Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 132 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ ANH TUẤN




ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN
THỰC TRẠNG, KINH NGHIÊM QUỐC TẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã ngành : 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS Lê Văn Bính




HÀ NỘI – 2010


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy mới hình thành và phát triển
nhưng đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành kênh huy động vốn
quan trọng và hiệu quả cho các doanh nghiệp và là nơi đầu tư hấp dẫn cho các
nhà đầu tư. Thông qua thị trường chứng khoán, Nhà nước đã thực hiện có
hiệu quả nhiều chính sách kinh tế vĩ mô như cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước, phát triển thị trường vốn, thu hút vốn đầu tư nước ngoài . . .
Tính đến tháng 5/2010, khoảng 13.000 tài khoản giao dịch của
NĐTNN (chiếm 1,5% số tài khoản NĐT trong nước), trong đó có trên 1.200
tài khoản là của tổ chức và các quỹ nước ngoài nhưng khối lượng giao dịch lại
chiếm tới 20-25% với giá trị danh mục chứng khoán tại thời điểm hiện tại
khoảng trên 6 tỷ USD… Xu hướng trong những thời gian tới sẽ tăng lên cả về
số nhà đầu tư và vốn đầu tư [ 11]
Pháp luật về chứng khoán của nước ta mới hình thành cho nên có nhiều
bất cập. Thị trường chứng khoán lại luôn vận động và phát triển phù hợp với
sự vận động của nền kinh tế quốc dân và sự hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện
nay đang đặt ra nhu cầu sớm hoàn thiện các quy định pháp luật về thị trường
chứng khoán.
Tuy là một nhóm chủ thể rất quan trọng có tính định hướng cho thị
trường nhưng hiện nay các quy định về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước
ngoài vẫn còn nhiều tồn tại ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài thông qua thị trường chứng khoán.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế trong đó có quan hệ đầu tư, đặt
ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật phù hợp với các cam kết quốc tế.

2
Với những lý do này cần thiết phải có nghiên cứu có tính hệ thống về
địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt
Nam hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu
Không giống như hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được thực
hiện ở nước ta mấy chục năm, việc đầu tư thông qua thị trường chứng
khoán mới hình thành được khoảng 10 năm và chỉ thực sự bùng nổ từ
năm 2007. Nên địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
chứng khoán là vấn đề mới trong pháp luật Việt Nam. Nó được quy định
rải rác trong một số văn bản pháp luật như Luật đầu tư, Luật chứng
khoán và một số văn bản dưới luật
Hiện nay chưa có nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này. Chỉ
có những bài viết, bài báo nêu và bình luận về một số nội dung cụ thể của địa
vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam
như: Báo cáo tham luận của ông Nguyễn Đoan Hùng – Phó chủ nhiệm Uỷ
ban chứng khoán nhà nước về tình hình và định hướng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào thị trường chứng khoán tại Hội thảo Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế, được tổ chức tại Hà Nội sáng
21/5/2010; Việt kiều: Nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài? của tác giả
Nguyên Tấn trên ngày 21/4/2009; Lên sàn phải
đợi thông tư của tác giả Anh Vũ trên ngày
01/5/2010 . . .
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn: Làm rõ các vấn đề về đầu tư; nhà
đầu tư nước ngoài; thị trường chứng khoán; địa vị pháp lý của nhà đầu tư
nước ngoài trên thị trường chứng khoán. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn

3
thiện các quy định của pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán ; về
địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán.
- Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra các
nhiệm vụ sau:
+Trình bày và phân tích có hệ thống các quy định hiện hành của Việt

Nam về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia thị trường
chứng khoán.
+ Chỉ ra những tồn tại trong những quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán .
+ Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán và pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
trên thị trường chứng khoán.
- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định hiện hành của pháp luật Vịêt
Nam liên quan đến địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán .
- Phạm vi nghiên cứu: Thị trường chứng khoán bao gồm thị trường cổ
phiếu và thị trường trái phiếu. Luận văn chỉ đề cập sâu đến địa vị pháp lý của
nhà đầu tư nước ngoài trong việc mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán nhưng cũng có đề cập một số nội dung liên quan đến việc mua bán trái
phiếu, chứng chỉ quỹ . . .
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên nền tảng phương pháp luận
đó tác giả áp dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp hệ thống, thống
kê, phân tích, so sánh và tổng hợp.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

