Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật
LÊ VIỆT HÀ
Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
trong luật hình sự việt nam
Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS nguyễn tất viễn
Hà nội - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LÊ VIỆT HÀ
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
T
rang
MỞ ĐẦU
Chương 1: SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TỘI MUA BÁN, ĐÁNH
TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
1.2 Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong lịch sử
pháp luật hình sự Việt Nam
1.3. Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong pháp
luật hình sự một số nước trên thế giới
Chương 2: TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT
TRẺ EM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1 Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em
2.2 Đường lối xử lý đối với tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt
trẻ em
2.3 Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm
1999 về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ
EM
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
3. 2 Các nguyên tắc hoàn thiện những quy định của pháp luật
hình sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
3.3 Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
CHND Cộng hoà nhân dân
DCCH Dân chủ cộng hoà
LB Liên bang
Nxb Nhà xuất bản
TAND Toà án nhân dân
TANDTC Toà án nhân dân tối cao
tr. Trang
TS. Tiến sĩ
TNHS Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng số 1: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
theo số vụ và số bị cáo (Từ năm 2004 đến năm 2008)
Bảng số 2: Tỷ lệ số vụ mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em trong tổng số vụ phạm tội nói chung
Bảng số 3: Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm
tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (2004 - 2008)
Bảng số 4: Đặc điểm nhân thân bị cáo phạm tội mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (2004 - 2008)
Bảng số 5: Cơ cấu độ tuổi của bị cáo phạm tội mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (2004 - 2008)
Trang
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
theo số vụ và số bị cáo
Biểu đồ số 2: Cơ cấu độ tuổi của bị cáo phạm tội mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
Trang
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nghiên cứu về xã hội và quy luật phát triển của xã hội, Các Mác
đã khẳng định rằng tương lai của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc
giáo dục thế hệ công dân đang lớn lên. Chính vì vậy mà việc chăm lo và bảo
vệ trẻ em từ lâu đã là mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế và từng quốc
gia trên thế giới. Ngày 20 tháng 11 năm 1959, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã
nhất trí thông qua “Tuyên ngôn về quyền trẻ em”. Tinh thần cơ bản của tuyên
ngôn là “loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có”
[21].
Ở Việt Nam, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “vì lợi ích
mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, Nhà nước ta luôn luôn
đặt ưu tiên hàng đầu chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em, là một trong
những quốc gia sớm ký kết, tham gia vào các Công ước, Nghị định thư của
Liên hợp quốc về chống buôn bán người. Bộ luật Hình sự năm 1999 là một
trong những công cụ hữu hiệu nhất góp phần đắc lực trong việc chăm sóc và
bảo vệ trẻ em.
Tuy nhiên, trong những năm qua và hiện nay, trẻ em đang trở thành
nạn nhân của tội phạm mua bán người - một trong những tội phạm nguy
hiểm, gây nhức nhối cho toàn xã hội. Trên thế giới, buôn bán người, đặc biệt
là buôn bán phụ nữ, trẻ em là ngành công nghiệp tội phạm lớn thứ hai, chỉ sau
buôn bán ma tuý và ngày càng phát triển nhanh chóng. Nó không chỉ là hiểm
họa an ninh xã hội của mỗi quốc gia mà từ lâu đã trở thành mối quan tâm của
cả cộng đồng quốc tế. Trong thời gian qua, nạn buôn bán trẻ em đang ngày
càng gia tăng, diễn biến phức tạp và mang tính toàn cầu. Những trẻ em vô tội
trên khắp hành tinh trong đó có nhiều trẻ em Việt Nam đã và đang trở thành
2
nạn nhân của các tổ chức, đường dây buôn bán người hoạt động xuyên quốc
gia, có sự cấu kết giữa các đối tượng trong nước với nước ngoài, giữa châu
lục này với châu lục khác.
Bên cạnh đó, tình trạng đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, trẻ sơ sinh ngày
càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Ở một số địa phương như Hà Giang, Yên
Bái, Lào Cai, Lai Châu , bọn tội phạm còn lợi dụng đêm tối, sơ hở của gia
đình nạn nhân và lực lượng chức năng, tổ chức tấn công, cướp, chiếm đoạt trẻ
em bán ra nước ngoài.
