínhvì vậy việc nghiên cứu về mặt lý luận để đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện việc tổ chức và thực hành quyền công tố là đặc biệt cần thiết

2
trong công cuộc cải cách tư pháp hướng tới nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay. Xuất phát từ tinh thần Nghị quyết 08 đã đặt ra vấn đề tăng cường
tranh tụng giữa bên công tố và bên gỡ tội. Từ đó cho thấy về măt khoa học
chúng ta cần phải nghiên cứu để đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường
tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Vấn đề tranh tụng mà Nghị quyết
08 đã đặt ra có thể là một bước đầu cho việc tiến tới áp dụng những hạt nhân
hợp lý của tố tụng tranh tụng ở Việt Nam. Như vậy về mặt khoa học, vấn đề
này đòi hỏi phải nghiên cứu quyền công tố trong khung cảnh của tố tụng hình
sự tranh tụng và gợi mở một số định hướng cho việc hoàn thiện tổ chức và
thực hành quyền công tố ở Việt Nam.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây học viên chọn đề tài :"Quyền công tố
trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam "
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu.
Trong khung cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học về quyền công tố nói chung và việc tổ chức
thực hành quyền công tố ở Việt Nam. Cụ thể có thể kể đến như : Đề tài khoa
học cấp bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và tổ chức thực hiện
quyền công tố ở Việt Nam hiện nay” do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ
trì năm 1999 ; Luận án tiến sĩ luận học của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa với đề
tài „’Quyền công tố ở Việt Nam „‟. Ngoài ra trên các tạp chí khoa học pháp lý
chuyên ngành cũng đã đăng tải một số bài viết về khái niệm quyền công tố
của các nhà khoa học như T.S Lê Hữu Thể : Bàn về khái niệm quyền công tố,
Tạp chí Kiểm Sát các số 8, 9 năm 2000 , TSKH Lê Cảm : "Những vấn đề lý

luận về chế định quyền công tố", Báo cáo tại Hội nghị khoa học: ”Tổ chức và
hoạt động của Viện Kiểm sát trong tình hình mới” do Uỷ ban pháp luật Quốc
hội tổ chức ngày 02/04/2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh

3
Có thể tìm thấy ở những nghiên cứu nói trên những kiến giải khoa học
bổ ích cho tiến trình hoàn thiện việc tổ chức và thực hành quyền công tố ở
nước ta. Nhưng nhìn chung các nghiên cứu về quyền công tố ở nước ta hiện
nay chưa đặt quyền công tố trong mối tương quan với loại hình tố tụng. Đây
là luận văn đầu tiên tiếp cận quyền công tố dưới góc độ loại hình tố tụng. Cụ
thể là học viên muốn đặt quyền công tố trong loại hình tố tụng tranh tụng-
một loại hình tố tụng hình sự được đánh giá là có tính dân chủ cao, và trên cơ
sở đó đưa ra một số định hướng cho việc hoàn thiện tổ chức và thực hành
quyền công tố ở Việt Nam.
3. Mục đích của đề tài
Đề tài nhằm mục đích phân tích và lý giải để làm sáng tỏ về mặt lý luận
những điểm tích cực của việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố
tụng hình sự tranh tụng và đưa ra một số định hướng cho việc hoàn thiện tổ
chức và thực hành quyền công tố ở Việt Nam
4. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nói trên, tác giả luận văn đặt ra cho mình nhiệm vụ giải
quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố
tụng hình sự
Nghiên cứu việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng
hình sự tranh tụng
Tổng kết tình hình thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay
chỉ ra những vấn đề bất hợp lý và đi sâu phân tích nguyên nhân
của thực trạng đó.
Trên cơ sở những luận điểm được nghiên cứu trên đây gợi mở

việc vận dụng một số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực
hành quyền công tố theo tố tụng hình sự tranh tụng vào Việt Nam.

4
5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận :
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Những quan điểm, đường lối của Đảng ta về Nhà nước và pháp
luật, về tư pháp và cải cách tư pháp.
Những thành tựu của khoa học tư pháp và khoa học luật tố tụng
hình sự trong và ngoài nước
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích,
tổng hợp , thống kê, so sánh.
6. Cái mới về mặt khoa học và ý nghĩa của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc
sĩ đề cập đến đề tài đã được lựa chọn
Bằng việc phân tích khoa học, trong luận văn này lần đầu tiên tác
giả đã cố gắng giải quyết những vấn đề sau đây :
1) Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố
trong tố tụng hình sự
2) Nghiên cứu việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo
tố tụng hình sự tranh tụng
3) Tổng kết tình hình thực hành quyền công tố ở Việt Nam
hiện nay chỉ ra những vấn đề bất hợp lý và đi sâu phân tích
nguyên nhân của thực trạng đó.
4) Trên cơ sở những luận điểm được nghiên cứu trên đây gợi
mở việc tổ chức và thực hành quyền công tố theo tố tụng
hình sự tranh tụng ở Việt Nam.


