Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Pháp luật Việt Nam và các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.99 KB, 90 trang )


1



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG






PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC
TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2012



2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG





PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC
TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60


Luận văn thạc sĩ luật học




Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đức Long




HÀ NỘI - 2012



3


MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
6
1.1.
Khái niệm môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển và
bảo vệ môi trường biển
6
1.2.
Nguồn gây ô nhiễm môi trường biển
10
1.3.
Các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển
15
1.4.
Pháp luật bảo vệ môi trường biển một số nước trên thế
giới
19

Chương 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG BIỂN VÀ VIỆC THAM GIA, THỰC
HIỆN CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM
27
2.1.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường

biển
27
2.1.1.
Luật pháp về các vùng biển Việt Nam
27
2.1.2.
Luật pháp Việt Nam về bảo vệ môi trường biển
29
2.1.2.1.
Hệ thống chính sách bảo vệ môi trường
30
2.1.2.2.
Các quy định về bảo vệ môi trường biển trong Luật Bảo
vệ môi trường 2005 và các luật khác có liên quan
32
2.2.
Quy định của một số Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường
40

4


2.2.1.
Công ước Luật biển 1982
40
2.2.2.
Công ước Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm biển do
dầu gây ra
44
2.2.3.

Công ước về sẵn sàng ứng phó và hợp tác chống ô nhiễm
dầu năm 1990 (OPRC)
45
2.2.4.
Công ước về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới
chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng (Basel 1989)
46
2.3.
Quá trình Việt Nam gia nhập các Công ước quốc tế về
bảo vệ môi trường biển
48
2.3.1.
Các Công ước Việt Nam đã gia nhập, ký kết
48
2.3.2.
Các Công ước Việt Nam đang xem xét để tham gia
49
2.4.
Thực trạng thực thi pháp luật và các Công ước quốc tế về
bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam
50
2.4.1.
Tình hình thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam
về bảo vệ môi trường biển và nguyên nhân của thực trạng
43
2.4.2.
Tình hình thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi
trường biển ở Việt Nam và nguyên nhân
55


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
VIỆT NAM VÀ VỀ VIỆC VIỆT NAM TIẾP TỤC
THAM GIA CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO
VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
64
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi
trường biển và một số kiến nghị
64
3.2.
Tăng cường gia nhập các Công ước quốc tế về bảo vệ môi
trường biển
69

KẾT LUẬN
79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
81

5


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Khi nói đến tiềm năng của biển, người Việt Nam có câu " Rừng vàng
biển bạc". Đúng thế! Biển không chỉ giàu có mà còn rất đẹp. Tài nguyên của
biển vô cùng đa dạng và phong phú, đó là kho chứa hóa chất vô tận trong

nước, dưới đáy biển, trong lòng đất; nước biển chứa một kho muối, nước…
khổng lồ; biển còn là nguồn năng lượng sạch có thể khai thác như gió, nước,
nhiệt độ, các dòng hải lưu… Là một đất nước có hơn 3260 km bờ biển, với
một vị trí địa lý thuận lợi nên Việt Nam được coi là quốc gia có tiềm năng lớn
để phát triển kinh tế biển như hàng hải, du lịch, dịch vụ, công nghiệp đóng
tàu, khai thác hải sản, dầu khí… Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X đã ra "Nghị quyết về Chiến lược biển đến năm 2020" là
"Phấn đấu đưa kinh tế biển đóng góp khoảng 53% - 55% GDP và 55% - 60%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước" [27]. Những tiêu chí trên thể hiện rõ tầm
quan trọng của biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thế nhưng dưới sức ép của phát triển kinh tế, của sự gia tăng dân số…
nên biển đang bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng từ những hoạt động ngày
càng gia tăng của con người. Theo thống kê, mỗi ngày có hàng nghìn tấn rác
từ các hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản, du lịch, công nghiệp, nước
thải sinh hoạt…đổ trực tiếp ra biển không qua xử lý, sự cố tràn dầu…đang
khiến môi trường nước biển bị ô nhiễm nặng, khiến cho các nguồn thủy sản
đang cạn kiệt dần, nhiều loài hải sản đã được đưa vào sách đỏ, các hệ san hô,
hệ động thực vật biển và nguồn lợi hải sản, dầu khí đang có xu hướng giảm
dần về trữ lượng, sản lượng, thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ biển với mức
độ ngày càng trầm trọng, nhiều bãi biển đẹp đang mất dần… Môi trường biển
Việt Nam đang kêu cứu! Đến một lúc nào đó khi biển quá tải vì ô nhiễm môi
trường nó sẽ quay lại hủy hoại chính chúng ta.

6


Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường biển là do chúng
ta chỉ chú trọng phát triển kinh tế biển mà chưa có sự quan tâm, hành động và
đầu tư đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường biển, không chỉ là do
kinh tế còn kém phát triển, lạc hậu, ý thức của người dân còn thấp, sự thiếu