Pháp luật Hình sự Việt Nam từ khi được pháp điển hoá lần thứ nhất
năm 1985 đã quy định Tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em tại Điều
149, Chương Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối
với người chưa thành niên. Đến lần pháp điển hoá thứ hai, trong Bộ luật Hình
sự năm 1999 đã đưa tội này về Chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người với tên tội danh là Tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em tại Điều 120.
Việc quy định Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong
Bộ luật Hình sự đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần tích cực và có hiệu
quả trong việc phòng, chống nạn buôn bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Tuy
nhiên, về mặt lập pháp, điều 120 của Bộ luật Hình sự 1999 còn nhiều điểm
bất cập, gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Điều luật không đưa ra định
nghĩa về các hành vi mua bán trẻ em, một số tình tiết quy định tại Điều 120
BLHS năm 1999 chưa được hướng dẫn để áp dụng thống nhất trong thực
tiễn Chính vì vậy, việc xem xét sửa đổi Điều 120 là một trong những nội
dung quan trọng của việc sửa đổi BLHS năm 1999 của Quốc hội Khóa XII.
Cho đến nay thực sự chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về
tội danh này một cách thấu đáo trên mọi bình diện của nó, hầu hết mới chỉ
3
dừng lại ở việc trình bày đặc điểm các yếu tố cấu thành tội phạm, các hình
phạt, nội dung các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc mới
chỉ nghiên cứu riêng lẻ hành vi mua bán trẻ em (cùng với hành vi mua bán
phụ nữ) mà chưa có sự đi sâu nghiên cứu để phân tích, tìm hiểu và đưa ra
những kiến giải pháp lý đối với các tội đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em
Vì vậy, việc nghiên cứu Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ
em một cách độc lập và toàn diện để làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực
tiễn áp dụng pháp luật, góp phần hoàn thiện Bộ luật Hình sự đồng thời đưa ra
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em nói riêng
là hết sức quan trọng. Đây cũng là luận chứng cho việc học viên lựa chọn đề
tài: “Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong luật hình sự
Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, trước diễn biến phức tạp của tình hình mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, đặc biệt là tình hình mua bán trẻ em,
đã có nhiều công trình khoa học, sách báo pháp lý chuyên ngành nghiên cứu
về loại tội phạm này (chủ yếu là tội mua bán trẻ em) như:
Đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam
- thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (Luận văn Thạc sĩ luật học, (2006)
của Nguyễn Quyết Thắng, nghiên cứu về tình hình mua bán phụ nữ, trẻ em ở
Việt Nam trong những năm 2000 - 2006, tìm ra nguyên nhân và đưa ra các
giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Một số
vấn đề lý luận về tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em (Tạp chí Thông tin khoa
học xét xử, số 3/2008) của Kim Long; Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ,
trẻ em và công tác xét xử của ngành toà án nhân dân (Tạp chí Thông tin khoa
4
học xét xử, số 3/2008) của Chí Hiếu; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và của Trường Đại
học Luật Hà Nội.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khoa học như: "Điều tra tội
phạm mua bán trẻ em qua biên giới của lực lượng cảnh sát nhân dân" của
Phạm Đăng Quyền, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, năm 1999; Thực
tiễn xét xử các vụ án hình sự về các tội mua bán phụ nữ, trẻ em và các kiến
nghị về Luật Phòng, chống buôn bán người của Đặng Thị Thanh và Thực tiễn
điều tra các vụ án về buôn bán phụ nữ, trẻ em - Một số kiến nghị về mặt lập
pháp của Phạm Văn Hùng tại Hội thảo đề xuất xây dựng Luật phòng chống
buôn bán người, năm 2007
Các công trình nghiên cứu này hoặc chỉ mới phân tích rất khái quát
những vấn đề lý luận và thực tiễn của tội mua bán trẻ em mà chưa đề cập đến
tội đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (nếu có thì cũng chỉ mới dừng lại ở việc
trình bày một cách chung chung về đặc điểm các yếu tố cấu thành tội phạm;
các hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS ). Bên cạnh đó, đối
với tội mua bán trẻ em chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và
thường theo hướng nghiên cứu chung với tội mua bán phụ nữ, phân tích một
số đặc điểm về tình hình tội phạm, nguyên nhân và nêu ra các biện pháp đấu
tranh phòng ngừa. Chưa có một công trình nào nghiên cứu tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em một cách độc lập, toàn diện và có hệ thống dưới
góc độ luật hình sự.