5
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu trong
quá trình học tập và nghiên cứu khoa học, cũng như làm tài liệu
tham khảo cho những nhà xây dựng pháp luật.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1. Nhận thức chung về quyền công tố và tố tụng hình sự tranh
tụng
Chương 2. Nội dung quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng.
Chương 3. Vận dụng một số yếu tố hợp lý của việc tổ chức và thực
hành quyền công tố trong tố tụng tranh tụng vào điều kiện Việt Nam















6




Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRANH TỤNG
1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố.
1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Trong tiếng Anh “ Prosecute” (công tố) được hiểu là việc tiến hành cáo
buộc một người trước toà trong một quy trình tố tụng hình sự.[22, tr. 1080].
Trong tiếng Nga, khái niệm công tố cũng bao gồm hai từ hợp thành: “ợ ỏ õ ố
ở ồ ớ ố ồ “ ( tố ) và “ ó ợ ủ ú ọ à ð ủ ũ õ ồ ớ ớ ợ ồ“ ( công ) . Trong đó “ợ ỏ õ
ố ở ồ ớ ố ồ “ ( tố ) được hiểu là “ nội dung buộc tội nêu trong quyết định khởi
tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án buộc tội.”[12, tr.82]. Khi ghép
từ “ợ ỏ õ ố ở ồ ớ ố ồ„ (tố) với từ “ó ợ ủ ú ọ à ð ủ ũ õ ồ ớ ớ ợ ồ“ (công), thì
công tố (ó ợ ủ ú ọ à ð ủ ũ õ ồ ớ ớ ợ ồ ợ ỏ õ ố ở ồ ớ ố ồ ) được hiểu là sự buộc
tội của nhà nước đối với người bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thuật ngữ “
công tố “ là một thuật ngữ Hán- Việt, theo Đào Duy Anh, có nghĩa là “ thay
mặt quốc gia để buộc tội trước toà.” [1, tr.122]. Trong một cuốn Từ điển tiếng
Việt của Viện ngôn ngữ học Việt Nam, công tố cũng được định nghĩa là “ sự
truy tố của nhà nước đối với một kẻ có tội.” Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ
tiếng Việt, công tố cũng được hiểu là việc nhân danh nhà nước để buộc tội
một người bị tình nghi là phạm tội.
Đa số các nước trên thế giới hiện nay hiểu công tố là việc cáo buộc một
người bị tình nghi là tội phạm ra trước toà. Đây là ý nghĩa cốt lõi nhất của
công tố. Với một khái niệm công tố được hiểu như vậy thì có thể hiểu quyền

7
công tố là quyền nhân danh nhà nước để cáo buộc một người bị tình nghi là
tội phạm ra trước toà. Tuy nhiên, do đặc thù của việc tổ chức thực hành quyền
công tố ở Việt Nam, khái niệm quyền công tố trong khung cảnh của nước ta
có những khó khăn trong việc giải thích. Xung quanh khái niệm quyền công

tố ở Việt Nam đã có rất nhiều quan niệm khác nhau. Chúng tôi dựa trên nền
tảng của Hiến pháp đã được sửa đổi và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành để chỉ ra bản chất của quyền công tố ở Việt Nam. Theo chúng tôi,
quyền công tố ở Việt Nam có những dấu hiệu đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực công và lợi ích
công. Quyền cống tố được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế
của công quyền theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Với tính chất là
một quyền nhân danh quyền lực công, quyền công tố đồng thời cũng là quyền
nhân danh lợi ích công. Nhưng không phải mọi hoạt động nhân danh lợi ích
công đều là quyền công tố.
Thứ hai, quyền công tố là một quyền hiến định được trao cho một cơ
quan độc lập trong hệ thống bộ máy nhà nước thực hiện. Theo hiến pháp Việt
Nam, hệ thống quyền lực được phân bố thành bốn hình thái cơ bản là: lập
pháp, hành pháp, xét xử, và kiểm sát. Quyền công tố ở Việt Nam không giống
như ở các nước khác thuộc cấu trúc của ngành hành pháp mà thuộc một hệ
thống cơ quan độc lập là Viện kiểm sát. Có quan điểm cho rằng quyền công tố
là “quyền của một cơ quan nhà nước được nhà nước uỷ quyền.”[11, tr.52].
Chúng tôi không đồng ý với quan điểm nay. Quyền công tố ở Việt Nam
không phải là quyền được được nhà nước uỷ quyền mà cũng như quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền xét xử, quyền công tố được thiết lập từ quyền
lập hiến mà chủ quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Do đó quyền công tố là
quyền hiến định chứ không phải là quyền được nhà nước uỷ quyền.

8
Thứ ba, theo Hiến pháp và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành, quyền công tố là một loại quyền độc lập. Do đặc thù của việc tổ chức
quyền công tố ở Việt Nam, trước đây khái niệm công tố đã được đồng nhất
với quyền kiểm sát chung của Viện kiểm sát. Có thể thấy rõ là quan điểm này
đã xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân để xem xét quyền
Công tố. Quan điểm này cho rằng, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân

theo pháp luật đều làthực hành quyền Công tố. Điều đó có nghĩa là, ngay cả
khi Viện kiểm sát kiến nghị yêu cầu các cơ quan Nhà nước sửa chữa những
phạm vi pháp luật của mình trên lĩnh vực hành chính kinh tế, xã hội (một thời
chúng ta gọi là kiểm sát chung) cũng là thực hành quyền Công tố. Và bởi vậy,
có nhiều nước gọi Viện kiểm sát là Viện Công tố. Theo quan điểm này, Công
tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một
quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Có thể nói đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm
sát từ trước tới nay. Đi sâu nghiên cứu những lập luận của những người theo
quan điểm này cho thấy rõ là cơ sở cho những lập luận của họ chủ yếu là nội
dung các điều luật được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1981 và 1992, đặc biệt là Điều 3 (đúng ra thì phải tính cả các Điều 137
và 138 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 của Nhà nước ta và nhiều điều trong
Bộ luật tố tụng hình sự). Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1992 quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và thực hành quyền Công tố bằng 6 công tác. Đó là Công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội;
Công tác kiểm sát điều tra xét xử; Công tác kiểm sát giam giữ và cải tạo;
Công tác kiểm sát thi hành án và Công tác điều tra tội phạm. (Tuy nhiên, việc
quy định quyền Công tố và phạm vi quyền công tố như pháp luật hiện hành
của nước ta có phần chưa rõ ràng nên dẫn đến nhận thức không đầy đủ). Mặt