hiểu biết pháp luật về biển nhất là pháp luật bảo vệ môi trường biển của
những người tham gia hoạt động khai thác sử dụng, quản lý biển… mà điều
quan trọng nhất là các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển của
Việt Nam còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể và thiếu thực tế, gây khó khăn cho
việc tổ chức thực hiện. Vấn đề bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển
không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam hay của riêng bất kỳ một quốc gia
nào mà môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và toàn cầu. Môi
trường biển mỗi nước đều chịu tác động bởi môi trường toàn cầu và môi trường
xuyên biên giới với các quốc gia láng giềng. Vì vậy, để giải quyết vấn đề môi
trường biển cần có sự hợp tác, chung tay góp sức của cả thế giới. Tuy nhiên, việc
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển cũng như việc tham gia ký
kết và thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển của chúng ta còn
bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thực sự được quan tâm thích đáng. Chúng ta chưa
có một hành lang pháp lý hoàn chỉnh để răn đe, giáo dục, xử phạt, xét xử các
tội phạm về môi trường một cách nghiêm minh, triệt để và để thu hút nhiều
hơn nữa sự đầu tư, hợp tác, giúp đỡ về công nghệ môi trường từ các nước
phát triển cũng như chưa tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế cho hoạt động nghiên
cứu giám sát quản lý về ô nhiễm biển, cùng bảo vệ môi trường biển…
Xuất phát từ những trăn trở của cá nhân tác giả khi môi trường, đặc
biệt là môi trường biển đang ngày càng bị hủy hoại nghiêm trọng, xuất phát từ
nhận thức muốn phát triển bền vững nhất thiết phải gìn giữ, bảo vệ tốt môi
trường, trong đó có môi trường biển, đây là vấn đề sống còn và cấp bách vì
môi trường ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đến đời sống, sản xuất, sự phát triển
tồn tại của từng quốc gia, dân tộc. Vì thế, tác giả cũng muốn góp tiếng nói
nhỏ bé của mình vào tiếng chuông cảnh tỉnh chung về bảo vệ môi trường

7


biển. Hơn nữa, bản thân tác giả cũng đang hoạt động trong ngành tư pháp nên

hiểu rõ pháp luật là một công cụ quan trọng, hiệu quả nhất trong việc bảo vệ
môi trường và gắn bó pháp luật quốc gia với luật quốc tế để có được sức
mạnh tập thể càng quan trọng hơn. Với mong muốn làm sáng tỏ các quy định
của pháp luật Việt Nam cũng như luật quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường
biển để từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn về các quy định của pháp luật quốc gia
cũng như quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường. Đồng thời, tìm ra những điểm
thiếu sót, bất cập, còn hạn chế của pháp luật, có những kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật quốc gia cho phù hợp với luật pháp quốc tế.
Qua đó, góp phần bảo vệ môi trường biển nói riêng và môi trường nói chung,
bởi bảo vệ cho môi trường chính là bảo vệ cho tương lai. Vì những lý do đó,
tác giả quyết định chọn đề tài: "Pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế
về bảo vệ môi trường biển" làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công ước quốc tế hay vấn đề bảo vệ môi trường biển là những vấn đề
không mới. Thực tế đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, khóa luận,
luận văn… đề cập đến vấn đề này như cuốn sách Bảo vệ môi trường biển Việt
Nam- Vấn đề và giải pháp của tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao năm 2004; khóa luận
tốt nghiệp của Nguyễn Hồng Ly năm 2009 về Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi
trường biển trong hoạt động dầu khí; bài viết "Ô nhiễm môi trường biển và vấn
đề thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam", của
Đỗ Văn Sen trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật
năm 2008…Tuy nhiên, những bài viết, khóa luận chỉ đề cập đến một số khía
cạnh về việc thực hiện các điều ước quốc tế hay đề cập đến vấn đề bảo vệ môi
trường biển ở một số lĩnh vực, chủ yếu là ô nhiễm do dầu. Riêng cuốn sách
của TS. Nguyễn Hồng Thao đã phân tích khá đầy đủ, toàn diện về vấn đề bảo
vệ môi trường biển Việt Nam cũng như đưa ra giải pháp để cải thiện và bảo
vệ môi trường biển. Trong đó, cuốn sách cũng dành một phần riêng để phân
tích về vấn đề Việt Nam và các công ước quốc tế về môi trường biển.

8



Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đóng góp một phần
vào việc bảo vệ môi trường biển, tạo ưu thế cho sự phát triển của các ngành kinh
tế biển. Tuy vậy, do giới hạn của từng công trình, chúng đã không đề cập hoặc
có đề cập đến vấn đề pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi
trường biển nhưng ít nghiên cứu chuyên sâu về mặt khoa học pháp lý. Có thể
khẳng định đây là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn
diện và có hệ thống các vấn đề lí luận và thực tiễn về pháp luật Việt Nam và các
công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển với cấp độ luận án thạc sĩ luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Luận văn xác định mục đích, nhiệm vụ chính là:
- Tìm hiểu và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo
vệ môi trường biển, tình hình tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về
bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam.
- Tìm ra những điểm bất cập và hạn chế trong quy định của pháp luật
trong nước cũng như các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển.
- Làm nổi bật các nguyên nhân dẫn đến tình trạng pháp luật Việt Nam
về bảo vệ môi trường và việc thực thi kém hiệu quả các công ước quốc tế, đặc
biệt là các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển.
- Đưa ra được những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp
luật quốc gia; định hướng cho vấn đề kí kết, đàm phán, gia nhập, thực thi các
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia.
4. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Luận văn có đối tượng nghiên cứu như sau:
- Luận văn tập trung nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp
luật trong nước và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt
Nam đã tham gia để từ đó tìm ra những điểm còn bất cập, hạn chế và đưa ra
giải pháp hoàn thiện.