Luận văn được thực hiện trong bối cảnh Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật hình sự (được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm
2009, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010) đang trong quá trình soạn
thảo. Để tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống buôn bán người ở nước
5
ta và thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, Luật đã quy định
tội buôn bán người trên cơ sở tội mua bán phụ nữ (Điều 119 - BLHS năm
1999) và tội mua bán trẻ em (tách từ Điều 120 - BLHS năm 1999). Như vậy,
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 thì Điều 120
được sửa thành Tội đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em do tội mua bán trẻ em
đã được tách ra để quy định tại Điều 119 - Tội buôn bán người. Mặc dù đã có
những sửa đổi theo hướng tiến bộ và tiếp cận gần hơn với pháp luật quốc tế
nhưng Điều 119 và Điều 120 trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để giải quyết thấu
đáo hơn nữa.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội
mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 Bộ luật Hình sự
năm 1999, trên cơ sở thực tiễn đấu tranh với tội phạm này đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận văn đặt ra cho mình các
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ về mặt khoa học các dấu hiệu pháp lý của Tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em;
6
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước
có điều kiện giống Việt Nam về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ
em
- Đánh giá thực trạng về tình hình Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em trong những năm gần đây và thực tiễn áp dụng các quy định của
Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội danh này;
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
các quy định của Bộ luật Hình sự trong đấu tranh phòng, chống Tội mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em;
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến Tội mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong Điều 120 Bộ luật Hình sự năm
1999. Tuy nhiên, do được thực hiện trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự năm 1999 nên Luận văn đã tham khảo và cập nhật những thông tin
trong quá trình dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự
(đã được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như thành tựu của các
chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà nước và
pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học , những luận điểm
7
khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết
đăng trên các tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên
cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là: hệ thống, lịch sử, so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê
5. Điểm mới của luận văn
Đề tài là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu một cách có hệ thống về
Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới góc độ pháp lý hình sự.
Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của
luận văn:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về Tội mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em như: quá trình hình thành và phát triển các quy phạm
pháp luật quy định về tội phạm này; khái niệm, các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng; trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội
- Bằng các chỉ số tội phạm học, nêu và đánh giá dược tình hình tội
phạm và thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó chỉ ra những vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này.
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp
dụng những quy định của pháp luật hình sự về Tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, đề tài là một công trình nghiên
cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với
8
cuộc đấu tranh phòng, chống Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
nhất là trong giai đoạn hiện nay.
- Về mặt lý luận, đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999 đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
- Về mặt thực tiễn, những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết quy định tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm
đoạt trẻ em trong Bộ luật Hình sự
Chương 2: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
9
CHƢƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TỘI MUA BÁN,
ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
1.1.1. Trẻ em - đối tượng đặc biệt cần được sự bảo vệ của pháp luật
Có thể khẳng định rằng, trẻ em luôn là đối tượng được quan tâm của
gia đình và xã hội. Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của
đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm trẻ em như búp trên cành và đó
cũng là quan niệm của cả dân tộc ta về thiếu niên nhi đồng - thế hệ măng non
của đất nước. Chăm sóc, bảo vệ trẻ em là chăm lo cho hạnh phúc của chính
chúng ta hôm nay, của tương lai chúng ta mai sau. Đó là truyền thống, đạo lý
tốt đẹp của dân tộc ta. Việc quan tâm, chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ trẻ ở Việt
Nam được Đảng và Nhà nước ta chú ý từ rất sớm. Đã có nhiều chỉ thị, nghị
quyết của Đảng đề cập tới vấn đề này, trong đó đều thống nhất khẳng định
đây là trách nhiệm to lớn của Đảng, toàn dân, đồng thời thể hiện tính ưu việt
của xã hội ta. Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
Đảng và Nhà nước ta với sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em đã có nhiều chủ
trương, chính sách hướng tới mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho sự phát triển toàn
diện về thể chất, tinh thần và đạo đức của trẻ em; đã ban hành và tổ chức thực
hiện nhiều chính sách tầm chiến lược, nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng
để đảm bảo mọi trẻ em đều có quyền được sống, phát triển, tham gia và được
bảo vệ không bị xâm hại trong môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện,
không bị phân biệt đối xử. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, cùng với nhiều
chính sách kinh tế, xã hội được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công
10
ước quốc tế về Quyền trẻ em (ngày 20 tháng 2 năm 1990). Việt Nam là quốc
gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này.