4
Nghiên cứu một cách hệ thống địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán thông qua việc trình bày, phân tích các quy
định pháp luật hiện hành. Chỉ ra những tồn tại của pháp luật về địa vị pháp lý
của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán. Đề ra các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán và hoàn thiện khung pháp lý về thị trường chứng khoán.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham kham

khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, nhà làm luật, nhà hoạch định chính
sách. . . khi xem xét các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của nhà đầu tư
nước ngoài trên thị trường chứng khoán.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài và
thị trường chứng khoán
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của nhà
đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán
Chương 3: Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
thị trường chứng khoán và địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán.
Mỗi chương được kết thành các tiểu mục nhỏ hơn để đi sâu phân tích
chi tiết các nội dung.




5
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHÀ ĐẦU TƢ
NƢỚC NGOÀI VÀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Địa vị pháp lý của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
1.1 . Khái niệm nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
Nhà đầu tư nước ngoài có thể là tổ chức, cá nhân người nước ngoài.
1.1.1. Ngƣời nƣớc ngoài
Ngày nay, trong quá trình hội nhập quốc tế, việc công dân của quốc gia
này sinh sống và làm ăn ở quốc gia khác là hiện tượng khách quan và ngày
càng phổ biến. Việc nghiên cứu địa vị pháp lý của người nước ngoài, trước

hết cần phải tìm hiểu khái niệm “ người nước ngoài”, đã được hình thành
trong khoa học pháp lý quốc gia và quốc tế.
Hiện nay, thuật ngữ “ người nước ngoài” thường được hiểu một cách
như sau:
- Người mang một quốc tịch nước ngoài
- Người mang nhiều quốc tịch nước ngoài
- Người không mang quốc tịch nước nào
Ngoài ra, thuật ngữ người nước ngoài còn được hiểu là chỉ là công dân nước
ngoài [ 10, trang 73]
Trong pháp luật của phần lớn các nước trên thế giới, quốc tịch là dấu hiệu
để định nghĩa, xác định người nước ngoài. Về nguyên tắc, người nước ngoài
là người không mang quốc tịch nước, nơi họ đang cư trú- tức họ không là
công dân nước sở tại.

6
Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng xác định người nước ngoài theo cách
trên. Cụ thể, tại điểm 5, điều 3, Luật Quốc tịch 2009 quy định “ Người nước
ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch
thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam ”. Theo quy định tại điều 3, Pháp lệnh
nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam quy định : “
Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam”.
Như vậy, người nước ngoài tại Việt Nam có thể hiểu là:
- Là người không có quốc tịch Việt Nam
- Họ có thể cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam.
1.1.2. Tổ chức nƣớc ngoài
Tổ chức nước ngoài với tư cách là chủ thể của Tư pháp quốc tế tham gia
các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài có thể là pháp nhân
nước ngoài, các quốc gia, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ. . . Tuy
nhiên, pháp nhân là tổ chức nước ngoài chủ yếu, phổ biến nhất khi tham gia
quan hệ Tư pháp quốc tế.

Pháp nhân là một tổ chức nhất định của con người, được pháp luật quy
định có quyền năng chủ thể. Không phải tổ chức nào cũng là pháp nhân. Chỉ
những tổ chức được thành lập theo trình tự thủ tục và có đủ điều kiện do Nhà
nước quy định hoặc tồn tại trên thực tế được Nhà nước công nhận mới có tư
cách pháp nhân [10, trang 94]
Theo pháp luật Việt Nam, điều 84 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“ Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây:
1. Ðược thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;

7
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”
Pháp nhân được thành lập theo pháp luật của một nước nhất định. Tức là
việc công nhận một tổ chức có tư cách pháp nhân phải dựa trên cơ sở pháp
luật của một nước nhất định. Thông thường một tổ chức được công nhận có tư
cách pháp nhân ở nước nó được thành lập thì cũng được công nhận có tư cách
pháp nhân ở các nước khác. Đối với Việt Nam, pháp nhân nước ngoài là tổ
chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài và
được công nhận là có quốc tịch nước ngoài.
Liên quan đến pháp nhân nước ngoài là vấn đề quốc tịch và xác định
quốc tịch của pháp nhân. Quốc tịch của pháp nhân là mối liên hệ pháp lý đặc
biệt và vững chắc giữa pháp nhân với một nhà nước nhất định. Mối quan hệ
pháp lý đặc biệt đó thể hiện ở chỗ tổ chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy
định của pháp luật nhà nước đó; khi hoạt động ở nước ngoài, pháp nhân được
nhà nước bảo hộ về mặt ngoại giao; việc hợp nhất, sáp nhập, chia tách giải
thể, chấm dứt pháp nhân và thanh lý, giải quyết vấn đề tài sản trong các
trường hợp này của pháp nhân phải tuân theo quy định của nhà nước mà pháp