9
khác, theo quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhà tố tụng
hình sự học Liên Xô trước đây.[ 25, tr.25].
Việc Hiến pháp 1992 đã bỏ đi chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm
sát nhưng chức năng công tố vẫn còn cho thấy rằng quan điểm đồng nhất
quyền công tố với quyền kiểm sát chung là không có cơ sở. Chức năng trọng
yếu của Viện kiểm sát là công tố nên không thể quan niệm quyền công tố chỉ
là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự. Hiện nay Viện kiểm sát chỉ có hai chức năng
là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc Hiến pháp đặt
quyền công tố trước kiểm sát hoạt động tư pháp, mặc dù về mặt văn phong
pháp lý, cũng nói lên tính chất chủ yếu của quyền công tố, và công tố không
thể là một bộ phận của kiểm sát hoạt động tư pháp. Với khung cảnh hiến định
và pháp định hiện nay, công tố không phải là một bộ phận của kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, mà ngược lại hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
chỉ là một hoạt động bổ trợ của quyền công tố. Xét về mặt thực chất, mọi hoạt
động kiểm sát tư pháp đều có ý nghĩa phục vụ cho việc thực hành quyền công
tố.
Thứ tư, quyền công tố chỉ phát sinh trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Có
quan điểm cho rằng công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân,
tổ chức đã vi phạm pháp luật, vi phạm Luật dân sự, Luật kinh tế và Luật hình
sự. Và, quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó. Theo
quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc Nhà nước. Nhà nước không thể
không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp
luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời Nhà nước là chủ thể
tham gia vào nhiều loại quan hệ pháp luật khác nhau. Với tính cách là một
quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá
trình giải quyết các vi phạm pháp luật, bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân

10
sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự tồn tại quyền
công tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu khách quan bởi thứ
nhất, Nhà nước không thể không thể hiện quyền lực của mình trong việc giải
quyết các vi phạm pháp luật; và thứ hai, sự hiện diện công tố như một điều
kiện bảo đảm tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ
quan tài phán. Theo quan điểm trên, quyền công tố được biểu hiện cụ thể ở
các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự, hành chính,
hình sự, lao động), quyền tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi

xét thấy cần thiết (dân sự, kinh tế ), quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình điều
tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án Quyền công tố
trong các hoạt động tố tụng khác nhau thì không giống nhau về nội dung cũng
như hình thức thực hiện. Trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố có
nghĩa là Nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với một người phạm tội cụ thể,
còn trong các hoạt động tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu là
việc Nhà nước trực tiếp hay gián tiếp (bằng văn bản) quy lỗi cho một người
hay một pháp nhân nào đó trong việc thực hiện một hay nhiều hành vi vi
phạm pháp luật tương ứng. Như vậy, sự buộc tội chỉ là một trong những nội
dung của công tố bởi công tố ngoài buộc tội (quy lỗi hình sự) còn là việc quy
lỗi cho người khác.[ 25, tr.26].
Thực ra một số quan niệm trước đây coi quyền công tố mở rộng đến
lĩnh vực này là khi Viện kiểm sát còn có chức năng kiểm sát chung. Việc
đồng nhất chức năng công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
đã dẫn đến việc mở rộng phạm vi của quyền công tố đến những vụ án không
phải là vụ án hình sự. Việc Hiến pháp hiện hành đã bỏ đi chức năng kiểm sát
chung của Viện kiểm sát cũng đồng nghĩa với việc trở lại bản chất của quyền
công tố là nhân danh nhà nước để cáo buộc một người bị tình nghi là tội phạm
trước toà mà không mở rộng đến việc khởi kiện ra toà trong các vụ án ngoài

11
vụ án hình sự. Với hai chức năng hiện hành là công tố và kiểm sát tư pháp thì
việc khởi kiện ra toà các vụ án như dân sự, kinh tế không thể có một cơ sở
hiến định. Việc Viện kiểm sát có quyền tham gia với tư cách một bên khởi
kiện trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động không phải là thuộc lĩnh vực
của quyền công tố. Trong việc tham gia vào các vụ án dân sự, kinh tế, lao
động Viện kiểm sát chỉ nhân danh lợi ích công chứ không phải nhân danh
quyền lực công. Khi đó tư cách của Viện kiểm sát cũng chỉ như một bên
đương sự, chứ không phải là tư cách của một cơ quan công quyền.
Tư cách của Việm kiểm sát trong phiên toà dân sự chỉ là tư cách của