Với quan điểm cơ bản coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trẻ em
là tương lai của đất nước, Nhà nước ta đã luôn đặt lợi ích tốt nhất của trẻ em
lên hàng đầu trong các quyết định liên quan đến phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước, cộng đồng và gia đình. Đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ em là đầu tư
cho an toàn xã hội, phát triển con người, là bảo hiểm cho sự phát triển bền
vững của đất nước. Có thể khẳng định, bảo vệ trẻ em là bảo vệ quyền con
người. Việc đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ em là đầu tư cho phát triển nguồn
nhân lực, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc góp phần vào
sự phát triển bền vững của đất nước.
Trong giai đoạn đất nước đổi mới, Hệ thống pháp luật Việt Nam bao
gồm nhiều ngành luật, có đối tượng điều chỉnh là các nhóm quan hệ xã hội
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trẻ em với tính cách là một chủ thể pháp
luật, các quan hệ xã hội về trẻ em cũng là một trong những đối tượng điều
chỉnh của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật nước ta. Pháp luật về trẻ
em có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều nhóm quan hệ xã hội,
đến nhiều ngành luật khác nhau. Các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật Việt
Nam như Luật Hiến pháp, Luật Quốc tịch, Luật Hành chính, Luật Dân sự,
Luật Tố tụng dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Hình sự, Luật Tố tụng
hình sự đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc thù riêng của ngành luật
mình. Ví dụ: trong lĩnh vực Luật Hiến pháp, trẻ em được xem như một công
dân đặc biệt. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em được điều chỉnh dưới góc độ phạm
trù quyền con người. Do vậy, Luật Hiến pháp bảo vệ quyền trẻ em bằng việc
quy định các quyền cơ bản nhất của trẻ em, bao gồm quyền được bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục. Đồng thời, Luật Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm
11
của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ các quyền cơ bản này.
Luật Quốc tịch là ngành luật thuộc hệ thống luật công, điều chỉnh mối quan
hệ giữa Nhà nước với dân cư sống trên lãnh thổ Việt Nam. Luật Quốc tịch
bảo vệ trẻ em bằng các quy định về sự có, mất, thay đổi quốc tịch, quốc tịch
của người chưa thành niên, thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề quốc
tịch. Quốc tịch là một trong những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của trẻ
em; là căn cứ để trẻ em được hưởng sự bảo hộ pháp lý của Nhà nước, là một
trong những điều kiện cơ bản để xác định tình trạng nhân thân của một con
người từ khi sinh ra cho đến khi chết. Rõ ràng, Luật Quốc tịch có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Luật Hành chính là một ngành
luật về quản lý Nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực quản lý Nhà nước. Trẻ em với tư cách là một chủ thể xã hội, cũng là đối
tượng điều chỉnh của Luật Hành chính. Mọi lĩnh vực mà khi trẻ em tham gia
như hoạt động học tập, vui chơi, giải trí hay các hoạt động chăm sóc sức
khoẻ, y tế, giáo dục đều chịu sự quản lý của Nhà nước. Cũng như các ngành
luật khác, Luật Hành chính coi trẻ em là một đối tượng đặc biệt nên khi quy
định trách nhiệm hành chính đối với trẻ em, Luật Hành chính đều có quy định
riêng áp dụng đối với trẻ em vi phạm hành chính. Luật Hành chính còn tạo ra
một cơ chế quản lý đối với trẻ em vi phạm hành chính bao gồm các biện pháp
xử lý hành chính như giáo dục tại xã phường, thị trấn; đưa vào trường giáo
dưỡng và các tổ chức, cơ sở nhằm giáo dục trẻ em, đưa trẻ em trở lại cuộc
sống bình thường. Như vậy, có thể nói Luật Hành chính cũng góp phần quan
trọng vào việc bảo vệ quyền trẻ em dưới góc độ quản lý Nhà nước, một đặc
thù riêng của Luật Hành chính. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004 là văn bản chuyên biệt có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định cụ thể
về quyền và bổn phận của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và của
toàn xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Luật này đã xác
12
định: "trẻ em, không phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú,
con đẻ, con nuôi, con riêng, con chung; không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc người giám
hộ, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy
định của pháp luật" [30].
Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội vẫn còn xảy ra nhiều hành vi phạm
pháp như nạn bạo hành trẻ em diễn ra ở không ít gia đình, ở một số nơi thuê
mướn việc làm, thậm chí ngay cả trong lớp học và cơ sở nuôi dạy trẻ, nghiêm
trọng hơn, trẻ em đang trở thành một món hàng để trao đổi, mua bán. Công
tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta đang đứng trước những vấn
đề bức xúc đòi hỏi cần phải giải quyết. Các ngành luật trong hệ thống pháp
luật Việt Nam như Luật Hành chính, Luật Quốc tịch không có đủ chế tài để
bảo vệ trẻ em trong khi đó, Luật Hình sự với hệ thống các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi
là tội phạm đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy "là một
trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm" [4, tr. 4]. Luật Hình sự là một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ giữa
Nhà nước và người phạm tội. Trẻ em là một chủ thể đặc biệt của pháp luật
hình sự. Pháp luật hình sự có chính sách hình sự riêng đối với trẻ em nhằm
bảo vệ trẻ em khi họ là đối tượng bị tội phạm xâm hại, đồng thời cũng quy
định TNHS nhưng theo hướng giảm nhẹ đối với người chưa thành niên khi họ
chính là người thực hiện tội phạm. Chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội thể hiện thống nhất trong những quy định cụ thể của pháp
luật hình sự về TNHS, về nguyên tắc xử lý, về hệ thống hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác. Đặc biệt, luật hình sự quy định những hình phạt nghiêm
khắc đối với các tội phạm xâm hại đến quyền của trẻ em.
13
Ở nước ta, hiện tượng buôn bán người đã xuất hiện từ lâu và bị lên án
một cách mạnh mẽ. Buôn bán trẻ em thực sự là tội ác, gây nhức nhối cho toàn
xã hội, từ lâu đã trở thành mối quan tâm của cả cộng đồng. Trẻ em bị buôn
bán đã phải rơi vào những hoàn cảnh sống rất thương tâm. Các em bị bóc lột
và bị lạm dụng về tình dục một cách thậm tệ, đôi khi còn ở ngay cả những nơi
làm việc thông thường như lao động trong nhà máy, giúp việc trong gia
đình Buôn bán trẻ em không chỉ tác động trực tiếp đến cuộc sống, sức khỏe,
nhân phẩm, tinh thần của trẻ mà còn tác động tiêu cực đến xã hội trên nhiều
phương diện khác nhau như: ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, đời sống văn
hóa, tinh thần, chính trị, quan hệ gia đình và các dịch vụ xã hội khác. Bên
cạnh đó, hiện nay đã xuất hiện những tổ chức, đường dây buôn bán người
hoạt động xuyên quốc gia, đe dọa nghiêm trọng đến quyền được bảo vệ, được
sống hạnh phúc của con người nói chung và của trẻ em nói riêng. Trước thực
trạng đó, việc tiếp tục áp dụng chế tài pháp lý của các ngành luật tương ứng
khác ít nghiêm khắc hơn luật hình sự đối với hành vi mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em sẽ không còn đủ sức ngăn chặn nữa. Do đó, việc bảo vệ trẻ
em bằng Luật Hình sự với các chế tài nghiêm khắc là hết sức cần thiết. BLHS
năm 1985 đã tội phạm hóa những hành vi này thành tội bắt trộm, mua bán
hoặc đánh tráo trẻ em quy định tại Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân
gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên. Đến lần pháp điển
hóa thứ hai, BLHS năm 1999 đã đưa tội này về Chương các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người với tội danh mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em cho phù hợp với khách thể loại bị xâm
phạm. Việc quy định tội phạm này trong BLHS là hết sức quan trọng, tạo cơ
sở pháp lý cho công tác phòng, chống, bảo vệ trẻ em khỏi nạn buôn bán
người. BLHS năm 1999 coi tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là
tội phạm hết sức nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
14
phẩm của con người thể hiện ở mức hình phạt quy định đối với tội phạm này
rất nghiêm khắc, hình phạt cao nhất được quy định là tù chung thân. Mức
hình phạt tối đa được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có các tình tiết
tăng nặng như: có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, vì động cơ đê hèn
Ngoài việc bị phạt tù, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu
đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ
một năm đến năm năm.