nhân mang quốc tịch.
Việc xác định quốc tịch của pháp nhân tạo cơ sở xác định nội dung quy
chế pháp lý của pháp nhân, góp phần kiểm soát các hoạt động của pháp nhân,
bảo vệ an ninh, chủ quyền và lợi ích kinh tế xã hội của nhà nước nơi pháp
nhân đặt trụ sở hoặc hoạt động. Vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân đặc
biệt có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện
nay.
Pháp luật các quốc gia có quy định khác nhau về vấn đề xác định quốc
tịch của pháp nhân

8
Pháp luật của Pháp, Đức và của nhiều nước khác, pháp nhân đặt trung
tâm quản lý ở nước nào thì mang quốc tịch nước đó, không phân biệt nơi
đăng ký thành lập hay tiến hành hoạt động của pháp nhân.
Pháp luật của Anh, Mỹ xác đinh quốc tịch của pháp nhân theo nơi đăng
ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập.
Pháp luật của các nước như Ai cập, Xi ri lại áp dụng nguyên tắc quốc
tịch của pháp nhân tuỳ thuộc vào nơi đặt trung tâm hoạt động của pháp nhân.
Ở Nga và các nước Đông Âu, áp dụng cả hai nguyên tắc: Quốc tịch pháp
nhân tuỳ thuộc vào nơi thành lập pháp nhân và nơi đặt trụ sở chính của pháp
nhân.
Pháp luật Việt Nam không có quy định nguyên tắc xác định quốc tịch
của pháp nhân. Tuy nhiên, điều 765 Bộ luật dân sự 2005, đã quy định về
năng lực pháp luật của pháp nhân như sau:
“Ðiều 765. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài
1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 Ðiều này.
2. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được

xác định theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Một quy định rõ hơn về quốc tịch pháp nhân tại Việt Nam là: Khoản 20,
điều 4, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Quốc tịch của doanh nghiệp là
quốc tich của nước và vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký
kinh doanh” . Tuy nhiên quy định này chỉ bao gồm các doanh nghiệp mà
không phải tất cả các pháp nhân.
Như vậy pháp luật Việt Nam đã gián tiếp thừa nhận nguyên tắc xác định

9
quốc tịch của pháp nhân tuỳ thuộc vào nước, nơi pháp nhân được thành lập.
Theo tinh thần này thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành
lập tại Việt Nam là pháp nhân mang quốc tịch Việt Nam. Những pháp nhân
không mang quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài.
1.1.3. Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
1.1.3.1. Vai trò của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
Qúa trình hội nhập kinh tế trên thế giới đã tạo điều kiện để các nhà đầu
tư tiến hành đầu tư bên ngoài lãnh thổ của quốc gia mình. Đối với quốc gia sở
tại, họ là những nhà đầu tư nước ngoài. Ngày nay, vai trò của các nhà đầu tư
nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng, họ là lực lượng tổ chức phân công
lao động trên phạm vi thế giới, là lực lượng phát huy có hiệu quả lợi thế so
sánh của các quốc gia; thúc đẩy dòng vốn vận động trên toàn cầu và đóng góp
quan trọng cho sự phát tiển của một số quốc gia. Việt Nam là quốc gia đang
phát triển, nhu cầu vốn để phát triển đất nước là rất nhiều nên việc tận dụng
nguồn vốn từ bên ngoài của các nhà đầu tư nước ngoài luôn được khuyến
khích. Nhà nước luôn có chính sách ưu đãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thực tế cho thấy khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong những
năm qua đóng góp khoảng 20% GDP, 30% xuất khẩu của Việt Nam [ tổng
hợp từ các báo cáo phát triển kinh tế xã hội hàng năm của Chính phủ giai
đoạn 2000 đến 2009 ].
Bên cạnh những tác động tích cực thì đầu tư nước ngoài nhất là đầu tư

gián tiếp có thể tạo ra bong bong tài chính ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ
và tỷ giá hối đoái của các quốc gia. Bài học từ Khủng hoảng tài chính 1997 tại
châu Á là một minh chứng cho tác động này
1.1.3.2. Những khái niệm liên quan đến đầu tƣ
Dưới góc độ kinh tế học vĩ mô: Đầu tư, chỉ việc gia tăng vốn ( capital)
nhằm tăng cường năng lực sản xuất tương lai. Đầu tư, vì thế, còn được gọi là
hình thành vốn hoặc tích lũy vốn. Tuy nhiên, chỉ có tăng tư bản làm tăng năng