một cơ quan kiểm sát tư pháp. Với tư cách kiểm sát tư pháp, Viện kiểm sát
được làm gì ? Khác với hoạt động công tố, hoạt động kiểm sát tư pháp không
phải là một hoạt động tố tụng. Kiểm sát tư pháp về thực chất là sự tự kiểm tra
của bản thân hệ thống quyền lực tư pháp. Nếu như kiểm sát tư pháp không
phải là một hoạt động tố tụng thì Viện kiểm sát tham gia phiên toà dân sự
không thể với tư cách một cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó nếu như Kiểm sát
viên ngồi phiên toà trực tiếp phát biểu quan điểm, tham gia đánh giá chứng cư
thì có nghĩa Kiểm sát viên là một người tiến hành tố tụng. Như như vậy thì có
nghĩa là Kiểm sát viên đã làm những việc mà mình không có tư cách pháp lý.
Hơn nữa, xét về mặt thực tiễn, nếu như Viện kiểm sát tham gia vào phiên toà
dân sự, phát biểu quan điểm thì chắc chắn Hội đồng xét xử xẽ chịu ảnh hưởng
từ phía Viện kiểm sát mà không thể độc lập trong xét xử, tính công bằng
khách quan trong việc giải quyết tranh chấp dân sự sẽ không được bảo đảm,
nhất là khi các bên đương sự lại lợi dụng sự tham gia của Viện kiểm sát trong
phiên toà để gây áp lực ngầm đối với Viện kiểm sát từ trước khi phiên toà
diễn ra.
Chỉ khi nào với tư cách đại diện của cơ quan công tố, Kiểm sát viên
mới là một người tiến hành tố tụng- uỷ viên công tố. Nếu như không có quyền

12
công tố trong vụ án dân sự thì Kiểm sát viên không thể tham gia phiên toà
dân sự với tư cách là một người tiến hành tố tụng. Đối với một vụ án dân sự,
Viện kiểm sát chỉ có thể tham gia với tư cách một cơ quan kiểm sát. Với tư
cách một cơ quan kiểm sát, trong quy trình giải quyết một vụ án dân sự, Viện
kiểm sát có quyền kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ, kiểm sát quá trình tham gia
tố tụng của những người tham gia tố tụng.
Với tư cách là một cơ quan kiểm sát tư pháp, Viện kiểm sát chỉ tham
gia vào việc giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn thụ lý, lập hồ sơ vụ án. Còn
trong giai đoạn xét xử, Việm kiểm sát không được tham gia mà chỉ có thể
tham dự. Viện kiểm sát có thể thực hiện được quyền kiểm sát tư pháp của

mình với tư cách một người tham dự trong phiên toà dân sự. Thông qua việc
ngồi tham dự phiên toà, ngồi đâu thì tùy, không nhất thiết phải bố trí một chỗ
ngồi riêng, Kiểm sát viên có thể theo dõi được quá trình mở phiên toà, tranh
luận của các bên đượng sự…có đúng thủ tục không, và nến có những vi phạm
pháp luật thì kháng nghị.
Căn cứ theo pháp luật hiện hành thì quyền công tố cũng chỉ phát sinh
trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Theo Điều 3 cuả Luật tổ chức
Viện kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ
bằng những công tác sau đây: Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; Kiểm sát việc giải
quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động
và những việc khác theo quy định của pháp luật; Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhân dân; Kiểm sát

13
việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù[14, tr.8]. Quy phạm trên cho thấy quyền công tố
chỉ áp dụng đối với việc giải quyết các vụ án hình sự. Đối với các vụ án dân
sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động, chức năng của Viện
kiểm sát không phải là công tố mà là kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thứ năm, quyền công tố là một quyền cáo buộc một người bị tình nghi
là tội phạm trước toà. Sự cáo buộc ở đây được hiểu là tất cả những hoạt động
nhằm đưa một nghi phạm ra trước toà, chứ không đơn thuần chỉ là việc truy tố
và buộc tội trước toà. Quyền công tố được thực thi bởi cả một quá trình. Quá
trình này bao gồm từ việc khởi tố đến việc buộc tội trước toà. Việc truy tố là
nội dung trọng tâm và mang ý nghĩa quyết định của việc thực hành quyền

công tố chứ không phải là nội dung duy nhất của quyền công tố. Công tố bao
gồm cả các hoạt động tiền truy tố. Để buộc tội một người trước toà, đòi hỏi
phải có rất nhiều hoạt đông tố tụng từ khởi tố bị can đến việc tiến hành các
hoạt động điều tra : khám xét, hỏi cung, trưng cầu giám định, thực nghiệm
điều tra Tất cả các hoạt động này đều có ý nghĩa làm cơ sở cho việc buộc
tội. Do đó chúng thuộc phạm vi của quyền công tố.
Thứ sáu, Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất của quyền công tố. Việc
khẳng định quyền công tố bắt đầu từ giai đoạn có quyết định khởi tố bị can
đồng thời lại khẳng định chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền công tố hoàn toàn
không mâu thuẫn với nhau. Có ý kiến băn khoăn : Trong suốt gian đoạn điều
tra, phải chăng chỉ có Viện kiểm sát mới thực hiện chức năng buộc tội ? Cơ
quan điều tra thực hiện chức năng gì ?[6, tr.12]. Thực ra, các hoạt động khởi
tố, điều tra của cơ quan điều tra chỉ có mục đích là chứng minh tội phạm mà
không phải là buộc tội. Các hoạt động khởi tố, điều tra trong quá trình thực
hành quyền công tố không đơn thuần chỉ là chứng minh mà còn có mục đích

14
buộc tội: đề nghị Toà án ra phán quyết về tội danh, áp dụng hình phạt và các
biện pháp tư pháp khác.
Tóm lại, trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, quyền
công tố là một quyền độc lập do Viện kiểm sát nhân danh lợi ích công và
quyền lực công cáo buộc một người bị tình nghi là phạm tội ra trước toà.
1.1.2. Thực hành quyền công tố.
Từ khái niệm quyền công tố nói trên có thể hiểu thực hành quyền công
tố là việc Viện kiểm sát nhân danh lợi ích công và quyền lực công thực hiện
các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để
cáo buộc một người ra trước toà. Như vậy nêu như quyền công tố là quyền
năng duy nhất chỉ có Viện kiểm sát mới có thì chức năng thực hành quyền
công tố là chức năng duy nhất của Viện kiểm sát mà không thể có một cơ
quan nào làm thay.