1.2.1. Những đặc điểm pháp lý hình sự của tội mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em
Quyền con người luôn là mục tiêu phấn đấu của tất cả loài người tiến
bộ. Mỗi bước phát triển quyền con người gắn liền với cuộc đấu tranh của con
người nhằm cải tạo tự nhiên, phát triển xã hội, xây dựng và hoàn thiện cơ chế
đảm bảo quyền con người. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đặt con người vào
trung tâm của các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, quyền con người là
nhân tố cơ bản tạo nên động lực của sự phát triển đất nước. Công dân không
chỉ có quyền bất khả xâm phạm về thân thể mà còn được pháp luật bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Đây chính là trách nhiệm của nhà
nước nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện tốt các quyền của mình.
Với những đặc trưng về thể chất, trẻ em là một trong những nhóm
quan hệ xã hội dễ bị tổn thương nhất cần được quan tâm bảo vệ đặc biệt. "Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai", trẻ em là tương lai của nhân loại, của mỗi
dân tộc, mỗi gia đình, dòng họ. Vì vậy, nâng cao trách nhiệm chăm sóc và
giáo dục trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội. Ngày 10/2/1949, Đại Hội
đồng Liên hợp quốc đã thông qua và tuyên bố Nghị quyết số 217A về quyền
con người. Tại Điều 25, Liên hợp quốc đã thông báo rằng: "Trẻ em có quyền
15
được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt, tất cả trẻ em trong hay ngoài giá thú đều
được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau".
Tuy nhiên, trong khi các điều kiện xã hội đang ngày càng vận động
biến đổi không ngừng như hiện nay thì vấn đề bảo vệ quyền con người là hết
sức quan trọng và đang đặt ra những vấn đề rất bức xúc. Hiện nay, các tội
xâm phạm đến quyền con người đang ngày càng phát triển, diễn biến vô cùng
phức tạp. Trong đó, tội phạm buôn bán người mà đặc biệt là buôn bán trẻ em
là một trong những tội phạm nguy hiểm, gây nhức nhối cho toàn xã hội.
BLHS năm 1999 đã quy định Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
tại Chương XII BLHS năm 1999 "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người". Đây là tội phạm bao gồm nhiều hành vi
phạm tội độc lập với nhau nhưng cùng xâm phạm nghiêm trọng đến quyền
được chăm sóc, bảo vệ và giáo dục của trẻ em. Trẻ em bị mua bán, đánh tráo
hoặc chiếm đoạt có thể bị đẩy vào tình trạng bệnh tật, cô đơn và bị lạm dụng
cùng cực. Tội phạm này xâm phạm đến nhóm quan hệ được pháp luật hình sự
bảo vệ là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người. Trước
đây, trong BLHS năm 1985 do quan niệm tội phạm này xâm hại trực tiếp đến
quan hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái; đó là quyền của trẻ em được vui
chơi, phát triển lành mạnh trong sự chăm lo, bảo vệ của cha mẹ và quyền
cũng như nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ con cái của cha mẹ nên tội này được quy
định trong Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội
phạm đối với người chưa thành niên.
Ngày nay, loại tội phạm này đang ngày càng phát triển, diễn biến vô
cùng phức tạp và hậu quả gây ra cho xã hội thật khó lường vì tính nguy hiểm
cao, ảnh hưởng rất lớn đến các nạn nhân - là trẻ em - lứa tuổi còn quá non nớt
và dễ bị tổn thương. Việc trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trực
tiếp xâm hại đến quyền được sống trong sự thương yêu, đùm bọc của gia
16
đình, quyền được chăm sóc, được bảo vệ đặc biệt, được phát triển trong môi
trường lành mạnh của trẻ em. Thực tế cho thấy trẻ em là nạn nhân của tội
phạm này có thể bị đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, bị xúc
phạm nhân phẩm, danh dự, bị chà đạp lên quyền sống, quyền được hưởng
hạnh phúc trong sự chăm lo, bảo vệ của gia đình và xã hội. Hành vi mua bán,
đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em đã xâm hại đến quan hệ gia đình giữa cha
mẹ và con cái đồng thời xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của trẻ em, nhưng sự xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của trẻ em thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi vì vậy, khách thể trực tiếp không phải là quan hệ gia đình mà là tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của trẻ em. Do đó, tội phạm này trong
BLHS năm 1999 đã đưa về chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người với tội danh "Mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em" là hoàn toàn hợp lý.
