Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Pháp luật thương mại hàng hoá Hoa Kỳ - cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi giao lưu thương mại hàng hoá với Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.96 KB, 104 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







Nguyễn Thị Lan






Pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ - cơ hội và thách
thức đối với Việt Nam khi giao lưu thương mại hàng hóa
với Hoa Kỳ






LUẬN VĂN THẠC SĨ

















Hà Nội - 2006




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







Nguyễn Thị Lan






Pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ - cơ hội và thách
thức đối với Việt Nam khi giao lưu thương mại hàng hóa
với Hoa Kỳ







LUẬN VĂN THẠC SĨ




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Đinh Ngọc Vượng






Hà Nội - 2006
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội


Luận văn tốt nghiệp
3
MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI CẢM ƠN 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6
DANH MỤC CÁC BẢNG 8
LỜI NÓI ĐẦU 9
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI HÀNG HÓA
CỦA HOA KỲ 13
1.1 Pháp luật thƣơng mại và pháp luật thƣơng mại hàng hóa 13
1.1.1 Pháp luật thương mại 13
1.1.1.1 Thương mại 13
1.1.1.2 Pháp luật thương mại 14
1.1.2 Pháp luật thương mại hàng hóa 15
1.1.2.1 Phân biệt hàng hóa với dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ 15
1.1.2.2 Pháp luật thương mại hàng hóa 17
1.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật thƣơng mại hàng hóa của Hoa
Kỳ 17
1.2.1 Nguồn của pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ 17
1.2.2 Hệ thống các quy định pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ 20
1.2.2.1 Tính phức tạp của pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ 20
1.2.2.2 Một số đạo luật cơ bản trong lĩnh vực thương mại hàng hóa 23
CHƢƠNG 2. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
KHI GIAO LƢU THƢƠNG MẠI HÀNG HÓA VỚI HOA KỲ 50
2.1 Lịch sử mối quan hệ thƣơng mại hàng hóa Việt Nam – Hoa Kỳ 50
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội


Luận văn tốt nghiệp
4
2.2 Những cơ hội cho Việt Nam khi quan hệ thƣơng mại hàng hóa với Hoa
Kỳ 54
2.2.1 Cơ hội về một thị trường giàu tiềm năng 54
2.2.2 Cơ hội về việc làm và nâng cao tay nghề cho người lao động 59
2.2.3 Cơ hội cho các doanh nghiệp học hỏi và thích nghi 61
2.2.4 Động lực thúc đẩy sự nhận thức pháp lý 62
2.2.5 Cơ hội nhập khẩu những mặt hàng chất lượng cao của Hoa Kỳ 63
2.2.6 Tiểu kết 63
2.3 Những thách thức khi Việt Nam quan hệ thƣơng mại hàng hóa với Hoa
Kỳ 64
2.3.1 Thách thức về năng lực xuất khẩu 64
2.3.2 Thách thức trước sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt 65
2.3.3 Sự thách thức trước các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa của Hoa
Kỳ 67
2.3.4 Tranh chấp thương mại 68
2.3.5 Một số khó khăn khác 72
2.3.5.1 Hệ thống pháp luật thương mại hàng hóa của Hoa Kỳ 72
2.3.5.2 Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO 73
2.3.5.3 Khoảng cách địa lý và tập quán thanh toán 73
2.3.5.4 Tiêu chuẩn về kỹ thuật và an toàn thực phẩm 74
2.3.5.5 Rào cản do áp lực về an ninh chính trị 76
2.3.6 Tiểu kết 76
CHƢƠNG 3. NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC VÀ CÁC
DOANH NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH XÚC TIẾN QUAN HỆ THƢƠNG
MẠI HÀNG HÓA VỚI HOA KỲ 77
3.1 Xây dựng chính sách vĩ mô 77
3.1.1 Tăng cường mối quan hệ ngoại giao chính trị 77

Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
5
3.1.2 Xây dựng nền kinh tế thị trường và gia nhập WTO 78
3.1.3 Nâng cao ý thức pháp luật 80
3.1.3.1 Tuyên truyền và giáo dục nâng cao ý thức pháp luật 80
3.1.3.2 Xây dựng đội ngũ luật sư có trình độ cao 83
3.1.4 Quảng bá hình ảnh đất nước 84
3.1.5 Nhà nước cần phát huy vai trò định hướng của mình 85
3.2 Hoàn thiện pháp luật thƣơng mại 86
3.3 Những vấn đề giới doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm 87
3.3.1 Tăng cường tính cạnh tranh 87
3.3.2 Ứng xử khôn khéo khi xảy ra tranh chấp thương mại 89
3.3.3 Thành lập Trung tâm trợ giúp pháp luật quốc tế cho doanh nghiệp
93
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
Giải thích
AD
Antidumping Duties – Chống bán phá giá
APEC
Asia-Pacific Economic Cooperation – Diễn đàn hợp tác kinh tế

Châu Thái Bình Dƣơng
BTA
The Vietnam – US Bilateral Trade Agreement – Hiệp định
thƣơng mại song phƣơng Việt Nam – Hoa Kỳ
CBI
Caribean Basin Initiative – Sáng kiến vùng lòng chảo Caribê
CVD
Countervailing Duties – Thuế chống trợ giá
DOC
US Department Of Commerce – Bộ thƣơng mại Hoa Kỳ
DWPE
Detention Without Physical Examination – Giữ hàng không
cần qua kiểm tra vật lý
FDA
Food and Drug Administration – Cơ quan quản lý an toàn thực
phẩm và dƣợc phẩm Hoa Kỳ
GATT
General Agreement on Tariffs and Trade – Hiệp định chung về
thuế quan và thƣơng mại
GDP
Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội
GSP
Generalized System of Preferences – Chế độ ƣu đãi thuế quan
phổ cập
HTS
Harmonized Tariff Schedule – Bảng thuế quan Hoa Kỳ
MFN
Most Favored Nation – Tối huệ quốc
NAFTA
North American Free Trade Agreement – Hiệp định tự do

thƣơng mại Bắc Mỹ
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
7
NTR
Normal Trade Relations – Quan hệ thƣơng mại bình thƣờng
PNTR
Permanent Normal Trade Relations – Quan hệ thƣơng mại bình
thƣờng vĩnh viễn
QC
Quality Control – Đơn vị đảm nhiệm kiểm tra chất lƣợng hàng
hóa
UCC
Uniform Commercial Code – Bộ luật thƣơng mại mẫu
UNCITRAL
United Nations Commission on International Trade Law – Uỷ
ban Liên hợp quốc về Luật Thƣơng mại quốc tế
USAID
United States Agency for International Development – Cơ quan
phát triển quốc tế Hoa Kỳ
USITC
(ITC)
The US International Trade Commission – Uỷ ban thƣơng mại
quốc tế Hoa Kỳ
VASEP
Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers –
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
WIPO
World Intellectual Property Organisation – Tổ chức sở hữu trí

tuệ thế giới
WTO
World Trade Organisation – Tổ chức thƣơng mại thế giới








Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
8




DANH MỤC CÁC BẢNG

Ký hiệu bảng
Nội dung bảng
Bảng 1.2
Mẫu Biểu thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ
Bảng 2.1
Bảng thị phần hàng Việt Nam tại Hoa Kỳ















Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
9
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Với một quốc gia có tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá hơn 1000 tỉ
USD/năm nhƣ Hoa Kỳ thì việc duy trì mối quan hệ với quốc gia này luôn
đƣợc coi là một trong những mục tiêu và chính sách kinh tế hàng đầu của các
nƣớc đang phát triển. Việt Nam kể từ sau khi bình thƣờng hoá quan hệ và sau
gần năm năm thực hiện Hiệp định thