Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Thủ tục giải quyết các vụ án đối với người chưa thành niên (trên cơ sở số liệu của địa bàn tỉnh Bình Dương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



VÕ HUỲNH NGỌC THỦY



THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
(TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƢƠNG)

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí



HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm


bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Võ Huỳnh Ngọc Thủy


LỜI CẢM ƠN

Phải chăng tiếp tục học tập sau Đại học vẫn là hạnh phúc lớn của đa số cán
bộ công chức, đặc biệt là đối với những nữ cán bộ công chức có gia đình? Bởi thế,
bản thân em đã vô cùng hạnh phúc trong ngày đầu đặt chân vào giảng đƣờng dự
khai giảng lớp Cao học 17, khóa học 2011–2013. Thời gian thấm thoát qua, giờ đây
niềm hạnh phúc ấy đƣợc nhân lên gấp bội lần khi em bắt đầu viết những dòng Luận
văn tốt nghiệp. Vậy là sau chặng hành trình ngọt ngào tình Thầy, tình bạn, em đã đi
và đã đến! Em xin cảm ơn tất cả các Thầy Cô lớp Cao học 17 đã tận tình giảng dạy
để em thêm trƣởng thành trong suy nghĩ và cả trong công tác chuyên môn. Em xin
phép đƣợc vô vàn cảm ơn Thầy Nguyễn Ngọc Chí – Phó giáo sƣ – Tiến sĩ – Giảng
viên cao cấp Bộ môn Tƣ pháp Hình sự – Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội – đã hƣớng dẫn em thực hiện Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Thủ tục giải
quyết các vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội trên cơ sở các số liệu
địa bàn tỉnh Bình Dương”.

Em xin trân trọng đón nhận tất cả những lời chỉ bảo, góp ý của quý Thầy Cô
để bản luận văn của em cơ bản đƣợc hoàn chỉnh hầu giúp bản thân em có thêm
nhiều kiến thức mới áp dụng cho thực tiễn công tác sau này.
Xin cảm ơn Ba Mẹ đã nuôi dạy con thành nhân.
Xin cảm ơn Quý Thầy Cô đã bồi dƣỡng em thành ngƣời có kiến thức.
Ngƣời ta vẫn bảo: “Công Cha, nghĩa Mẹ, ơn Thầy” là mãi mãi, là vô tận.
Thêm một lần nữa xin đƣợc gửi đến Ba Mẹ và Thầy Cô trọn vẹn niềm biết
ơn sâu sắc cùng với tâm nguyện sẽ tiếp tục phấn đấu sao cho Ba Mẹ, Thầy Cô luôn
đƣợc an lòng, toại nguyện…
MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục bảng

MỞ ĐẦU 1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 5
1.1. KHÁI NIỆM 5
1.1.1. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên 5
1.1.2. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên phạm tội 6
1.1.3. Khái niệm thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên 10
1.2. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐỐI
VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 12
1.2.1. Vai trò của thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên
trong Tố tụng Hình sự 12

1.2.2. Ý nghĩa của thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên
trong Tố tụng Hình sự 17
1.3. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƢỚC 21
1.3.1. Thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên trong các
Công ƣớc quốc tế 21
1.3.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên trong pháp
luật một số nƣớc 23


Chƣơng 2: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI
CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM 28
2.1. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TRƢỚC NĂM 2003 28
2.1.1. Thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong
Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trƣớc năm 1988 28
2.1.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
trong Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam theo quy định của Bộ Luật Tố
tụng Hình sự năm 1988 29
2.2. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ NĂM 2003 31
2.2.1. Đối tƣợng chứng minh trong giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa
thành niên 32
2.2.2. Quy định về ngƣời tiến hành tố tụng 41
2.2.3. Quy định về ngƣời tham gia tố tụng 44

2.2.4. Quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội 49
2.2.5. Quy định của pháp luật về giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án ngƣời chƣa thành niên phạm tội 54

Chƣơng 3: THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 66
3.1. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƢƠNG 66
3.1.1. Đặc điểm tình hình 66

3.1.2. Số liệu thống kê tình hình giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành
niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn 2008–2012 [40] 66
3.1.3. Một số số liệu thống kê khác 69
3.1.4. Phân tích, đánh giá thực tiễn giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa
thành niên trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn 2008 đến 2012 trên
cơ sở số liệu thống kê 70
3.1.5. Minh họa 02 bản án giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng (chỉ trích lược các nội dung
minh họa cụ thể cho thực tiễn xét xử các vụ án người chưa thành niên
trên địa bàn tỉnh Bình Dương) 75
3.1.6. Một số khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự
để giải quyết các vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên trên địa bàn
tỉnh Bình Dƣơng 85
3.2. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 90
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng Hình sự về thủ tục giải quyết các vụ án
đối với ngƣời chƣa thành niên 90
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục giải quyết vụ án đối

với ngƣời chƣa thành niên 95

KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Số liệu thống kê vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn 2008–2012 66
Bảng 3.2: Số liệu thống kê tình hình ngƣời chƣa thành niên phạm tội trên địa
bàn tỉnh Bình Dƣơng ở một số tội danh cụ thể (giai đoạn từ 2008
đến 2012) 67
Bảng 3.3: Theo dõi diễn biến số ngƣời chƣa thành niên phạm tội đối với một
số tội danh cụ thể (giai đoạn từ 2008 đến 2012) trên địa bàn tỉnh
Bình Dƣơng. 67
Bảng 3.4: Phân tích kết quả xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trên địa
bàn tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn 2008 đến 2012 68
Bảng 3.5: Phân tích đặc điểm nhân thân số bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
đã bị xét xử tại tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn từ 2008 đến 2012 68
Bảng 3.6: Số học sinh bỏ học trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng từ năm 2008 –> 2012 69
Bảng 3.7: Diện tích, Dân số, Mật độ dân số của các thành phố, thị xã, huyện
trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng 69
Bảng 3.8: Dân số tỉnh Bình Dƣơng từ năm 2007 đến năm 2011 69
Bảng 3.9: Số liệu thống kê vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng giai
đoạn 2008–2012 70
1