Trước đây, về mặt lý luận cũng như thực tiễn chưa phân biệt được rành
mạch hành vi tố tụng nào là thực hành quyền công tố và hành vi tố tụng nào là
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, Luật
tổ chức Viện kiểm sát hiện hành đã quy định cụ thể nội dung việc thực hành
quyền công tố và nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp.
Căn cứ theo Điều 13 của Luật tổ chức Viện kiểm sát hiện
hành thì, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm
sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố
hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp
luật;

15
- Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy
định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm
thì khởi tố về hình sự;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các
quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật;
- Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra;
- Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. [ 14, tr14]
Theo Điều 17 của Luật tổ chức Viện kiểm sát, khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân
dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến
việc giải quyết vụ án tại phiên toà;
- Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu

quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận
với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà
sơ thẩm, phúc thẩm;
- Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ
án tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm [ 14, tr.17 ].
Như vậy, Luật đã chỉ rõ nội dung cụ thể của thực hành quyền công tố. Vấn
đề đặt ra ở đây là mối tương quan giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp là như thế nào ? Có quan điểm cho rằng chức năng công tố
và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoàn toàn độc lập với nhau và
cùng song song tồn tại. Có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng công tố
và có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật mặc dù chúng đều do Kiểm sát viên thực hiện trong cùng một thời gian

16
[26, tr.157]. Chúng tôi cho rằng có những hoạt động thuần tuý là thực hành
quyền công tố và có những hoàt động kiểm sát tư pháp nhưng nhìn chung thì
hai chức năng này có quan hệ đan xen với nhau. Chức năng công tố là chức
năng cơ bản của Viện kiểm sát còn đa số các hoạt động kiểm sát tư pháp đều
nằm phục vụ cho việc thực hành quyền công tố. Có thể lấy tiêu trí về mục
đích của 2 hoạt động : thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát tư pháp
để phân biệt đó là : thực hành quyền công tố nhằm đi đến kết luận truy tố hay
không truy tố. Còn hoạt động kiểm sát tư pháp nhằm mục đích và đảm bảo
cho các hoạt động: khởi tố, điều tra: khám xét, hỏi cung, trưng cầu giám định,
thực nghiệm điều tra, lấy lời khai người làm chứng có đúng quy định của
luật tố tụng hình sự không.
1.2 Một số vấn đề lý luận cơ bản về tố tụng hình sự tranh tụng.
Về cơ bản trên thế giới có hai loại hình tố tụng hình sự điển hình là tố
tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng. Quyền công tố trong những loại hình này
có những đặc điểm khác nhau. Dưới đây chúng tôi sẽ trình bầy về đặc điểm
của loại hình tố tụng hình sự tranh tụng trong sự đối chiếu với tố tụng hình sự

thẩm vấn để làm cơ sở cho việc khảo sát quyền công tố trong tố tụng hình sự
tranh tụng ở chương tiếp theo.
Tố tụng hình sự tranh tụng là loại hình tố tụng hình sự điển hình của
các nước theo hệ thống pháp luật Anh- Mỹ. Các nghiên cứu về tố tụng tranh
tụng đã khái quát loại hình này với trình tự tố tụng như sau: Cảnh sát sau khi
phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra toà chỉ
có một thẩm phán, nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng. Nếu là tội nghiêm
trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố
ra toà xét xử theo thủ tục rút gọn, không có bồi thẩm đoàn tham dự. Trường
hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có bồi thẩm đoàn,
vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra toà với một thẩm phán và bồi thẩm

17
đoàn. Trong quá trình xét xử, các bên buộc tội và gỡ tội tự xét hỏi, đưa ra
chứng cứ, người làm chứng, đối chất, phản bác nhau, và tự bảo vệ quan điểm
của mình. Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động tố tụng, hướng
dẫn cho bồi thẩm đoàn những quy tắc tố tụng, chúng cứ và luật nội dung.
Việc quyết định bị cáo có tội hay không có tội hoàn toàn thuộc quyền của bồi
thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên là có tội lúc đó chỉ có thẩm phán tiếp tục vụ
án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị cáo được
tuyên là vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan công tố cũng không được
quyền kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc Hiến pháp không cho phép xét xử
hai lần đối với một bị cáo về cùng một tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với
cả hai bên khi bị cáo bị tuyên là có tội liên quan đến việc định tội hoặc lượng
hình. Các thủ tục tố tụng như hỏi cung, khám nghiệm, hay các thủ tục tố tụng
tại phiên toà đều phải được ghi âm hoặc ghi hình. Nếu có tranh chấp hay mâu
thuẫn giữa các bên về tính đúng đắn và chính xác thì băng ghi âm, ghi hình sẽ
được đưa ra để toà án và các bên cùng xem xét lại, cùng đối chứng[ 27, tr.5].
Trong khi đó, quy trình tố tụng thẩm vấn lại gồm những bước rất khác.
Cảnh sát là cơ quan đầu tiên có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Khi phát hiện