9


- Nghiên cứu các quy định trong một số công ước quốc tế về bảo vệ
môi trường biển mà Việt Nam đang xem xét để tham gia để từ đó đưa ra các
định hướng và đề xuất cụ thể.
- Nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật và các công ước quốc tế về
bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam, đưa ra kết luận và tìm ra giải pháp thực
thi có hiệu quả.
- Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ môi trường biển và thực tiễn tham
gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở một số nước để rút ra
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam…
5. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề
- Về phương pháp luận: Luận văn vận dụng cách tiếp cận truyền thống
để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật lịch sử; chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê số liệu…
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật Việt Nam và các
công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển
Chương 2: Thực tiễn pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển
và việc tham gia, thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở
Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển

10



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VÀ CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
1.1. KHÁI NIỆM MÔI TRƢỜNG BIỂN, Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG BIỂN
VÀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
Hiện nay, vấn đề bảo vệ môi trường đang là một trong những vấn đề
lớn và cấp bách mà thế giới cần phải giải quyết. Trong số các thành phần của
môi trường, biển chiếm tới 3/4 bề mặt trái đất, vì thế môi trường biển và bảo
vệ môi trường biển đóng một vai trò rất quan trọng.
Môi trường biển được định nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau,
nếu xét về phương diện phạm vi địa lý môi trường biển là toàn bộ vùng nước
biển của trái đất với tất cả những gì có trong đó. Theo Điều 1, khoản 4 Công
ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, môi trường biển được hiểu
bao gồm các tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái biển và chất lượng nước
biển, cảnh quan biển. Như vậy, môi trường biển không chỉ bao gồm các vùng
biển với các đặc trưng lý hóa của chúng mà còn bao gồm cả các nguồn tài
nguyên sinh vật, tài nguyên không sinh vật của vùng cửa sông, các vùng ngập
mặn bao gồm cả trầm tích, các vùng thủy triều lên xuống, các vùng đầm lầy
và bầu khí quyển phía trên mặt biển. Bất kỳ một sự suy thoái nào hay phát
triển không kiểm soát đều ảnh hưởng xấu đến môi trường biển. Tại chương 17
trong Chương trình hành động 21 định nghĩa: "Môi trường biển là vùng bao
gồm các đại dương và các biển và các vùng ven biển tạo thành một tổng thể,
một thành phần cơ bản của hệ thống duy trì cuộc sống toàn cầu và là tài sản
hữu ích tạo cơ hội cho sự phát triển bền vững" [41]. Định nghĩa này nhấn
mạnh mối liên kết giữa môi trường và con người đối với sự phát triển, nghĩa
là môi trường tự nhiên của biển cả chịu sự tác động của các hoạt động của con
người trong quá trình phát triển.


11


Pháp luật Việt Nam không có một định nghĩa riêng về từng thành
phần của môi trường mà Luật bảo vệ môi trường năm 2005 chỉ đưa ra định
nghĩa: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và sinh vật" [62]. Các yếu tố vật chất tạo thành môi trường là
đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình
thái vật chất khác. Như vậy, môi trường biển được xem xét trong một tổng thể
môi trường chung.
Do đó, cũng không có khái niệm thế nào là ô nhiễm môi trường biển,
ta chỉ có thể hiểu và suy diễn từ khái niệm ô nhiễm môi trường mà Luật Bảo
vệ môi trường năm 2005 đã đưa ra: "Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của
các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây
ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật" [62]. Sự biến đổi các thành phần môi
trường có thể do các hoạt động của con người và thiên nhiên mà chủ yếu là do
các hoạt động có ý thức và vô ý thức của con người gây hại cho môi trường.
Cụ thể hơn, đó là việc làm thay đổi một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các tính
chất vật lý (bao gồm cơ, nhiệt, âm, quang, điện tử, phóng xạ…), hóa học, sinh
học của bất kỳ thành phần nào của môi trường dẫn đến sự nguy hại hoặc có
khả năng nguy hại đến sức khỏe, đến sự an toàn hoặc sự hưng thịnh của bất
kỳ giống loài sinh vật nào, trong đó quan trọng nhất là con người. Căn cứ vào
định nghĩa ô nhiễm môi trường của Luật bảo vệ môi trường thì, ô nhiễm môi
trường biển là sự biến đổi trạng thái lý- hóa- sinh học của môi trường biển khi
thải vào môi trường biển những chất độc hại, vi phạm tiêu chuẩn môi trường,
gây ảnh hưởng xấu tới con người và sinh vật. Định nghĩa trên không chỉ rõ
được các tác nhân cũng như thành phần tài nguyên và môi trường bị tổn hại,
không thể hiện hết được tính đặc thù của môi trường biển. Bởi sự tác động
của các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đối với môi trường nước biển,

không khí hay đất liền là khác nhau; mức độ gây suy thoái đến môi trường
cũng khác nhau.

12


Trong các văn bản chuyên ngành như Bộ luật Hàng hải 2005, Luật
Thủy sản 2003, Luật Dầu khí năm 1993 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Dầu khí năm 2000, 2008…cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về ô
nhiễm môi trường biển. Rõ ràng Việt Nam đang rất cần có một nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề này, cần có một định nghĩa cụ thể và thống nhất về vấn
đề ô nhiễm môi trường biển.
Về nguyên tắc, tất cả các quy định trong các văn bản chuyên ngành
đều phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ
môi trường và các điều khoản của các Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường
mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết. Tuy nhiên, trong khi Việt Nam chưa
có một văn bản pháp quy nào định nghĩa cụ thể về môi trường biển và ô
nhiễm môi trường biển thì việc Việt Nam tham gia Công ước 1982 của Liên
hợp quốc về Luật biển là một đảm bảo pháp lý cho việc sử dụng định nghĩa
của Công ước này về ô nhiễm môi trường biển, các nguồn gây ô nhiễm môi
trường biển, tạo cơ sở để thực thi và đưa ra một định nghĩa đặc thù cho môi
trường biển Việt Nam. Công ước Luật biển 1982 đã đưa ra một khái niệm khá
toàn diện về ô nhiễm môi trường biển. Ô nhiễm môi trường biển là:
Việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu
hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông,
khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy
hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển,
kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp
pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương tiện sử
dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển [36, Điều 1].