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhƣng tình hình tội phạm vẫn
có chiều hƣớng gia tăng, diễn biến phức tạp, trong đó có tội phạm do ngƣời chƣa
thành niên thực hiện. Trong quá trình giải quyết vụ án do ngƣời chƣa thành niên gây
ra, ngoài quy định chung còn phải tuân theo các quy định khác của pháp luật dành
cho ngƣời chƣa thành niên phạm tội. Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đã dành
một “Chƣơng” quy định thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên làm
cơ sở cho các hoạt động tố tụng.
Hiện nay, những quy định về thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa
thành niên là một “Chƣơng” quan trọng nhất của Luật Tố tụng Hình sự. Những quy
định này đã cụ thể hóa chính sách Tố tụng Hình sự, các nguyên tắc nhân đạo, dân
chủ, tôn trọng, bảo đảm quyền con ngƣời trong Tố tụng Hình sự.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 (BLTTHS
2003) cho thấy một số quy định về thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa
thành niên, ở những mức độ khác nhau đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót nhất định
hoặc chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu xét xử công bằng, dân chủ đối với vụ án mà bị
can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên. Mặt khác, công tác giải thích, hƣớng dẫn áp
dụng pháp luật Tố tụng Hình sự, trong đó có các quy định về thủ tục tố tụng đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội chƣa đầy đủ, chƣa kịp thời dẫn đến việc nhận thức
của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng chƣa thống nhất, gây khó
khăn cho hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn giải quyết vụ án đối với ngƣời
chƣa thành niên.
Mặc dù là vấn đề quan trọng, ảnh hƣởng không những đối với việc tiến hành
tố tụng mà còn tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhƣng việc nghiên
cứu về các vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết các vụ án đối với ngƣời chƣa
thành niên chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Cho đến nay vẫn còn có những nhận
thức khác nhau xung quanh các quy định về thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời
2


chƣa thành niên. Bên cạnh đó, sự phát triển với tốc độ cao trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nƣớc đã làm cho nhiều vấn đề của Luật Tố tụng Hình sự,
trong đó có vấn đề thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội đòi hỏi
cần tiếp tục đƣợc nghiên cứu, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn, đem lại hiệu quả
cao cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm là ngƣời
chƣa thành niên nói riêng trong tình hình mới.
Vì lý do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên và thực tiễn
xét xử những năm gần đây, trên cơ sở đó đƣa ra những giải pháp, để tiếp tục góp
phần hoàn thiện những quy định về thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên và
giải quyết những vƣớng mắc của thực tiễn áp dụng Luật Tố tụng Hình sự, là việc rất
cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Vì vậy, tôi chọn vấn đề: “Thủ tục giải quyết các vụ án đối với người chưa
thành niên phạm tội trên cơ sở các số liệu địa bàn tỉnh Bình Dương” làm đề tài
nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đề ra mục đích làm sáng tỏ lý luận về thủ tục giải quyết vụ án đối
với ngƣời chƣa thành niên phạm tội theo pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam. Qua
đó, xác định những bất cập trong thực tiễn để đề xuất những giải pháp tiếp tục hoàn
thiện các chế định pháp luật trong thời gian tới và nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống tội phạm, nhất là tình hình tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên đang
ngày càng đa dạng và phát triển phức tạp. Đồng thời, cũng góp phần làm sáng tỏ
vấn đề bản chất của Nhà nƣớc Xã Hội Chủ Nghĩa và chính sách nhân đạo của Đảng
ta, Nhà nƣớc ta đƣợc cụ thể hóa trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự và các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan, đặc biệt là việc quy định thủ tục giải quyết vụ án đối
với ngƣời chƣa thành niên phạm tội chủ yếu dựa trên tiêu chí, mục đích giáo dục,
cải tạo họ trở thành những công dân có ích cho xã hội là hoàn toàn đúng đắn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định về thủ tục giải quyết vụ án đối
3


với ngƣời chƣa thành niên phạm tội theo pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam,
đồng thời cũng đề cập đến một số quy phạm của Bộ luật Hình sự nhằm giải quyết
nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu của đề tài dựa trên những
quy định về Tố tụng Hình sự kể từ khi nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đƣợc
thành lập từ năm 1945 đến nay. Nhƣng trong giai đoạn trƣớc đây, những vấn đề
liên quan đến thủ tục giải quyết vụ án đối với tội phạm là ngƣời chƣa thành niên
chƣa đƣợc đề cập cụ thể. Do vậy, trên cơ sở tìm hiểu những quy định của pháp
luật liên quan đến thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội,
đề tài tập trung nghiên cứu những quy định về thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa
thành niên trong Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003. Bên cạnh đó, đề tài
còn kết hợp phân tích, đối chiếu, so sánh với quy định thủ tục tố tụng đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong pháp luật Tố tụng Hình sự một số nƣớc
khác để tham khảo trong quá trình nghiên cứu.
Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật Tố tụng Hình sự Việt Nam đối với ngƣời chƣa thành niên và thực tiễn xét xử
đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng giai đoạn từ
năm 2008 đến năm 2012.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
- Phƣơng pháp so sánh, mô tả.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống những quy định về thủ tục giải quyết vụ
án đối với ngƣời chƣa thành niên trong pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhƣ sau:
5.1. Về mặt lý luận
Đề tài là kết quả nghiên cứu chuyên khảo, đề cập đến việc phân tích có hệ