một hành vi phạm tội, tuỳ theo mức độ vi phạm, cảnh sát có nghĩa vụ thu thập
các thông tin và chuyển hồ sơ cho Viện công tố. Những vụ việc nhỏ như tội vi
cảnh, tội phạm ít nghiêm trong sẽ do Toà tiểu hình hay toà Toà vi cảnh giải
quyết. Tại các phiên toà này, việc xét xử có thể do một thẩm phán hoặc cả hội
thẩm tham gia, (ví dụ như ở Đức với các tội đại hình). Sau khi vụ án được
khởi tố, Viện công tố là cơ quan có quyền chỉ đạo các hoạt động điều tra của
cảnh sát. Đối với những vụ án nghiêm trọng, khi việc điều tra sơ bộ đã kết
thúc, công tố viên chuyển hồ sơ vụ án cho thẩm phán điều tra để xem xét các
yếu tố chứng cứ đã đầy đủ chưa? Thông thường khi cơ quan công tố ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử trước toà đại hình thì việc xét xử do một hội đồng

18
bao gồm thẩm phán và hội thẩm. Khi bắt đầu phiên toà, công tố viên đọc cáo
trạng mô tả một cách vắt tắt hành vi phạm tội, tội danh của bị cáo. Nếu bị cáo
không thực hiện quyền giữ im lặng thì thẩm phán hỏi bị cáo về hành vi phạm
tội và bị cáo phải trả lời. Tiếp theo sau là thủ tục xét hỏi từng nhân chứng và
xem xét các chứng cứ khác. Công tố viên và luật sư được quyền hỏi bị cáo và
các nhân chứng về bất kỳ vấn đề gì mà họ thấy cần thiết và có liên quan đến
vụ án trong việc buộc tội hay gỡ tội. Bị cáo và luật sư biện hộ cũng được
quyền hỏi lại hoặc đối chất với các nhân chứng và công tố viên. Đối với
những nước có cơ chế hội thẩm thì sau khi thẩm phán và các bên hỏi xong,
hội thẩm có quyền hỏi. Nếu xét xử có bồi thẩm đoàn thì bồi thẩm đoàn không
có quyền hỏi. Quá trình xét hỏi kết thúc khi công tố viên và luật sư biện hộ
đưa ra kết luận cùng những lập luận về các tình tiết của vụ án trong quá trình
xét xử tại phiên toà trước khi bị cáo nói lời sau cùng và toà án nghị án để ra
phán quyết.
Philip.L.Reichel coi hệ thống tranh tụng thường được thay thế cho sự
trả thù cá nhân. Theo như suy luận của xã hội thì quyền được khởi tố trước
tiên là thuộc về người bị hai, sau đó mở rộng ra đến họ hàng thân thích của
người bị hại rồi đến các thành viên khác trong nhóm quen biết của người đó

và cuối cùng là đến chính phủ. Trong quá trình đó, người buộc tội đã chuyển
từ cá nhân sang nhà nước.[ 21, tr120]. Tố tụng hình sự của Mỹ rất nhấn mạnh
đến vai trò của công tố hay người khởi tố. Người ta vẫn nói tới tư tố ở Anh
quốc và coi đây là một đặc trưng lớn của tố tụng hình sự ở nước này. Tuy
nhiên, khi lực lượng cảnh sát lớn mạnh, họ đã gánh vác dần trách nhiệm khởi
tố kẻ bị tình nghi phạm tội.
Như vậy, về quan niệm cũng như trong thực tế, loại hình tố tụng tranh
tụng coi việc khởi tố là xuất phát từ xã hội dân sự khi các quyền, tự do của họ
bị xâm phạm, mặc dù không loại trừ việc khởi tố của nhà nước. Đặc trưng

19
này của tố tụng tranh tụng đòi hỏi sự chủ động trong việc sử dụng tố quyền
của công dân, và công dân phải coi toà án là nơi mình có thể tìm đến để bảo
vệ mình, do đó chủ động sử dụng toà án để giải quyết các tranh chấp. Như
vậy, trong loại hình tố tụng tranh tụng, vai trò của các bên tham gia tố tụng
là chủ động còn toà có vai trò thụ động và trung lập.
Tố tụng tranh tụng đòi hỏi toà án phải kìm chế tham gia tìm hiểu về nội
dung vụ án tận tới khi các bên đã trình bầy hết các chứng cứ. Nếu toà án tham
gia tích cực vào vụ án, nhất là vào việc xét hỏi tại toà, công chúng sẽ cho rằng
Toà án là một bên tranh chấp và như vậy sẽ không đảm bảo công lý [ 27,tr. 5].
Tố tụng trạnh tụng hướng đến việc tìm kiếm sự thật khách quan của vụ
án bằng việc tranh luận tự do và cởi mở giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Philip.L.Reichel gọi tố tụng tranh tụng là một hệ thống tư pháp mang tính “thi
đấu thể thao.”[ 21, tr123] Hai bên phải thi đấu đến cùng trong một trận chiến
quyết liệt. Bên thắng là bên được coi là có được sự thật ở phía mình. Các bên
đều được khuyến khích đưa ra những chứng cứ đối lập để bác bỏ ý kiến của
đối phương. Như vậy, tố tụng tranh tụng là một quá trình cọ sát giữa những ý
kiến mâu thuẫn nhau. Chấp nhận và tôn trọng những mâu thuẫn là đặc điểm
của tố tụng tranh tụng.
Tố tụng tranh tụng đòi hỏi các bên phải trình bầy chứng cứ. Do vai trò