10
lực sản xuất vật chất mới được tính. Còn tăng vốn trong lĩnh vực tài chính tiền
tệ và kinh doanh bất động sản bị loại trừ. Việc gia tăng vốn tư nhân (tăng thiết
bị sản xuất) được gọi là đầu tư tư nhân. Việc gia tăng vốn xã hội được gọi là
đầu tư công cộng [http:// www. Wikipedia.com]
Dưới góc độ tài chính: Đầu tư tài chính là một hình thức đầu tư chủ yếu
thông qua hình thức mua chứng khoán, trái phiếu hoặc các công cụ tài chính
khác. Nhà đầu tư tài chính thông thường chỉ nhắm vào mục đích mua và bán
chứ ít làm tăng giá trị thực của công ty mà họ đầu tư vào. Đầu tư tài chính
gồm các hình thức:
 Góp vốn (mua cổ phần) thành lập doanh nghiệp lần đầu
 Mua/bán chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá)
 Mua lại cổ phần, sáp nhập doanh nghiệp
Các tổ chức đầu tư tài chính: Các ngân hàng đầu tư; Các quỹ đầu tư, công
ty chứng khoán; Các cá nhân, tổ chức kinh doanh chứng khoán [http:// www.
Wikipedia.com]
Theo quy định tại điều 3, Luật đầu tư, một số khái niệm về đầu tư được
hiểu như sau:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư
bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư.

Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến
hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác
định.
Nhà đầu tư là tổ chức cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư bao gồm:

11
- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh
nghiệp;
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã;
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật này
có hiệu lực;
- Hộ kinh doanh, cá nhân;
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người
nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
- Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt
động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Đầu tư được thực hiện dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp cụ thể:
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Hai hình thức đầu tư này có điểm khác nhau cơ bản là ở hình thức đầu
tư trực tiếp nhà đầu tư trực tiếp tham gia quản lý đầu tư, ở hình thức đầu tư
gián tiếp nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý đầu tư. Ngoài ra, còn có
sự khác biệt về cách thức đầu tư: đầu tư trực tiếp thường là trực tiếp bỏ vốn từ
đầu để thực hịên hoạt động đầu tư ( doanh nghiệp, dự án bắt đầu được thực
hiện); đầu tư gián tiếp là tham gia góp vốn vào doanh nghiệp đã tồn tại, dự án

đã được thực hiện. Sự phân biệt hai hình thức đầu tư này có ý nghĩa quan

12
trọng vì nó là cơ sở đặt ra chế độ pháp lý khác nhau với nhà đầu tư từ đó bị
điều chỉnh bởi những văn bản pháp luật khác nhau ( trong chương 2 sẽ phân
tích rõ hơn vấn đề này)
Đầu tư về cơ bản là nhằm mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên cũng có
những hoạt động đầu tư là phi lợi nhuận như Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng, các tổ chức phi lợi nhuận đầu tư cho mục đích nhân đạo, bảo vệ môi
trường . . .
1.1.3.3. Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
Đầu tư nước ngoài đã được thực hiện tại Việt Nam từ những năm đầu
thập kỷ 80 thế kỷ 20, trong khuôn khổ hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Liên
Xô,. ngày 19-6-1981 ký Hiệp định thành lập Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí
Việt Xô (Vietsovpetro) . Sau đó thể hiện chính sách đổi mới của Nhà nước,
Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản luật để thu hút đầu tư nước ngoài: Luật
đầu tư nước ngoài ngày 29 tháng 12 năm 1987, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 30 tháng 6 năm 1990,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
ngày 23 tháng 12 năm 1992. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày
12/11/1996, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài
năm 2000 ngày 09/6/2000 ( gọi tắt Luật đầu tư nước ngoài). Cùng với luật,
nước ta đã ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn. Các văn bản này
đều có phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, chưa có
quy định về hình thức đầu tư gián tiếp. Tại các văn bản này quy định: Nhà
đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài
Tuy nhiên trong lĩnh vực đầu tư giai đoạn này có hai đạo luật điều
chỉnh, ngoài Luật đầu tư nước ngoài còn có Luật khuyến khích đầu tư trong
nước được Quốc hội thông qua ngày 22/6/1994. Để nhất thể hoá môi trường
đầu tư, tạo sự bình đẳng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đồng