Theo Công ước Luật biển 1982, hành vi gây ô nhiễm môi trường biển là
những hoạt động của con người gây hậu quả xấu cho môi trường. Định nghĩa
này không đề cập đến các sự cố, tai biến thiên nhiên, sự ô nhiễm tự sinh, mà chỉ
đề cập đến các sự cố môi trường do con người gây ra. Do đó, cần bổ sung

13


nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển từ tự nhiên để có một khái niệm hoàn
chỉnh về ô nhiễm môi trường biển dưới góc độ khoa học và luật học. Theo tác
giả, nên định nghĩa: Ô nhiễm môi trường biển việc con người trực tiếp hoặc gián
tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm từ các cửa
sông, đất liền, trên không trung, đáy biển hoặc do những biến đổi bất thường của
tự nhiên, từ đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy hiểm cho sức
khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải
sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng
nước biển về phương tiện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển.
Xuất phát từ chức năng của môi trường biển đối với cuộc sống con
người là đảm bảo điều kiện sống cho con người; cung cấp tài nguyên; đảm
bảo các lợi ích cho sinh hoạt con người như du lịch, thể thao, nghỉ ngơi, giao
thông; là nơi hấp thụ, đồng hóa các chất thải có nguồn gốc từ đất liền. Cùng
với sự phát triển của khoa học công nghệ thì nhận thức của con người đã thay
đổi, con người hiểu ra rằng tài nguyên biển không phải là vô tận và biển
không phải là bãi rác. Do đó, bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm đang trở
thành một nhiệm vụ bức thiết. Dựa trên quan điểm bảo vệ và phát triển bền
vững môi trường, bảo vệ môi trường biển là ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu
cực của các hoạt động của con người và của tự nhiên đến môi trường biển,
làm ô nhiễm và suy thoái môi trường biển.
Theo Luật bảo vệ môi trường 2005:
Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi

trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối
với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy
thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý, tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học [62, Điều 3].

14


Ô nhiễm môi trường biển cũng như các loại ô nhiễm môi trường khác
cần phải được kiểm soát. Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển là sự tổng hợp
tất cả các biện pháp về thể chế, chính sách, luật, kỹ thuật, công nghệ, tuyên
truyền, giáo dục…nhằm ngăn ngừa, khống chế không cho ô nhiễm môi trường
biển xảy ra, cũng như chủ động xử lý, đối phó làm giảm thiểu hậu quả khi ô
nhiễm xảy ra, tiến đến phục hồi và nâng cao chất lượng môi trường biển.
1.2. NGUỒN GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG BIỂN
Theo Công ước Luật biển 1982, ô nhiễm môi trường biển bao gồm 6
nguồn chính sau:
- Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền kể cả các ô nhiễm xuất phát từ các
dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ công nghiệp.
- Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài
phán quốc gia ven biển, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các công trình thiết
bị thuộc quyền tài phán của họ.
- Ô nhiễm do các hoạt động trong vùng (tức vùng đáy biển di sản
chung của loài người) lan truyền tới.
- Ô nhiễm do sự nhấn chìm và trút bỏ chất thải.
- Ô nhiễm do hoạt động của các loại tàu thuyền và tai nạn tàu thuyền
trên biển.
- Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển.
Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển luôn gắn liền với các lĩnh
vực hoạt động của con người. Việc xác định nguồn gây ô nhiễm môi trường

biển là cần thiết trong quá trình đấu tranh và bảo vệ môi trường biển. Tuy
nhiên, mỗi nguồn gây ô nhiễm môi trường biển nêu trên lại có mức độ ảnh
hưởng khác nhau đến môi trường biển. Đánh giá, phân loại nguồn gây ô
nhiễm môi trường biển sẽ giúp bảo vệ môi trường biển hiệu quả hơn, tốt hơn.

15


* Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền
Đất liền là nơi con người thực hiện phần lớn các hoạt động của mình.
Tuy nhiên, biển cả lại là bãi rác khổng lồ do thói quen xấu của con người gây
nên. Có thể nói, ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền là nguồn ô nhiễm biển lớn
nhất. Các chất thải công nghiệp, nông nghiệp, nước và rác thải sinh hoạt, các
chất thải từ các hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản, hoạt động phá
rừng…đều gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với môi trường biển. Các chất thải
này đi theo các dòng sông, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải ra biển. Tỷ lệ
nguồn ô nhiễm biển xuất phát từ đất liền chiếm tỉ lệ lớn nhất so với các nguồn
ô nhiễm khác.
Tại Việt Nam, ô nhiễm dẫn đến sự cạn kiệt các tài nguyên cá, nhất là
những loài cá ven bờ; tính đa dạng sinh học ngày càng bị đe dọa do phá hủy
môi trường sống như rừng ngập mặn, rặng san hô; axít hóa đất do phát quang
rừng ven biển trên các vùng đất phèn để làm nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản; ô nhiễm do nước thải đô thị không qua xử lý; sử dụng tràn lan và không
kiểm soát hóa chất trong nông nghiệp và công nghiệp…Thêm vào đó, thiên
tai như bão, lũ và xâm nhập mặn cũng tác động lớn tới môi trường biển và có
xu hướng trầm trọng thêm bởi các hoạt động của con người.
Các số liệu thống kê cho thấy, khoảng 70% ô nhiễm biển và đại dương
có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ những chất xả thải của các thành phố,
thị xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, y tế, hóa chất Trong
đó, đáng kể nhất và nguy hại nhất là chất thải từ các nhà máy thông qua hệ

thống thoát nước xả thẳng ra biển và đại dương, trong đó có cả một lượng lớn
các chất bồi lắng, hóa chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất
phóng xạ. "Tổng nguồn thải từ lục địa đưa ra vùng biển ven bờ mỗi năm ước
tính đến 3 triệu tấn COD; 1,83 triệu tấn BOI); 1,11 triệu tấn N-T; 300 nghìn
tấn P-T; 270 triệu tấn TSS; 1,6 triệu tấn dầu mỡ; 16 nghìn tấn hóa chất bảo
vệ thực vật và khoảng 47 nghìn tấn kim loại nặng các loại" [70]. Nguồn thải