4

thống những quy định về thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên
phạm tội theo Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, qua đó phát hiện, phân tích
những tồn tại, hạn chế và đề xuất những biện pháp nhằm góp phần hoàn thiện
những quy định này trong hệ thống pháp luật hình sự, đem lại hiệu quả cao cho
việc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và hạn chế tội phạm là ngƣời
chƣa thành niên nói riêng, đồng thời đảm bảo quy trình xét xử đƣợc thực hiện
nghiêm minh, công bằng, dân chủ.
5.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài góp phần vào việc xác định đúng đắn nội dung cơ bản, cơ sở, điều kiện
của việc áp dụng những quy định về thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa
thành niên trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan có thẩm quyền.
Từ đó, góp phần hữu hiệu vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an
ninh, trật tự, thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt, xây dựng và bảo vệ vững chắc
Nhà nƣớc pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa, đồng thời thực hiện có hiệu quả chiến lƣợc
cải cách Tƣ pháp đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ–TW năm 2005 của
Bộ Chính trị.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung của đề tài gồm 03 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết các vụ án đối với
ngƣời chƣa thành niên.
Chương 2: Thủ tục giải quyết các vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên
phạm tội trong Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn và các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ
án là ngƣời chƣa thành niên.


5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên
Thuật ngữ pháp lý sử dụng phổ biến cách gọi “thành niên” và “chưa thành
niên” để chỉ ngƣời ở những lứa tuổi nhất định. Đó là cách phân loại con ngƣời theo
độ tuổi ngƣời lớn và trẻ em, ngƣời lớn tuổi và ngƣời ít tuổi. “Người thành niên” là
ngƣời thuộc lứa tuổi đã trƣởng thành, cũng đƣợc gọi là ngƣời lớn, thanh niên, trung
niên… “Người chưa thành niên” là ngƣời thuộc tuổi trẻ, chƣa thực sự trƣởng thành
về thể chất và tinh thần.
Tuy nhiên, việc quy định ranh giới độ tuổi thành niên và chƣa thành niên còn
chƣa thống nhất giữa các quốc gia và trong các lĩnh vực xã hội. Điều đó là do điều
kiện phát triển kinh tế – xã hội, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực
có khác nhau. Trong Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em thông qua ngày 20/11/1989
có quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp
dụng đối với trẻ em đó đã có quy định độ tuổi thành niên sớm”.
Các văn bản khác nhƣ Quy tắc Bắc Kinh (1985), hƣớng dẫn Riat (1990)…
cũng đều thống nhất quan điểm quy định ngƣời chƣa thành niên, trẻ em là những
ngƣời chƣa đến 18 tuổi. Trong khi đó, một số văn kiện của một số tổ chức thuộc
Liên hiệp quốc nhƣ Quỹ Dân số (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) thì quy định
trẻ em là những ngƣời dƣới 15 tuổi.
Ở Việt Nam, cũng chƣa có sự quy định thống nhất về lứa tuổi trẻ em và
ngƣời chƣa thành niên.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Vị thành niên là người chưa đến tuổi được pháp
luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hay nói cách khác là
người chưa đủ 18 tuổi”

6

Cụ thể, trong “Luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em” (được Quốc Hội nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 8 năm 1991) đã quy
định: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Luật
Lao động quy định trẻ em là ngƣời dƣới 18 tuổi. Trong Bộ luật Hình sự đƣợc Quốc
Hội khóa X kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và đƣợc Chủ tịch
Nƣớc ký lệnh số 01/L–CTN công bố ngày 04 tháng 01 năm 2000 theo quy định ở
chƣơng X thì “người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi”.
Bộ Luật Dân sự năm 2005 cũng quy định “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là
người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên” (Điều 18)
Tóm lại, theo nghĩa chung nhất thì “Người chưa thành niên là người chưa
đủ 18 tuổi”.
Ngƣời chƣa thành niên chủ yếu đang độ tuổi trẻ em, cũng có ngƣời mới
chuyển từ độ tuổi trẻ em sang ngƣời lớn.
Ở chừng mực nhất định, khái niệm về trẻ em và ngƣời chƣa thành niên tƣơng
đối thống nhất, trùng nhau ở độ tuổi dƣới 16. Còn ngƣời chƣa thành niên bao gồm
cả lứa tuổi trẻ em dƣới 16 tuổi và có thêm độ tuổi từ 16 đến dƣới 18 tuổi. Về sự
phát triển tâm – sinh lý của con ngƣời thì số ngƣời từ 16 đến dƣới 18 tuổi về thể
chất và tinh thần phát triển hoàn thiện hơn độ tuổi dƣới 16. Nhƣ vậy, ngƣời chƣa
thành niên gồm cả những ngƣời còn non nớt phát triển chƣa đầy đủ, chƣa toàn diện
và cả những ngƣời tuy đã phát triển nhƣng chƣa hoàn thiện về mọi mặt. Chính vì
vậy, ở lứa tuổi này, Nhà nƣớc và xã hội cần quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục,
tạo những điều kiện thuận lợi nhất để cho họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội.
1.1.2. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên phạm tội
“Người chưa thành niên phạm tội” là thuật ngữ sử dụng trong khoa học pháp
luật hình sự và các khoa học gần gũi khác. Mặc dù Bộ Luật TTHS và Bộ Luật Hình
sự đều có dành một “Chƣơng” riêng để quy định về ngƣời chƣa thành niên phạm
tội, nhƣng lại không có khái niệm lập pháp chính thức thế nào là “Người chưa thành
niên phạm tội”. Bộ Luật Hình sự năm 1985 cũng nhƣ Bộ Luật Hình sự năm 1999