13
thời khắc phục những hạn chế thiếu sót của các văn bản luật trước, Luật đầu
tư đã được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI
thông qua tại kỳ họp thứ 8 ( từ 18/10 - 29/11 năm 2005), có hiệu lực ngày
01/7/2006. Cùng với Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2005 để hướng dẫn thi hành Luật đầu tư, sau đó,
các bộ cũng ban hành nhiều văn bản hướng dẫn Nghị định này.
Tại khoản 5, điều 3 Luật đầu tư đã quy định : “ Nhà đầu tư nước ngoài
là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt
Nam”.
Như vậy nhà đầu tư nước ngoài có 03 đặc điểm:
+ Là tổ chức, cá nhân nước ngoài
+ Bỏ vốn để thực hiện đầu tư
+ Hoạt động đầu tư thực hiện tại Việt Nam.
Không như các đạo luật về đầu tư nước ngoài trước đó, Luật đầu tư, lần
đầu tiên trong một văn bản Luật xác định rõ hình thức đầu tư gián tiếp. Trên
thực tế đã có một số văn bản dưới luật quy định việc góp vốn, mua cổ phần
của nhà đầu nước ngoài như Nghị định 187/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của
Chính phủ quy định về chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần đã
quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của Doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hoá; Quyết định số 36/2003/QĐ-TTg ngày 11 tháng 3 năm
2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Như vậy nhóm các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hình thức
đầu tư có thể phân thành hai loại:
Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp, là những người thực hiện đầu tư dưới
hình thức đầu tư trực tiếp.

14

Nhà đầu tư nước ngoài gián tiếp, là những người thực hiện đầu tư dưới
hình thức gián tiếp.
Trong nội dung quy chế pháp lý của hai nhóm này có nhiều điểm khác
nhau.
Bên cạnh cách phân loại này, theo tư cách chủ thể nhà đầu tư nước
ngoài có thể được phân loại thành nhà đầu tư là tổ chức chủ yếu là các doanh
nghiệp và các cá nhân. Nói chung tuy nhà đầu tư tổ chức có số lượng ít hơn
nhưng do tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, vị thế kinh doanh nên họ là
lực lượng có vị thế và đóng góp nhiều hơn cho Việt Nam.
1.2. Địa vị pháp lý của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
1.2.1. Khái niệm điạ vị pháp lý của ngƣời nƣớc ngoài
Pháp luật của mỗi quốc gia quy định địa vị pháp lý của người nước
ngoài phù hợp với nguyên tắc chung của luật quốc tế và các điều ước quốc tế
mà nước đó tham gia.
Tổng hợp tất cả các yếu tố như quyền năng chủ thể của người nước
ngoài, quyền nghĩa vụ pháp lý, lợi ích hợp pháp của người nước ngoài, các
biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện quyền nghĩa vụ pháp lý cũng như lợi ích
hợp pháp của người nước ngoài . . . cấu thành địa vị pháp lý của người nước
ngoài [9, trang 113]
Khi đề cập đến vấn đề địa vị pháp lý của người nước ngoài, trước hết
phải tìm hiểu việc giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật và năng
lực hành vi của người nước ngoài.
Với cá nhân: năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng của người đó
được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ mà theo pháp luật quy định.
Năng lực hành vi của cá nhân là khả năng của chính người đó bằng hành vi

15
của mình thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ theo pháp luật quy
định. Thông thường các quốc gia quy định năng lực pháp luật của người nước
ngoài ngang hoặc tương đương công dân nước sở tại. Đại đa số các quốc gia

xác định năng lực hành vi theo nguyên tắc luật quốc tịch. Một số nước như
Anh, Mỹ xác định năng lực hành vi theo nguyên tắc luật nơi cư trú.
Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“ Điều 761. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch.
2. Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân
Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
quy định khác.
Điều 762. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài
1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác.
2. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự
tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định
theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Với pháp nhân, khi hoạt động với tư cách là pháp nhân nước ngoài ở
một nước nào đó, năng lực pháp luật của pháp nhân tại nước sở tại tuỳ thuộc
vào quy định ở nước sở tại. Nhưng, vấn đề về tổ chức, vấn đề nội bộ, giải thể,
thanh lý tài sản vẫn theo quy định của pháp luật nước pháp nhân mang quốc
tịch.
Như vậy, đặc điểm quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài
thể hiện ở chỗ cùng một lúc pháp nhân phải tuân theo hai hệ thống pháp luật
là pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch và pháp luật nơi pháp
nhân đang hoạt động. Khi quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân ở nước