thụ động và trung lập của Toà án, các bên phải tự tìm, thu thập và trình bầy
chứng cứ một cách có hiệu quả nhất, thuyết phục nhất trước toà. Vì sự phức
tạp của các quy tắc tố tụng chứng cứ và luật nội dung, các bên thường không
tự mình tiến hành tố tụng mà phải có một đội ngũ luật gia chuyên nghiệp đại
diện trong các hoạt động tố tụng, đặc biệt là trước Toà.[ 27, tr. 5].
Khác với tố tụng tranh tụng, phiên toà trong tố tụng thẩm vấn không
phải là sự cạnh tranh giữa hai bên đối địch nhau mà là sự tiếp tục điều tra. Các
bên phải cung cấp tất cả các chứng cứ thích hợp cho toà án. Các thẩm phán

20
chứ không phải là các luật sư của bên nguyên và bên bị, sẽ gọi hỏi và kiểm tra
một cách tích cực các nhân chứng. Theo cách này, hệ tố tụng thẩm vấn cho
rằng sự thật có thể phải được tìm ra trong quá trình tiếp tục thẩm vấn, điều tra
tại toà. Vì rằng các bên có ý định che dấu sự thật nên nhà nước phải tham gia
sớm và liên tục vào việc thẩm vấn, điều tra.
Tố tụng tranh tụng được xem là cuộc tranh chấp giữa nhà nước và công
dân. Trong tố tụng hình sự thì đó là một cuộc đấu tranh giữa nhà nước và bị
cáo. Waldrom xác định hai bảo đảm cho hệ thống tranh tụng. Thứ nhất, nó sử
dụng việc kiểm tra chéo để thách thức hay huỷ lời khai của bị cáo. Mỗi bên
đều có dịp để hỏi về tính trung thực của nhân chứng, tìm sự thiên vị và chỉ ra
được cái mà nhân chứng biết thực sự chứ không phải cái mà họ nghĩ rằng họ
biết…Thứ hai là thay vì giữ độc quyền, công tố viên, luật sư, thẩm phán và
bồi thẩm đoàn cùng chia sẻ quyền lực. Công tố viên đại diện cho nhà nước cố
gắng để chứng minh tội của bị cáo. Luật sư bào chữa tranh luận về sự vô tội
của thân chủ và để đảm bảo rằng bị cáo có tất cả sự bảo vệ có thể có về mặt
pháp lý. Thẩm phán đóng vai trò trọng tài trong cuộc chơi và đảm bảo rằng
các cầu thủ phải tuân thủ các quy tắc của trò chơi [ 21, tr124.]
Qua đó cho thấy tố tụng tranh tụng thừa nhận một địa vị ngang bằng
giữa nhà nước và công dân. Bên nhà nước cũng như phía công dân đều được
tạo những cơ hội như nhau để tìm ra sự thật của vụ án. Điều này nói lên rằng

tố tụng tranh tụng gắn liền với nhà nước pháp quyền và xã hội công dân- nơi
công dân được thừa nhận địa vị bình đẳng với nhà nước.
Một đặc điểm nội bật của hệ thống tố tụng tranh tụng mà ở hệ thống tố
tụng thẩm vấn không có là yếu tố thú tội và mặc cả thú tội. Do tính chất khắc
nghiệt của việc tranh luận tại toà, cơ quan cảnh sát và công tố nhiều khi không
thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể “thắng” tại phiên toà khi họ muốn truy tố
một bị cáo. Do đó, các nhà lập pháp đã đặt ra nhiều quy định để khuyến khích

21
bị cáo nhận tội hoặc cho phép thoả thuận để bị can, bị cáo nhận tội, khai báo
cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị can, bị cáo có thể được miễn
truy tố về một hoặc một số tội hay được giảm hình phạt sau này. Việc mặc cả
thú tội được diễn ra giữa cơ quan cảnh sát, viện công tố, và bị can, bị cáo
cùng luật sư của họ[27, tr. 5].
Khác với loại hình tố tụng tranh tụng, loại hình tố tụng thẩm vấn không
chấp nhận sự mặc cả thú tội. Joutsen giải thích rằng việc mặc cả buộc tội với
nghĩa là sự thoả thuận công khai giữa bị cáo và công tố về việc kết tội không
được phép cả về mặt lý thuyết lẫn không được khuyến khích về mặt thực tế
trong hệ thống luật lục địa. Về lý thuyết, việc buộc tội do mặc cả xâm phạm
nguyên tắc hợp pháp mà theo nguyên tắc này thì công tố phải kết tội đúng với
những gì mà bị cáo bị nghi là phạm phải chứ không phải kết tội theo ý muốn
của bị cáo. Về thực tế, công việc thực tiễn hàng ngày của công tố không bao
gồm các cơ hội để thương lượng giữa công tố viên với bị cáo hoặc luật sư của
họ [ 21, tr122-123].
Như vậy, có thể khái quát những điểm khác nhau giữa tố tụng tranh
tụng và tố tụng thẩm vấn như sau:
Thứ nhất, hệ thống thẩm vấn nhấn mạnh vào giai đoạn điều tra của quá
trình tố tụng nên việc điều tra cẩn thận sẽ đảm bảo xác định chính xác tội
trạng thực tế. Trong khi đó loại hình tố tụng tranh tụng lại chú trọng vào giai
đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ để đảm bảo rằng bị cáo

đươc xét xử một các công bằng.
Thứ hai, loại hình tố tụng tranh tụng chặt chẽ hơn đối với sự tham gia
của tư pháp cả trong quá trình điều tra và xét xử. Trong khi trong tố tụng thẩm
vấn việc tham gia của thẩn phán là trực tiếp thì trong tố tụng tranh tụng thẩm
phán chỉ ảnh hướng gián tiếp.