khi nói tới ngƣời chƣa thành niên phạm tội chỉ đƣa ra một khái niệm gián tiếp thông
qua việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
7

Theo Điều 12 Bộ Luật Hình sự năm 1999 thì ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên mới
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, còn ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16
tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo Điều 68 Bộ Luật Hình sự năm 1999 cũng quy định: “Người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của Chương này.”
Ở nƣớc ta, pháp luật hình sự quy định ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự. Trong độ tuổi này, ngƣời chƣa thành niên đã bắt đầu phát triển
nhanh về tâm sinh lý. Họ đã có thể tự ý thức đƣợc hành vi của mình, ý thức đƣợc
phần nào việc gì đúng pháp luật, việc gì là sai trái, bị pháp luật cấm.
Thuật ngữ “Người chưa thành niên phạm tội” đề cập đến vấn đề vừa mang ý
nghĩa về phƣơng diện đạo đức, pháp lý mà còn có ý nghĩa về phƣơng diện thực tế,
thống kê. Trong thực tế, còn nhiều tồn tại vƣớng mắc gây tranh cãi khi xác định một
cá nhân có phải là ngƣời chƣa thành niên phạm tội hay không. Trƣớc hết, phải kể
đến khó khăn vƣớng mắc trong việc xác định độ tuổi của một ngƣời khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong những trƣờng hợp không rõ ràng về ngày,
tháng, năm sinh. Thứ hai, là khó khăn trong việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà ngƣời chƣa thành niên thực hiện có phải là tội phạm hay không phải là tội
phạm, vì rất khó phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản, thì Khoản 1 Điều 138 Bộ Luật Hình sự năm
1999 quy định “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết
án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Mặt khác, việc thống kê các vụ phạm tội của ngƣời chƣa thành niên vẫn còn
nhiều bất cập, số lƣợng chƣa đầy đủ và chƣa chính xác bởi lẽ, các tội phạm do
ngƣời chƣa thành niên thực hiện đƣợc phát hiện chỉ là một phần trong số rất nhiều
vụ phạm pháp hình sự đã và đang xảy ra.
8

Từ những phân tích trên, có thể kết luận rằng: “Người chưa thành niên
phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình
sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và đã có lỗi (cố ý
hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ Luật Hình
sự quy định là phạm tội” [14]
Đặc điểm ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa phát triển một cách đầy đủ về
tâm sinh lý, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn nhiều hạn chế, dễ bị kích
động, dụ dỗ, lôi kéo vào việc thực hiện tội phạm, nhƣng cũng dễ uốn nắn, cải tạo,
giáo dục họ trở thành ngƣời có ích cho xã hội. Đƣờng lối xử lý ngƣời chƣa thành
niên phạm tội đƣợc quy định tại chƣơng X của Bộ Luật Hình sự. Theo đó, việc xử
lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ, uốn nắn, sửa
sai, giúp họ phát triển, hoàn thiện về nhận thức và về hành vi phù hợp với xã hội,
không áp dụng hình phạt chung thân, tử hình, hình phạt bổ sung đối với ngƣời chƣa
thành niên phạm tội. Ở đây, cũng cần phân biệt khái niệm “Người chưa thành niên
phạm tội” và khái niệm “tội phạm do người chưa thành niên gây ra”
– “Người chưa thành niên phạm tội” dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt
của tội phạm là ngƣời chƣa thành niên.
– “Tội phạm do người chưa thành niên gây ra” dùng để chỉ tội phạm đã đƣợc
thực hiện trên thực tế bởi ngƣời chƣa thành niên. Tội phạm do ngƣời chƣa thành
niên gây ra bao giờ cũng gắn liền với một ngƣời chƣa thành niên có hành vi phạm
tội cụ thể nhƣng không phải mọi trƣờng hợp một ngƣời chƣa thành niên thực hiện
hành vi phạm tội đều trở thành tội phạm.
Điều 68 Bộ Luật Hình sự quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của

Chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ Luật không
trái với quy định của Chương này”.
Theo Điều Luật trên, về nguyên tắc, khi giải quyết vấn đề trách nhiệm hình
sự của ngƣời chƣa thành niên phạm tội phải căn cứ trƣớc hết vào các quy định của
chƣơng X phần chung, đồng thời cũng phải vận dụng các quy định khác của Phần
9

chung Bộ Luật Hình sự nhƣ: Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự, nguyên tắc xử
lý, các quy định về tội phạm, về hình phạt… nhƣng khi vận dụng các quy định đó
thì không đƣợc trái với những quy định của chƣơng X Bộ Luật Hình sự này.
Nhƣ vậy, theo điều luật này, thì pháp luật hình sự Việt Nam không buộc
ngƣời dƣới 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà họ thực hiện có
những dấu hiệu của tội phạm cụ thể đƣợc quy định trong Bộ Luật Hình sự. Những
ngƣời trong lứa tuổi này nói chung không có năng lực trách nhiệm hình sự, họ
chƣa có ý thức về hành vi phạm pháp. Cá biệt có em tuy dƣới 14 tuổi nhƣng đã
sớm có ý thức tƣơng đối đầy đủ về các hành động sai trái, nhất là về các hành
động có tính chất nguy hiểm lớn cho xã hội. Tuy nhiên, đối với các em đó việc áp
dụng các biện pháp cƣỡng chế hành chính có tính chất giáo dục nhƣ biện pháp
giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn hoặc biện pháp đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng, thì
vừa đạt yêu cầu cải tạo các em đó, đồng thời lại thỏa mãn đƣợc yêu cầu phòng
ngừa chung. Nếu đƣa các em dƣới 14 tuổi ra xử lý về hình sự sẽ không có lợi cho
bản thân các em đó và cho xã hội. Mặt khác, thực tế cho thấy các em dƣới 14 tuổi
thực hiện các hành vi có dấu hiệu của tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng cũng không nhiều.
Mặc dù ngƣời từ đủ 14 tuổi đến chƣa đủ 16 tuổi là ngƣời đã có năng lực
trách nhiệm hình sự, nhƣng thực tiễn xét xử cho thấy năng lực trách nhiệm hình sự
của họ còn rất hạn chế. Do vậy, ngƣời chƣa thành niên trong độ tuổi này chỉ đƣợc
coi là có năng lực trách nhiệm hình sự trong những trƣờng hợp nhất định. Thông
thƣờng, ngƣời chƣa thành niên có thể nhận thức đƣợc tính chất của một số hành vi
gây nguy hiểm cao cho xã hội nhƣ: giết ngƣời, cố ý gây thƣơng tích, hiếp dâm,

cƣớp tài sản, trộm cắp tài sản…Tuy nhiên, có những hành vi có tính chất đặc biệt
nguy hiểm cho xã hội, thì trình độ nhận thức của họ rất yếu ớt, thậm chí không nhận
thức đƣợc. Ví dụ: Tội xâm phạm an ninh quốc gia… Cho nên, trong điều tra, truy tố
và xét xử cần phải chú ý phân biệt giữa 2 lứa tuổi của ngƣời chƣa thành niên phạm
tội là: lứa tuổi từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi và lứa tuổi từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18
tuổi để xác định trách nhiệm hình sự cho chính xác, đảm bảo thực hiện có hiệu quả
chính sách hình sự của Nhà nƣớc đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
10

1.1.3. Khái niệm thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thủ tục” đƣợc hiểu là “Thứ tự và cách thức làm
việc theo một trật tự đã được quy định”.
Thủ tục giải quyết các vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên đƣợc quy định
trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự là thủ tục đặc biệt đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị
bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ 14 tuổi tròn cho đến dƣới 18 tuổi.
Ngƣời chƣa thành niên là ngƣời đang ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và đôi khi còn bị
tác động mạnh mẽ của những điều kiện bên ngoài. Chính sách hình sự của Nhà
nƣớc ta đối với ngƣời chƣa thành niên chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa
chữa những sai lầm, tạo điều kiện cho họ phát triển lành mạnh để trở thành
những công dân có ích cho xã hội.
Vì vậy, thủ tục giải quyết vụ án cũng phải đƣợc quy định sao cho phù hợp
với ngƣời chƣa thành niên.
Theo Bộ Luật Tố tụng Hình sự nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên đƣợc tiến hành theo trình tự đặc
biệt quy định tại chƣơng XXXII gồm 10 điều (từ Điều 301 đến Điều 310).
Theo Điều 68 Bộ Luật Hình sự năm 1999 thì “Người chưa thành niên từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này”.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, để xác định chính xác tuổi của ngƣời
chƣa thành niên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải căn cứ vào giấy khai sinh
và những tài liệu cần thiết khác. Trƣờng hợp ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo lúc phạm tội chƣa đủ 18 tuổi, nhƣng khi phát hiện đƣợc tội phạm họ đã đủ 18
tuổi thì không áp dụng thủ tục này.
Điều 301 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định về phạm vi áp dụng
của thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên: “Thủ tục tố tụng đối với người bị
11

bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được áp dụng theo
quy định của Chương này đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này
không trái với những quy định của Chương này”
So với quy định trƣớc đây (Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 1988), quy định về
thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm
2003 đã mở rộng đối tƣợng áp dụng không chỉ đối với bị can, bị cáo mà còn áp
dụng cả đối với ngƣời bị bắt và ngƣời bị tạm giữ. Về phạm vi áp dụng cũng đƣợc
xác định rõ, đối với ngƣời chƣa thành niên ngoài việc áp dụng những quy định của
chƣơng XXXII Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003, khi tiến hành tố tụng cơ quan
có thẩm quyền còn phải chú ý áp dụng những quy định khác của Bộ Luật Tố tụng
Hình sự không trái với những quy định của Chƣơng này.
Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành
niên nhƣ trên là nhằm mục đích sau đây:
– Khắc phục những thiếu sót trong công tác điều tra, truy tố, xét xử.
– Đƣa ra những biện pháp xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội phù hợp với
những quy định của pháp luật.
– Kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cƣỡng chế và giáo dục, thuyết phục,
tạo ra những điều kiện cần thiết để ngƣời chƣa thành niên biết sửa chữa những sai
lầm, sớm cải tạo trở thành ngƣời lƣơng thiện, có ích cho xã hội.
– Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời chƣa thành niên.
Nhƣ vậy, “Thủ tục giải quyết vụ án đối với người chưa thành niên theo pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam là tổng hợp các quy định đặc biệt thể hiện nguyên tắc
nhân đạo của chính sách của Nhà nước trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án đối với những vụ án mà người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hoặc bị kết án là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhằm giải
quyết một cách khách quan và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách vững
chắc các quyền lợi hợp pháp của họ trong các hoạt động tố tụng hình sự”.
12

1.2. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐỐI
VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Vai trò của thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành niên
trong Tố tụng Hình sự
1.2.1.1. Về người tiến hành tố tụng
Khoản 1 Điều 302 Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định: “Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành
niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học
giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người
chưa thành niên”.
Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định những ngƣời tiến hành tố tụng
đối với ngƣời chƣa thành niên phải có các tiêu chuẩn nhƣ trên là cần thiết. Bởi vì,
thái độ không coi trẻ em phạm tội là đối tƣợng ngoại lai của xã hội, là phần tử xấu
cần phải trừng trị chỉ có thể có đƣợc khi những ngƣời này có hiểu biết về tâm tƣ,
tình cảm của ngƣời chƣa thành niên phạm tội, thực sự thông cảm và yêu thƣơng các
em, qua đó giúp các em nhận thức đƣợc lỗi lầm, tự giác sửa chữa để trở thành công
dân có ích cho xã hội. Thực tiễn cho thấy, lòng nhân đạo và sự bao dung có sức cảm
hóa mạnh mẽ, nhƣng điều đó chỉ có thể có đƣợc ở những ngƣời có trình độ hiểu biết
về ngƣời chƣa thành niên. Nói cách khác, những ngƣời tiến hành tố tụng phải có
kiến thức cần thiết để biết đặt mình vào vị trí các em, hiểu các em và qua đó phân
tích, phán xét làm sáng tỏ những vấn đề, tình tiết có liên quan đến vụ án để ra một
bản án thích hợp theo quy định của pháp luật, lại vừa có tính thuyết phục, có ý

nghĩa chính trị, xã hội cao và đồng thời có hiệu quả giáo dục. Chỉ khi có những hiểu
biết nhất định về tâm lý ngƣời chƣa thành niên cùng với kinh nghiệm đấu tranh
phòng, chống tội phạm của ngƣời chƣa thành niên, ngƣời tiến hành tố tụng mới có
thể xác định đƣợc hƣớng tiếp cận và tác động tâm lý, tạo đƣợc lòng tin và thái độ
hợp tác, cầu thị từ phía ngƣời chƣa thành niên trong hoạt động tố tụng. Điều này
không chỉ đƣợc quy định trong Bộ Luật Tố tụng Hình sự của nƣớc ta mà còn đƣợc
quy định ở Luật Tố tụng Hình sự của hầu hết các nƣớc trên thế giới. Bên cạnh đó,
13

quy chế Bắc Kinh cũng chỉ rõ: “Ở thành phố lớn cần thành lập những đơn vị cơ sở
đặc biệt chuyên giải quyết những trường hợp liên quan tới người chưa thành niên”.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 302 Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003, thì
khi tiến hành tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên, yêu cầu đặt ra là Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán phải là những ngƣời có hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học giáo dục, cũng nhƣ về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của
ngƣời chƣa thành niên chứ không nhất thiết phải là những ngƣời đƣợc đào tạo về
lĩnh vực đó. Thực tế ở nƣớc ta hiện nay cũng chƣa có cơ quan tiến hành tố tụng
chuyên trách để điều tra, truy tố và xét xử đối với ngƣời chƣa thành niên.
Đối với Hội thẩm khi tham gia xét xử những vụ án mà bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên, Luật không quy định phải có những điều kiện trên, nhƣng trong Hội
đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn Thanh
Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh.
Thật vậy, nghiên cứu để tìm hiểu những đặc điểm về tâm lý lứa tuổi ngƣời
chƣa thành niên là một hoạt động không thể thiếu đối với ngƣời tiến hành tố tụng.
Nhìn một cách tổng quát ngƣời chƣa thành niên thuộc lứa tuổi đang ở giai đoạn
hoàn thiện cả về thể chất và nhân cách. Đây là thời kỳ phát triển nhanh của các yếu
tố thể chất và tâm lý. Các nhà tâm lý học gọi đây là “giai đoạn quá độ” từ nhân
cách của trẻ em đến nhân cách của ngƣời lớn.
● Về đặc điểm sinh lý
Ở độ tuổi chƣa thành niên, các em bắt đầu phát triển nhanh về chiều cao,