16
ngoài bị xâm phạm thì pháp nhân được nhà nước mà pháp nhân mang quốc
tịch bảo hộ về mặt
Bộ luật dân sự 2005 quy định:

Điều 765. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài
1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo
pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều này.
2. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác
định theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, khi xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, pháp
nhân; năng lực hành vi dân sự của cá nhân người nước ngoài pháp luật Việt
Nam quy định dựa trên sự kết hợp hệ thuộc Luật quốc tịch, Luật nơi cư trú và
Luật nơi thực hiện hành vi.
1.2.2. Nguyên tắc xác định địa vị pháp lý của ngƣời nƣớc ngoài
Trong pháp luật và phụ thuộc vào mức độ quan hệ giữa các quốc gia và
tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, các quy định về địa vị pháp lý của người
nước ngoài ( thể nhân và pháp nhân) có thể được xây dựng trên nguyên tắc
hay các chế độ pháp lý sau:
+ Chế độ đãi ngộ như công dân: Người nước ngoài được hưởng các
quyền dân sự và lao động; cũng như thực hiện các nghĩa vụ ngang hoặc tương
đương công dân nước sở tại đang đượ hưởng và sẽ được hưởng ( trừ những
trường hượp ngoại lệ theo pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể.
Trên thực tế, luật pháp các nước giành riêng cho người nước ngoài
được hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân của họ không phải ở tất cả mọi
mặt, mà bao giờ cũng có những hạn chế như không có các quyền bầu cử, ứng

17
cử, đề cử; quyền cư trú hạn chế; quyền học tập, hành nghề hạn chế; quyền sở
hữu bất động sản hạn chế . . .
+ Chế độ tối huệ quốc
Nội dung cơ bản của chế độ tối huệ quốc là người nước ngoài và pháp
nhân nước ngoài được hưởng một chế độ mà nước sở tại dành cho người nước

ngoài và pháp nhân nước ngoài của bất kỳ nước thứ ba nào đang hưởng và sẽ
được hưởng trong tương lai.
Đây là một chế độ pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực
quan hệ kinh tế, thương mại và hàng hải. Chế độ tối huệ quốc dành riêng cho
công dân và pháp nhân nước này hay nước kia cần phải được quy định rõ ràng
và cụ thể trong các Hiệp định quốc tế (thường trong các Hiệp định thương mại
và hàng hải; Hiệp định về thuế quan và mậu dịch; Hiệp định về thị trường
chung hay thị trường tự do …)
Theo chế độ tối huệ quốc thì người nước ngoài và pháp nhân nước
ngoài được hưởng đầy đủ và hoàn toàn các quyền hợp pháp mà một quốc gia
đã dành cho và sẽ dành cho bất kỳ một nhóm người nước ngoài và pháp nhân
nước ngoài nào đang sinh sống hay hoạt động trên lãnh thổ của quốc gia đó.
Đây chính là sự thể hiện rõ nhất của thuật ngữ “tối huệ quốc” được hiểu trong
khoa học pháp lý quốc tế. Như vậy chế độ tối huệ quốc đưa lại các điều kiện
cũng như các tiêu chuẩn pháp lý như nhau (theo nghĩa bình đẳng, bình quyền)
cho người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài của các quốc gia đã ký kết
với nhau hiệp định mà trong đó có quy định chế độ này.
Tiêu chí của chế độ tối huệ quốc được ghi nhận dù là trong các hiêp
định song phương hoặc trong các hiệp định đa phương là dành cho các công
dân và pháp nhân của các nước ký kết các điều kiện và cơ hội ngang nhau
trong thương mại, hàng hải và trong các quan hệ kinh tế khác, đồng thời xoá