22
Thứ ba, đối với tố tụng tranh tụng, quy trình tố tụng chỉ chính thức bắt
đầu từ khi mở phiên toà xét xử còn các hoạt động điều tra trước đó được coi
là bí mật. Trong khi đó, đối với tố tụng thẩm vấn quy trình tố tụng bắt đầu từ
khi khởi tố vụ án.
Thứ tư, vì loại hình tố tụng thẩm vấn cho rằng tất cả mọi người tham
gia vào vụ án đều cố gắng tìm ra sự thật nên bị cáo được mong đợi sự hợp tác.
Nội dung hợp tác có thể là: cung cấp thông tin cho điều tra viên; trả lời các
câu hỏi tại phiên toà. Loại hình tố tụng tranh tụng lại không mong đợi, cũng
như không yêu cầu bị cáo giúp đỡ cho việc điều tra. Trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về công tố viên, còn bị cáo vẫn có thể tiếp tục im lặng.
Thứ năm, trong loại hình tố tụng tranh tụng vai trò của thẩm phán là vai
trò của người trọng tài. Các luật sư có thể khai thác và trình bầy các vụ việc
của mình để sau đó bồi thẩm đoàn sẽ quyết định về vụ án. Toà án trong loại
hình tố tụng thẩm vấn là một thẩm tra viên nhưng được bổ sung thêm quyền
quyết định vụ án. Thẩm phán hỏi phần lớn các câu hỏi và phát triển sự kiện
trong khi các luật sư chủ yếu chỉ tranh luận để giải thích những gì thẩm phán
sẽ tuyên liên quan đến các dữ kiện của vụ án.
Tuy nhiên, không có một sự cách biệt hoàn toàn giữa hai loại hình tố tụng
tranh tụng và thẩm vấn. Tố tụng tranh tụng là mô tình đặc trưng của hệ thống
luật Anh- Mỹ. Tố tụng thẩm vấn là loại hình đặc trưng của hệ thống luật Châu
Âu lục địa. Qua nghiên cứu thấy rằng hiện nay, hai hệ thống này đang dần
dần chấp nhận những yếu tố hợp lý của nhau. Trong quá trình đó, một số yếu
tố của tố tụng tranh tụng đã được du nhập vào loại hình tố tụng thẩm vấn và

ngược lại. Điển hình là hệ thống luật Anh- Mỹ cũng đã chấp nhận việc dùng
công tố viên nhà nước để thực hiện việc truy tố hình sự thay cho bồi thẩm
đoàn. Các quy tắc về khai báo đã buộc có sự trao đổi về chứng cứ giữa hai
bên đối tụng dẫn đến quá trình tìm kiếm sự thật gần gũi hơn với loại hình

23
thẩm vấn. Ngoài ra vai trò của thẩm phán trong tố tụng tranh tụng cũng được
nâng lên trong một số lĩnh vực như hướng dẫn thương lượng buộc tội hay xác
định bồi thẩm đoàn được phép xem xét những vật chứng, nhân chứng nào.
Kết quả của sự giao lưu về mặt tố tụng này là mỗi một loại hình tố tụng, lại có
những yếu tố của loại hình tố tụng khác.
Tố tụng tranh tụng là một loại hình tố tụng dân chủ. Trong loại hình tố
tụng, quyền và lợi ích của các bên được đảm bảo hơn. Cách thức đối tụng
trong phiên toà và việc san sẻ nghĩa vụ chứng minh đảm bảo cho quá trình tố
tụng diễn ra một cách khách quan, công bằng. Đối tụng cho phép việc kiểm
tra chéo để xác định tính đúng đắn cuả các lời khai và chứng cứ, bởi các bên
đều được tự do tranh luận và đưa ra ý kiến của mình về các vấn đề liên quan
đến vụ án. Bên cạnh đó, quyền của các bên tham gia tranh tụng, giữa nhà
nước và cá nhân là ngang nhau nên có ý nghĩa bảo đảm bình đẳng trong quá
trình tố tụng.
Tuy nhiên, loại hình tố tụng tranh tụng cũng có những điểm hạn chế. Do
sự mở rộng quyền tư tố nên sự kiểm soát tội phạm từ phía nhà nước sẽ gặp
phải những khó khăn. Hơn nữa, do nghĩa vụ chứng minh được chia đều giữa
các bên, toà án chỉ là người trung gian nên tố tụng tranh tụng quan tâm đến
việc con người được phán xét như thế nào hơn là việc anh ta đã làm gì trên
thực tế.
Tố tụng tranh tụng hình thành và phát triển trong những môi trường xã hội
nhất định. Mặc dù có những hạn chế, nhưng đây là một loại hình dân chủ, nên
có thể được ứng dụng ở những quốc gia khác nhau. Hình thành ở các nước
Anh, Mỹ nhưng loại hình tố tụng tranh tụng cũng được du nhập sang các

nước Châu Á. Tuy nhiên, việc áp dụng tố tụng tranh tụng không phải là một
quá trình đơn giản mà cần phải có những điều kiện cần thiết.

×