16


từ lục địa ra vùng biển ven bờ Việt Nam làm chất lượng nước biển bị suy
giảm và ô nhiễm (một số nơi nước biển chuyển màu xanh hoặc đỏ), bị đục
hóa; các hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản ven bờ bị suy thoái. Đặc biệt
xuất hiện những điểm nóng ô nhiễm vùng biển ven bờ khu vực Quảng Ninh -
Hải Phòng, Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Bà Rịa - Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí
Minh.
Các chất bẩn tích tụ trong biển làm thay đổi chất lượng nước biển, tính
chất vật lý của môi trường biển, ảnh hưởng đến sự trong lành của môi trường,
làm suy thoái và ô nhiễm môi trường biển, qua đó ảnh hưởng xấu tới sức khỏe
của con người.
Việc xác định các thành phần ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền và
đánh giá mức độ đe dọa tác động xấu tới môi trường biển của từng thành phần
có vai trò quan trọng. Từ đó, đưa ra các giải pháp hiệu quả để phòng ngừa,
giảm thiểu tác động đến môi trường của các thành phần này. Tuy vậy, việc
xác định nguồn ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền hết sức phức tạp và các
nguồn ô nhiễm này cũng rất khó kiểm soát. Việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ
nguồn ô nhiễm này là vô cùng khó khăn đối với các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia ven biển.
* Ô nhiễm từ các hoạt động liên quan đến đáy biển
Đây là một trong các nguồn gây ô nhiễm chính đến môi trường biển.

Các hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản, đặc biệt là dầu khí, các hoạt
động khoan, đào xây dựng đường hầm, lắp đặt ống dẫn, dây cáp, xây dựng
các đảo nhân tạo…là nguy cơ tiềm tàng gây ô nhiễm môi trường biển. Quá
trình tiến hành các hoạt động trên có thể gây ra các sự cố như rò rỉ, nổ dàn
khoan, đâm va, tràn dầu, chất thải từ các hoạt động đó…đều ảnh hưởng tới
chất lượng nước biển, làm hủy hoại các giống loài sinh vật biển, giảm sự đa
dạng sinh học và các giá trị khác của biển. Trong đó, sự cố tràn dầu ngày càng
diễn ra với mức độ nghiêm trọng.

17


Hiện nay, hàm lượng dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung
đều vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn ASEAN.
Đặc biệt, có những thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng
dầu ở mức 1,75 mg/lít, gấp 6 lần giới hạn cho phép; 1/3 diện tích mặt nước
vịnh Hạ Long có hàm lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73 mg/lít. Bên cạnh
đó, vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu
khí, ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt
động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trong đó 20 - 30%
là chất thải rắn nguy hại chưa có bãi chứa và nơi xử lý.
Các quốc gia cần có chính sách, biện pháp để đối phó với vấn đề suy
thoái, ô nhiễm môi trường biển do các hoạt động liên quan đến đáy biển gây
ra, nhất là đối với sự cố tràn dầu đang diễn ra ngày càng nhiều như hiện nay.
* Ô nhiễm do sự nhấn chìm và trút bỏ chất thải
Các chất thải đặc biệt là các hóa chất và các chất nguy hại khác thải ra
biển từ các nhà máy, khu công nghiệp…có tác động rất xấu đến môi trường
biển. Các vụ tai nạn tàu chuyên chở các chất nguy hại cũng là nguồn ô nhiễm
do nhấn chìm lớn. Chỉ cần một lượng rất nhỏ các chất này, ví dụ như dioxin,
các chất phóng xạ đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường biển và

đối với sức khỏe, tính mạng con người.
* Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra
Do các hoạt động của tàu thuyền như đốt cháy nhiên liệu, rửa tàu, rác
và nước thải sinh hoạt, tràn dầu và các chất độc hại do các sự cố trên biển như
đâm va, chìm đắm, nổ, cháy, do sơ xảy trong quá trình bốc, xếp, dỡ, vận
chuyển…Phần lớn việc để xảy ra sự cố gây ô nhiễm môi trường biển là do
con người, chỉ một phần nhỏ là do sự cố máy móc, do đó, để hạn chế được
nguồn gây ô nhiễm này thì cần thiết phải đào tạo con người cả về trình độ và
ý thức, nhận thức.

18


Ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm biển do hoạt động của tàu thuyền có
xu hướng gia tăng, phức tạp hơn. Do số lượng tàu thuyền gắn máy loại nhỏ,
công suất thấp, cũ kỹ và lạc hậu tăng nhanh, nên khả năng thải dầu và các
chất thải khác vào môi trường biển nhiều hơn. Các tàu nhỏ chạy bằng xăng
dầu đã thải ra biển khoảng 70% lượng dầu thải. Ngoài ra, hoạt động của tàu
thương mại trên tuyến hàng hải quốc tế cũng thải vào biển Việt Nam một
lượng lớn dầu rò rỉ, dầu thải và chất thải sinh hoạt mà đến nay chưa thể thống
kê đầy đủ. Các vụ tai nạn tàu chở dầu và tai nạn hàng hải là một trong những
nguồn chính gây nên tình trạng ô nhiễm biển tại Việt Nam. Theo thống kê của
Cục Hàng hải Việt Nam, từ năm 1992-2004 xảy ra 928 vụ tai nạn tàu thủy,
đồng nghĩa với nguy cơ tràn dầu ngày càng lớn. Dầu tràn gây hậu quả nặng nề
về nhiều mặt. Đơn cử vụ tàu chở dầu Neptune Aries (Singapore) đâm vào cầu
tàu cảng Cái Tiên trên sông Sài Gòn hồi tháng 10.1994, làm tràn 1.584 tấn
dầu DO và hơn 150 tấn xăng dầu các loại từ đường ống dẫn dầu của cầu cảng…
Hàng loạt các công ước như Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu
thuyền 1973 (MARPOL 73/78), sửa đổi bổ sung năm 1978; công ước về an
toàn tính mạng trên biển (SOLAS) 1974; Công ước tránh đâm va (COLREG)