Về mặt khách quan, tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
quy định về ba hành vi: mua bán, đánh tráo và chiếm đoạt. Trên thực tế, việc
một điều luật quy định về đa hành vi không phải là hiếm gặp. Tuy nhiên,
trong thực tiễn áp dụng pháp luật, chúng ta có thể thấy mức độ và tính chất
nguy hiểm cho xã hội của ba hành vi này có một khoảng cách rất lớn mặc dù
cùng một đối tượng tác động là trẻ em. Rõ ràng mua bán trẻ em gây ra những
hậu quả nặng nề và nguy hiểm cho xã hội lớn hơn nhiều so với tội đánh tráo
hoặc chiếm đoạt trẻ em. Do đó, việc quy định ba hành vi này trong cùng một
điều luật sẽ dẫn đến những bất cập và gây ra những khó khăn cho thực tiễn áp
dụng pháp luật. Bên cạnh đó, trên thực tế, tội phạm buôn bán trẻ em luôn
được thực hiện với nhiều giai đoạn và nhiều hành vi khác nhau mà không chỉ
đơn thuần là hành vi mua và bán mà còn có các hành vi tuyển dụng, vận
17
chuyển, chuyển giao, chứa chấp nhận người nhằm mục đích bóc lột những
hành vi này cũng cần phải được tội phạm hóa.
Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em phải là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi mua
bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Động cơ để
người phạm tội thực hiện hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
có thể là vì lợi nhuận, để trả thù cá nhân
Về mục đích, theo Nghị định thư quốc tế về chống buôn bán người thì
mục đích "để bóc lột" là một trong những yếu tố bắt buộc để cấu thành tội
buôn bán người (trong đó có tội mua bán trẻ em). Đây cũng chính là một
trong những dấu hiệu để phân biệt "buôn bán người" với "đưa người di cư trái
phép" và các tội phạm khác. Cùng là một hành vi đưa người sang bên kia biên
giới nhưng sau đó, người di cư trái phép được tự do định đoạt cuộc sống của
mình còn người bị buôn bán thì phải sống trong sự kiềm tỏa và bị bóc lột bởi
bọn buôn người (thu lợi nhuận từ việc người đó hoạt động mại dâm, lao động
khổ sai ). Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, cũng có hành vi mua
bán nhưng không phải để khai thác, bóc lột mà vì mục đích nhân đạo thì
không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội và không phải là tội phạm.
Chủ thể của tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là cá nhân
có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Hiện
nay, trên thế giới đã xuất hiện những trường hợp mua bán người được thực
hiện thông qua hoạt động của các tổ chức như dưới hình thức xuất khẩu lao
động, văn phòng giới thiệu việc làm, văn phòng con nuôi Trong các trường
này thì việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân không thể đảm bảo
việc chấm dứt việc phạm tội và trừng trị nghiêm minh tội phạm nếu tội phạm
đó được thực hiện được thực hiện thông qua một tổ chức. Hơn nữa, trong
18
nhiều trường hợp, lợi nhuận mà các tổ chức này thu được từ việc buôn bán trẻ
em còn cao hơn, nhiều hơn so với các cá nhân. Do đó, để đảm bảo các chế tài
hiệu quả sẽ được áp dụng trong việc phòng chống tội phạm thì cần phải quy
định trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức này. Đây là vấn đề mới, trách
nhiệm pháp lý của pháp nhân hiện chưa được quy định ở Việt Nam.
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, hiện nay trong pháp
luật Việt Nam chưa có khái niệm đầy đủ về tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em. Tuy chưa có một định nghĩa chuẩn từ các nhà lập pháp
nhưng xuất phát từ những phân tích về mặt lý luận trên đây và qua thực tiễn
xét xử, có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội mua bán, đánh
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em như sau:
Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý, gây tổn hại hoặc đe doạ đến quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục của trẻ em.
Từ khái niệm nêu trên và các quy định của pháp luật hình sự, có thể đi
sâu và làm sáng tỏ bản chất xã hội cũng như bản chất pháp lý qua các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
Cần phải xác định tội buôn bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, đặc biệt là
tội mua bán trẻ em là tội phạm nghiêm trọng cần phải trừng trị một cách
nghiêm khắc hơn nữa, nghiêm trị những kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan
cố chống đối, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; phạm tội có tổ chức,
có tính chất chuyên nghiệp, gây hậu quả nghiêm trọng Mặt khác, ngày càng
có nhiều tổ chức phạm tội xuyên quốc gia nên cần có sự quan tâm và hợp tác
giữa các nước trong lĩnh vực trao đổi thông tin về tội phạm (như thủ đoạn
hành vi phạm tội, phương pháp phát hiện, điều tra tội phạm ); quy định về