18
bỏ mọi sự kỳ thị, phân biệt với các lý do khác nhau trong hoạt động thương
mại quốc tế. Ngoài ra chế độ tối huệ quốc trong các hiệp định quốc tế còn
củng cố và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế thương mại và các quan hệ toàn diện
khác giữa các quốc gia trên thế giới, cơ sở tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và
cùng có lợi.
+ Chế độ đãi ngộ đặc biệt
Thực chất của chế độ này thể hiện ở chỗ là người nước ngoài và pháp

nhân nước ngoài được hưởng chế độ ưu tiên, ưu đãi đặc biệt hoặc các quyền
đặc hưởng mà nước sở tại dành cho họ (thậm chí công dân nước sở tại cũng
không được hưởng)
Các ưu tiên, ưu đãi hoặc các đặc quyền này thường được quy định
trong luật pháp của các quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế.
+ Chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc
Chế độ có đi có lại thể hiện sự phát triển khách quan thực tại của thế
giới ngày nay trong mối tương quan phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia.
Việc củng cố, tăng cường và phát triển các quan hệ kinh tế, khoa học - kỹ
thuật, văn hoá giữa các quốc gia không thể có được nếu như nó không được
xây dựng trên cơ sở nền tảng của chế độ có đi có lại. V.I.Lênin đã khẳng định:
“Chỉ có bình đẳng giữa các quốc gia có các chế độ chính trị khác nhau mới có
quan hệ bình đẳng được”
Chế độ có đi có lại thường được ghi nhận trong các điều ước quốc tế
bởi lẽ các quốc gia muốn bảo đảm quyền và lợi ích cho công dân và pháp
nhân của nước mình ở nước ngoài.
Do các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau và sự phát triển của các
quốc gia không đồng đều, cho nên trong thực tiễn Tư pháp quốc tế chế độ có
đi có lại được thể hiện dưới hai cách như sau:

19
- Có đi có lại thực chất
- Có đi có lại hình thức.
Có đi có lại thực chất được hiểu là một nước dành cho thể nhân và pháp
nhân nước ngoài một số quyền và nghĩa vụ hoặc những ưu đãi nhất định đúng
bằng những quyền và nghĩa vụ cũng như ưu đãi thực tế mà các thể nhân, pháp
nhân của nước đó đã được hưởng ở nước ngoài kia. Có đi có lại thực chất đôi
khi mới được áp dụng ở những nước có cùng chế độ chính trị - kinh tế - xã
hội. Song cũng gặp không ít khó khăn khi mà trình độ phát triển kinh tế của
các nước không đồng đều hoặc phong tục, tập quán và truyền thống dân tộc

khác nhau.
Ngược lại có đi có lại hình thức lại mang một nội dung khác và có
những ưu điểm trong áp dụng, khắc phục được những khiếm khuyết mà chế
độ có đi có lại thực chất không thể khắc phục được. Nội dung của chế độ có
đi có lại hình thức thể hiện ở chỗ một nước dành cho thể nhân và pháp nhân
nước ngoài một chế độ pháp lý nhất định như chế độ đãi ngộ như công dân
hoặc chế độ tối huệ quốc mà ở nước kia cũng đã dành cho công dân và pháp
nhân nước mình một chế độ tương ứng như thế. Quy định trên được áp dụng
rất hữu hiệu trong quan hệ giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau.
Một mặt, khi áp dụng chế độ có đi có lại hình thức cho công dân nước
ngoài ở Việt Nam tức là được hưởng các quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân
sự và lao động như công dân Việt Nam, họ có thể được hưởng các quyền mà
ở ngay chính nước họ cũng không được hưởng. Mặt khác, người nước ngoài
cũng không thể đòi hỏi các quyền mà trước đây họ được hưởng ở nước mình,
thì nay cũng được hưởng ở Việt Nam như là quyền sở hữu đối với đất đai.

20
Hiện nay, trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác chúng ta
thường áp dụng chế độ có đi có lại hình thức.
+ Chế độ báo phục quốc: Chế độ báo phục quốc được áp dụng trên cơ
sở của chế độ có đi có lại và cùng xuất phát từ tinh thần “có đi có lại” nên vấn
đề “báo phục” được đặt ra trong quan hệ giữa các quốc gia. Báo phục được
hiểu là các biện pháp trả đũa. Nếu một quốc gia nào đó đơn phương sử dụng
những biện pháp hoặc có hành vi gây thiệt hại hoặc tổn hại cho các quốc gia
khác hay công dân, pháp nhân của quốc gia khác thì chính quốc gia bị tổn hại
đó hoặc công dân, pháp nhân của nó được phép sử dụng những biện pháp trả
đũa như hạn chế hoặc có các hành động tương ứng đối phó hoặc đáp lại các
hành vi của quốc gia đầu tiên đơn phương gây ra các thiệt hại đó. Tổng hợp
các hành vi đối phó đáp lại được gọi là các biện pháp báo phục và hoàn toàn