trọng lƣợng cơ thể và tiến tới sự phát triển khá hoàn chỉnh về giới. Sự thay đổi về
thể chất cũng kéo theo một số đặc điểm về tâm lý.
● Về đặc điểm tâm lý
Ngƣời chƣa thành niên phạm tội cũng có những đặc điểm tâm lý tƣơng tự
nhƣ trẻ em cùng độ tuổi. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động dẫn tới việc thực hiện
hành vi lệch chuẩn và vi phạm pháp luật. Với mong muốn thoát khỏi sự ràng buộc
của gia đình, nhà trƣờng và xã hội, ngƣời chƣa thành niên coi sự chỉ bảo, giám sát
của ngƣời lớn nhƣ một thứ xiềng xích cần cởi bỏ. Họ ghét sự áp đặt của ngƣời lớn,
14

luôn tỏ ra mình đã trƣởng thành, độc lập trong suy nghĩ. Tính hiếu thắng đã trở
thành phổ biến trong mỗi hành động của họ và nhiều khi là động cơ trực tiếp đẩy
ngƣời chƣa thành niên đi đến quyết định thiếu suy nghĩ, thiếu cân nhắc kỹ lƣỡng và
có lúc trở thành liều lĩnh. Có thể nói ở lứa tuổi này nhân cách của ngƣời chƣa thành
niên đã đƣợc hình thành nhƣng chƣa ổn định. Ở lứa tuổi dƣới 18, ngƣời chƣa thành
niên đều rất linh hoạt, nhạy cảm và hiếu động, có trí tƣởng tƣợng phong phú, vì vậy
ranh giới giữa “đúng và sai” thƣờng dễ bị lẫn lộn.
● Về mặt động cơ
Hành vi của ngƣời chƣa thành niên là loại hành vi dễ chịu ảnh hƣởng của
môi trƣờng xung quanh, nhạy bén về tinh thần, có tính hay học đòi, bắt chƣớc,
nhƣng chƣa có khả năng tự kiềm chế và đánh giá vấn đề xảy ra với mình một cách
toàn diện. Do tính chủ động của ngƣời chƣa thành niên còn thấp, dễ biến động nên
họ dễ bị kích động, lôi kéo hoặc rủ rê và hành động không đúng chuẩn mực vì rất
nhiều lý do khác nhau.
Tóm lại, dựa trên cơ sở pháp luật hình sự, lứa tuổi này có thể đƣợc phân
thành hai nhóm, mỗi nhóm có những đặc điểm riêng:
+ Nhóm thứ nhất: Từ 14 tuổi tròn đến dƣới 16 tuổi, nhóm này có đặc điểm:
- Vừa vƣợt qua giai đoạn trẻ con
- Gần gia đình và sống hầu nhƣ phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình.
+ Nhóm thứ hai: Từ 16 tuổi tròn đến dƣới 18 tuổi, nhóm này có đặc điểm:

- Đang ở giai đoạn sắp bƣớc vào tuổi ngƣời lớn.
- Nhận thức xã hội khá hơn nhóm trƣớc nhƣng vẫn chƣa tách khỏi gia đình.
- Kinh tế còn phụ thuộc vào gia đình
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự năm 1999, tuổi bắt đầu phải chịu trách
nhiệm hình sự là 14 tuổi tròn tùy theo những loại tội khác nhau. Khi đủ 16 tuổi tròn
thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Do đặc điểm lứa tuổi ngƣời
chƣa thành niên khác với ngƣời thành niên nên Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình
sự có những quy định riêng biệt đối với trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
15

1.2.1.2. Về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
* Trẻ em chƣa đủ 14 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự (không bị
truy tố, đƣa ra xét xử) về bất kỳ hành vi nào, kể cả trƣờng hợp hành vi đó có dấu
hiệu phạm tội và gây ra hậu quả chết ngƣời.
* Ngƣời chƣa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật với những điều kiện đặc biệt hơn
so với ngƣời đã trƣởng thành (từ đủ 18 tuổi trở lên).
* Ngƣời chƣa thành niên phạm tội có thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự nếu
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình
tiết giảm nhẹ và đƣợc gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
* Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tƣ pháp đƣợc
quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 nhƣ sau:
– Giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Tòa có thể áp dụng từ 01 đến 02 năm
đối với trƣờng hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Ngƣời đƣợc giáo
dục phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, dƣới sự giám sát,
giáo dục của chính quyền cấp xã và tổ chức xã hội đƣợc Tòa án giao trách nhiệm.
– Đưa vào trường giáo dưỡng: Tòa có thể áp dụng biện pháp từ 01 đến
02 năm nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân
và môi trƣờng sống của ngƣời đó mà cần đƣa ngƣời đó vào một tổ chức giáo dục

có kỷ luật chặt chẽ. Nếu đối tƣợng đã chấp hành 1/2 thời hạn và có nhiều tiến bộ,
thì Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục theo đề nghị của cơ
quan, tổ chức giám sát.
* Tòa án không áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với ngƣời
chƣa thành niên phạm tội.
* Khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội, Tòa án hạn
chế việc áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho ngƣời chƣa
thành niên phạm tội đƣợc hƣởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với ngƣời đã
thành niên phạm tội tƣơng ứng.
16