1978…được các quốc gia gia nhập ngày càng nhiều do tính nghiêm trọng của
nguồn ô nhiễm từ tàu thuyền gây ra.
* Ô nhiễm từ khí quyển
Đây là nguồn ô nhiễm biển riêng biệt, tự nó không làm ô nhiễm môi
trường biển mà bầu khí quyển bị ô nhiễm do các nguồn khác gây nên và qua
đó trở thành nguồn ô nhiễm môi trường biển. Bầu khí quyển bị ô nhiễm do
khí thải từ các ngành công nghiệp, đốt rác thải, từ hoạt động nông nghiệp, bụi
từ đất, từ núi lửa, cháy rừng, các chất phóng xạ từ các vụ thử hạt nhân…Các
chất nhiễm bẩn được phát tán trong không khí làm bầu khí quyển bị ô nhiễm.
Qua các cơn mưa, tuyết rơi các chất nhiễm bẩn này rơi xuống biển, làm ô

19


nhiễm môi trường biển. Do đó, hạn chế nguồn ô nhiễm này sẽ góp phần bảo
vệ môi trường biển.
Như vậy, các nguồn ô nhiễm biển rất đa dạng. Trong đó, ô nhiễm có
nguồn gốc từ đất liền là nguồn ô nhiễm chính và chủ yếu. Vì thế, cần tập
trung vào ngăn ngừa, hạn chế và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn nguồn ô nhiễm
này. Tuy nhiên, nguồn ô nhiễm từ đất liền còn ít được quan tâm hoặc sự điều
chỉnh trong các quy định của pháp luật còn có sự tách biệt, chưa có được một
cái nhìn tổng thể về mối quan hệ chặt chẽ giữa đất liền và biển. Ngoài ra, do
sự kém phát triển về khoa học kỹ thuật cho nên nhiều quốc gia cũng chưa
nhận thức được mối đe dọa từ các nguồn ô nhiễm khác như ô nhiễm từ các
hoạt động ở đáy biển, ô nhiễm khí quyển, ô nhiễm hạt nhân…đối với môi
trường biển nước mình.
1.3. CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
Hiện nay, có khoảng 300 công ước quốc tế về bảo vệ môi trường,
trong đó, có các công ước sau về bảo vệ môi trường biển:
- Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) là

bộ luật hoàn chỉnh nhất về biển trong thời đại chúng ta, dành Phần XII qui
định về việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, gồm 11 mục và 46 điều
khoản (từ Điều 192 đến Điều 237). Đó là cơ sở pháp lý giúp các quốc gia bảo
vệ và giữ gìn môi trường biển, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để ngăn
ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển chung. Điểm nổi bật của
Công ước là xác định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của các quốc gia ven
biển trong việc bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm.
- Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78):
Ra đời năm 1973, đây là bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới, đã được
thông qua tại Hội nghị quốc tế về ô nhiễm biển, do Tổ chức Hàng hải quốc tế
(IMO) triệu tập từ ngày 8/10 đến 2/12/1973. Công ước đưa ra những qui định

20


nhằm ngăn chặn ô nhiễm gây ra do tai nạn hoặc do vận chuyển hàng hóa là
dầu mỏ, hàng nguy hiểm, độc hại bằng tàu, cũng như do nước, rác và khí thải
ra từ tàu. Năm 1978, Công ước 1973 được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định
thư 1978 kèm thêm 5 phụ lục mới, được gọi tắt là MARPOL 73/78. Năm
1997, Marpol 73/78 được bổ sung bằng Nghị định thư 1997 có thêm phụ lục
thứ 6. Như vậy, đến nay Marpol 73/78 đang được thực thi nghiêm ngặt trong
ngành hàng hải thế giới.
- Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng con người trên biển 1974 (SOLAS).
- Công ước quốc tế sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với việc xử lý ô
nhiễm dầu năm 1990 (OPRC).
- Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất thải và những vật liệu
khác (London 1972).
- Công ước về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy
hại và việc tiêu hủy chúng (Basel 1989).
- Công ước về can thiệp ngoài Biển cả trong các trường hợp sự cố ô

nhiễm dầu năm 1969 và Nghị định thư liên quan đến việc can thiệp ngoài biển
cả trong các trường hợp ô nhiễm do các chất khác không phải dầu năm 1973
(Công ước can thiệp).
- Công ước về cứu hộ năm 1989
- Công ước về trách nhiệm dân sự đối với các tổn thất ô nhiễm biển do
dầu năm 1969 (CLC 1969), Công ước quốc tế về thiết lập quỹ quốc tế đền bù
các tổn thất ô nhiễm biển do dầu năm 1971 (FUND 1971), các Công ước sửa
đổi CLC 1992 và FC 1992.
- Công ước về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gắn liền với việc
vận chuyển bằng đường biển các chất nguy hiểm và độc hại 1996 (HNS).