hợp pháp trên cơ sở có đi có lại. Thực tiễn Tư pháp quốc tế coi các quy định
này như nguyên tắc tập quán trong quan hệ giữa các quốc gia. Mục đích của
các biện pháp báo phục là nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị vi phạm
và giống như biện pháp bảo đảm thực thi pháp luật [ tham khảo Giáo trình tư
pháp quốc tế- Đại học luật Hà Nội – 2000, Chương III]
1.2.3 Địa vị pháp lý của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
Nhà đầu tư nước ngoài trước hết họ là người nước ngoài nên địa vị
pháp lý của họ là địa vị pháp lý của người nước ngoài. Tuy nhiên, họ là nhà
đầu tư nên địa vị pháp lý của họ còn có những quy định riêng về địa vị pháp
lý của nhà đầu tư.
Trước đây, khi Luật đầu tư nước ngoài còn có hiệu lực pháp luật, quy
chế pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài được xây dựng trên cơ sở chế độ tối
huệ quốc và chế độ đãi ngộ đặc biệt.

21
Hiện nay, đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật
Việt Nam quy định địa vị pháp lý của họ dựa trên chế độ tối huệ quốc. Các
nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến từ các quốc gia khác nhau đều bình
đẳng với nhau. Tuy rằng Việt Nam có ký một số hiệp định ưu đãi đầu tư đối
với các quốc gia nhưng sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật
của các nhà đầu tư vẫn được thực hiện có chăng chỉ tạo các điều kiện để xúc
tiến đầu tư . . . So với các nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài bị
hạn chế một số quyền và ưu đãi.
Nội dung quy chế pháp lý thể hiện địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam được quy định chủ yếu trong Luật đầu tư và các văn bản
liên quan.
1.3. Thị trƣờng chứng khoán
1.3.1 Khái niệm thị trƣờng chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được
quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung

và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người
mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những
thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát
hành ở thị trường sơ cấp [http:// www.ssc.gov.vn]
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra
các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua
đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn có liên quan
chặt chẽ với thị trường tiền tệ ( thị trường vốn ngắn hạn)

22
Theo quy định tại Điều 6 Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua
ngày 29/6/2006 và có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2007, các khái niệm về
chứng khoán được hiểu như sau:
“ Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng
khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu
điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn
bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà
đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng.
Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành
kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện
hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.

Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát
hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán
được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được
xác định trước trong thời kỳ nhất định.
Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng
cho phép người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng

23
chứng khoán được xác định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức
giá được xác định trước.
Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán,
nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và
mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai”
Hàng hoá cơ bản trên thị trường chứng khoán là cổ phiếu , trái phiếu và
chứng chỉ quỹ. Các loại chứng khoán còn lại là chứng khoán phái sinh.
1.3.2. Chức năng cơ bản của thị trƣờng chứng khoán
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Đây là chức năng cơ bản nhất
của thị trường chứng khoán. Thông qua thị trường các nhà phát hành huy
động vốn cho doanh nghiệp của mình để thực hiện các mục tiêu phát triển
doanh nghiệp.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: Là kênh thu hút vốn
quan trọng đồng nghĩa thị trường chứng khoán là kênh đầu tư có hiệu quả
nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: thị trường chứng khoán là
nơi mua bán, trao đổi các loại chứng khoán chính là cách thức mà các nhà đầu
tư chuyển nhượng vốn cho nhau nhanh chóng, tạo ra tính hấp dẫn của việc
đầu tư. Thị trường chứng khoán chính là “ chợ vốn”.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua nghĩa vụ công bố
tin, thông qua giá cả các loại chứng khoán mà các nhà đầu tư đánh giá được
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô: Thị
trường chứng khoán là “ phong vũ biểu” của nền kinh tế, nó cực kỳ nhạy cảm
với tình hình kinh tế, chính trị quốc gia và là công cụ có hiệu quả thực hiện

24
các sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. Thị trường chứng khoán là nơi chính
phủ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và thực hiện cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
1.3.3. Các chủ thể tham gia thị trƣờng chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được
chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên
quan đến chứng khoán.
* Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán –
hàng hoá của thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các
trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
* Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị
trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá
nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
* Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán

×