* Không áp dụng hình phạt tiền đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội từ
đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi.
* Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
* Án đã tuyên đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội chƣa đủ 16 tuổi thì
không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm về sau.
1.2.1.3. Về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
Thủ tục tố tụng đối với ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên đƣợc áp dụng theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình
sự. Cụ thể nhƣ sau:
* Quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam:
Ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có
đủ căn cứ nhƣng chỉ trong trƣờng hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng. Ngƣời từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm
giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ nhƣng chỉ trong trƣờng hợp phạm tội nghiêm trọng
do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
* Giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội
Ngƣời chƣa thành niên phạm tội đƣợc giao cho cha, mẹ hoặc ngƣời đỡ đầu
của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt khi đƣợc triệu tập. Điều này có nghĩa là trong
mọi thủ tục tố tụng (nhƣ bắt tạm giam, lấy lời khai, đối chất…) đều nhất thiết phải

có sự tham gia của ngƣời giám hộ (cha mẹ). Ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ giám sát có
nghĩa vụ giám sát chặt chẽ ngƣời chƣa thành niên, theo dõi tƣ cách, đạo đức và giáo
dục ngƣời đó.
* Quyền bào chữa
Ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên có thể lựa chọn ngƣời bào chữa hoặc tự mình bào chữa.
Trong trƣờng hợp bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ không
lựa chọn đƣợc ngƣời bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu
cầu Đoàn Luật sƣ phân công, cử ngƣời bào chữa cho họ.
* Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức
Đại diện của gia đình ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, thầy cô giáo, đại diện
17

của nhà trƣờng, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh… có quyền và nghĩa vụ
tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ, bị can là ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi hoặc là
ngƣời chƣa thành niên có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất, thì việc lấy lời
khai, hỏi cung phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trƣờng hợp cố ý vắng mặt
không có lý do chính đáng; tại phiên tòa xét xử phải có mặt đại diện của gia đình bị
cáo, trừ trƣờng hợp cố ý vắng mặt không có lí do chính đáng.
* Quy định về xét xử
Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên
hoặc là cán bộ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Trong trƣờng hợp cần
thiết, Tòa án có thể quyết định xử kín.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị
cáo, thì Tòa áp dụng một trong những biện pháp tƣ pháp.
* Chấp hành hình phạt tù
Không đƣợc giam giữ chung ngƣời chƣa thành niên với ngƣời thành niên.
Ngƣời chƣa thành niên bị kết án phải đƣợc học nghề hoặc học văn hóa trong
thời gian chấp hành hình phạt tù. Nếu ngƣời chƣa thành niên đang chấp hành hình

phạt tù đã đủ 18 tuổi thì sẽ chuyển sang chế độ giam giữ ngƣời đã thành niên.
1.2.2. Ý nghĩa của thủ tục giải quyết vụ án đối với ngƣời chƣa thành
niên trong Tố tụng Hình sự
1.2.2.1. Góp phần giải quyết vụ án phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý trẻ em
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Nhà nƣớc Việt Nam tham
gia Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 và đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối
tƣợng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên
phạm tội. Điều này càng thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam đối với trẻ em. Ngƣời chƣa thành niên chủ yếu đang độ tuổi trẻ em, cũng có
những ngƣời mới chuyển từ độ tuổi trẻ em sang ngƣời lớn. Bên cạnh những tƣ
tƣởng chỉ đạo, quan điểm nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự với ngƣời chƣa
18

thành niên phạm tội theo xu hƣớng chung hiện nay thì nội dung của chính sách hình
sự liên quan đến cả hai lĩnh vực: Lĩnh vực nội dung (Luật Hình sự) và lĩnh vực thủ
tục (Luật Tố tụng Hình sự). Tuy nhiên, để có thể thừa nhận ngƣời chƣa thành niên
là ngƣời phạm tội thì phải có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, mà
bản án của Tòa án là kết quả của toàn bộ hoạt động Tố tụng Hình sự của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử ngƣời chƣa thành niên.
Những hoạt động này liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của
ngƣời chƣa thành niên là bị can, bị cáo trong vụ án và đến tính khách quan, tính
pháp lý của bản án. Do vậy, chính sách hình sự còn có nội dung thứ hai là những
nguyên tắc, tƣ tƣởng chỉ đạo, quá trình điều tra truy tố, xét xử bị can, bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên. Điều này thể hiện ở chƣơng XXXII của Luật Tố tụng Hình
sự – một chƣơng quy định về thủ tục hình sự bổ sung áp dụng đối với đối tƣợng
này. Tuy nhiên, dựa trên các quy định đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội ở
chƣơng X Bộ Luật Hình sự năm 1999, chúng ta có thể hiểu khái niệm trách nhiệm
hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên.
1.2.2.2. Góp phần bảo đảm quyền trẻ em trong “Công ước quốc tế về

Quyền trẻ em” và “Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em”
Xuất phát từ cơ sở lý luận của chính sách hình sự đƣợc ghi nhận trong Công
ƣớc về quyền trẻ em “Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ”
là: chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trƣớc cũng nhƣ sau
khi ra đời. Đồng thời, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định tại điều 71: “Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm….” Pháp luật Hình sự Việt Nam đã đặt ra những
nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của ngƣời chƣa thành niên. Các quy định
về thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên có những điểm khác biệt so với thủ
tục tố tụng hình sự áp dụng đối với ngƣời thành niên phạm tội. Chính sách hình sự
của Nhà nƣớc Việt Nam đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự là nhằm giúp đỡ,
cải tạo, giáo dục để ngƣời chƣa thành niên nhận ra sai lầm, từ đó sửa chữa những sai
lầm của mình, tạo điều kiện để các em có khả năng tái hòa nhập cuộc sống.

×