21


- Công ước quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ô
nhiễm dầu, 1969.
- Công ước quốc tế liên quan tới can thiệp vào các biểu vĩ độ cao
trong trường hợp thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969.
- Công ước quốc tế về các hệ thống chống hà của tàu năm 2001 (AFS 2001)
- Công ước quốc tế về kiểm soát và quản lý nước dằn và cặn nước dằn
tàu năm 2004 (BWM 2004)
- Công ước quốc tế Hồng Kông về tái sinh tàu an toàn, thân thiện môi
trường năm 2009 (SR 2009)…
Các công ước quốc tế nêu trên đã, đang góp phần mạnh mẽ vào việc
bảo vệ môi trường biển. Hầu hết, các quốc gia có biển hay không có biển đều
nhận thức sâu sắc rằng việc tham gia các công ước này chính là một công cụ
hiệu quả giúp bảo vệ môi trường biển. Vì thế, trong thời gian qua quá trình
các quốc gia ký kết, gia nhập, phê chuẩn và thực thi hiệu quả các công ước
quốc tế đó đang diễn ra mạnh mẽ. Có thể nói, so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á, Việt Nam là nước tham gia nhiều các công ước quốc tế về bảo

vệ môi trường, trong đó có môi trường biển. Việc tham gia các công ước này
mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích thiết thực về kinh tế, xã hội, chính trị và
môi trường.
Thứ nhất, các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển đều xác
định các quyền và nghĩa vụ của các thành viên. Hầu hết các công ước này đều
quy định các nước phát triển phải có nghĩa vụ giúp đỡ các nước nghèo, các
nước kém phát triển hơn trong việc bảo vệ môi trường biển. Việt Nam mới
được đưa ra khỏi danh sách các nước nghèo nhưng thực tế vẫn là một nước
kém phát triển. Do đó, khi tham gia các công ước này Việt Nam chắc chắn sẽ
nhận được sự giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước phát triển như sự giúp đỡ về
kinh tế, khoa học kỹ thuật, được chia sẻ kinh nghiệm trong việc bảo vệ môi

22


trường biển…Đó là nghĩa vụ của các nước phát triển nhưng có thể coi đó là
"quyền" mà các nước kém phát triển hơn như Việt Nam sẽ được hưởng.
Ngoài ra, Việt Nam sẽ được hưởng các quyền lợi cụ thể được ghi nhận trong
các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, là thành viên các công ước, Việt Nam phải đưa ra những
quyết sách quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển; phải xây dựng,
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật không chỉ trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường biển mà trong nhiều lĩnh vực khác phù hợp với các cam
kết quốc tế. Qua đó, góp phần vào sự phát triển và tiến bộ của hệ thống pháp
luật Việt Nam. Có một nền pháp luật tiên tiến sẽ xóa bỏ các rào cản, thu hút
nhiều sự đầu tư trong nước và nước ngoài về cả vốn, công nghệ và nhân lực
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển và các lĩnh vực khác.
Thứ ba, việc thực hiện tốt các nghĩa vụ và các cam kết quốc tế mà các
công ước quốc tế đã xác định giúp tạo ra uy tín cho Việt Nam, tạo ra niềm tin
đối với bạn bè quốc tế. Từ đó, nâng cao hơn vị thế của Việt Nam trên trường

quốc tế.
Việc tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mang
lại nhiều lợi ích cả trước mắt và lâu dài, góp phần vào việc bảo vệ môi trường
biển Việt Nam nói riêng và môi trường nói chung. Khi môi trường biển được
bảo vệ sẽ mang lại rất nhiều giá trị kinh tế như: nguồn lợi thủy sản phong phú,
nguồn tài nguyên khoáng sản giàu có, sự phát triển của các cảng biển, ngành
công nghiệp, du lịch…Môi trường biển đẹp, trong lành sẽ góp phần cải thiện
chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam và mang lại nhiều giá trị vật
chất, tinh thần khác.
Tóm lại, cùng với quá trình phát triển các quốc gia đã nhận thức rõ
được sự cần thiết của việc hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường biển-
tài sản chung của nhân loại. Do đó, các công ước quốc tế về môi trường biển

23


được xây dựng ngày càng nhiều và được các quốc gia trên thế giới gia nhập,
ký kết tạo nên một khung pháp lý cơ bản về bảo vệ môi trường biển. Tuy vậy,
việc thực thi, nội luật hóa các công ước quốc tế này là vấn đề quan trọng, cần
được các quốc gia quan tâm thích đáng. Có như vậy mới bảo vệ hiệu quả môi
trường nói chung và môi trường biển nói riêng.
1.4. PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI
1.4.1. Pháp luật bảo vệ môi trƣờng biển của Canada
Canada là một quốc gia có diện tích tự nhiên lớn với ba mặt giáp biển,
Canada cũng có bờ biển dài nhất thế giới: 202.080 km (125.570 dặm). Với
diện tích vùng biển rộng lớn và khoảng 24% tổng dân số sinh sống dọc bờ
biển, biển từ lâu đã trở thành một lợi thế to lớn cho việc phát triển kinh tế - xã
hội (KT-XH) ở Canada. Canada là một trong những nước đi đầu trong việc
xây dựng chính sách biển tổng thể ở tầm quốc gia.

Trước đây, Canada tự xem mình là một quốc gia có nguồn tài nguyên
biển phong phú và tính đa dạng sinh học cao cùng với quan niệm "tài nguyên
biển là vô tận", một thời gian dài, biển là địa bàn cho mọi đối tượng khai thác
và sử dụng. Về sau này, do sự phát triển của khoa học- công nghệ, sự gia tăng
mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động khai thác, tài nguyên biển dần
dần cạn kiệt, nhiều loại động, thực vật biển có nguy cơ tuyệt chủng, đa dạng
sinh học bị đe dọa, hệ sinh thái bị tàn phá. Bên cạnh đó, sự phát triển của các
ngành hàng hải, du lịch, các ngành công nghiệp và các ngành nghề khác khiến
môi trường biển bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu tới môi trường sống
của con người. Lúc này, muốn quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên biển, đảm
bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững thì nhất thiết phải giữ gìn, bảo vệ môi
trường biển. Canada đã xây dựng Luật biển Canada (Canada’s Ocean Act) từ
rất sớm. Dựa trên đạo luật này, Chiến lược biển Canada được xây dựng và

24


ban hành năm 2002. Nó được xem là tuyên bố về chính sách của Chính phủ
Canada về quản lý biển. Chiến lược biển quốc gia Canada xác định rõ ba mục
tiêu lớn trong quản lý biển; đó là: hiểu biết và bảo vệ môi trường biển; hỗ trợ
các cơ hội phát triển kinh tế bền vững; và nâng cao vị thế về biển của Canada
trên trường quốc tế. Để đạt được các mục tiêu này, Chiến lược cũng đã đề ra
nguyên tắc chủ đạo cần phải tuân theo trong quá trình xây dựng và thực hiện
các chương trình quản lý biển; bao gồm: nguyên tắc quản lý tổng hợp; nguyên
tắc phát triển bền vững; nguyên tắc cẩn trọng.
Nguyên tắc quản lý tổng hợp (Integrated Management) nhấn mạnh
việc quản lý các hoạt động của con người có ảnh hưởng đến biển phải được
thực hiện một cách tổng thể. Đồng thời, việc quản lý đó phải xem xét và tính
đến tất cả các yếu tố cần thiết cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững cũng như
chia sẻ các nguồn tài nguyên biển. Nguyên tắc quản lý tổng hợp được xem là

vấn đề trọng tâm của Chiến lược biển Canada. Nguyên tắc này đưa ra mục
tiêu xây dựng và thực hiện các chương trình quản lý tổng hợp ở tất cả các
vùng biển của Canada, bắt đầu từ những vùng biển ưu tiên và trên cơ sở đó
xây dựng những bài học kinh nghiệm cho những vùng biển tiếp theo. Thực
chất của nguyên tắc quản lý tổng hợp là chia sẻ quyền hạn, trách nhiệm và
nhấn mạnh sự hợp tác giữa các ngành và chủ thể liên quan trong hoạch định
và thực thi các chương trình quản lý biển nhằm hướng đến những mục tiêu
chung, bền vững. Chính vì vậy, quản lý tổng hợp không chỉ là sự tổng hợp về
chính sách và quyền lực mà còn bao gồm cả việc thiết lập một cơ quan quản
lý liên ngành. Chiến lược biển Canada cũng nhấn mạnh cơ quan quản lý liên
ngành này là điểm mấu chốt của quản lý biển tổng hợp ở Canada.
Nguyên tắc phát triển bền vững cũng là một nguyên tắc chủ đạo của
Chiến lược biển Canada. Có thể nói, đây vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu
trong quản lý biển. Quản lý tổng hợp nhưng phải đạt được sự phát triển bền
vững cho các vùng biển. Nguyên tắc này ghi nhận rằng, cần phải có sự tổng
hợp và cân đối giữa các yếu tố kinh tế - xã hội và môi trường trong hoạch

25


định chính sách quản lý. Đồng thời, việc quản lý, sử dụng và phát triển tài
nguyên biển của thế hệ hiện tại không được phương hại tới khả năng khai thác
và sử dụng của các thế hệ tương lai. Nguyên tắc phát triển bền vững còn nhấn
mạnh đến khả năng quản lý dựa trên việc ứng dụng các thành tựu phát triển
của khoa học- kỹ thuật nhằm thích ứng với các điều kiện mới của môi trường.
Đây được xem là chìa khóa để hướng tới sự phát triển bền vững các vùng biển
ở Canada.
Nguyên tắc cẩn trọng cũng được đặt ra trong Chiến lược biển Canada
với tư cách là một phần trong tiến trình hoạt động chính sách và ra quyết định.
Cụ thể, việc áp dụng nguyên tắc này là khi có một nguy cơ nào đó đe dọa đến

việc quản lý bền vững biển và trong điều kiện không có các cơ sở khoa học
vững chắc về nguy cơ đó thì việc đưa ra quyết định và các giải pháp quản lý
phải được tiến hành một cách thận trọng.
Cùng với chiến lược biển, Chính phủ Canada đã tái khẳng định cam
kết của mình về việc áp dụng rộng rãi nguyên tắc cẩn trọng trong bảo tồn,
quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên biển một cách bền vững. Ngoài ra,
chiến lược biển quốc gia Canada cũng đề cập đến một số nguyên tắc khác
như: nguyên tắc quản lý dựa vào hệ sinh thái (ecosystem-based), nguyên tắc
quản lý dựa vào khoa học (science- based).
Về quản lý biển, chiến lược biển Canada khẳng định đây không phải
là công việc và trách nhiệm của riêng chính quyền liên bang. Quản lý biển
Canada thuộc trách nhiệm chung của cộng đồng. Mọi tổ chức, cá nhân có liên
quan đều phải chia sẻ trách nhiệm này. Chính vì vậy, quản lý biển xác định
trong chiến lược biển là một quá trình làm việc tập thể phối, kết hợp giữa
chính quyền liên bang với các cấp chính quyền khác nhằm chia sẻ trách
nhiệm để hướng tới những mục tiêu chung. Đồng thời, chiến lược biển cũng
thể hiện cam kết của Chính phủ Canada trong việc huy động và tạo điều kiện
cho người dân tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và ra quyết định

×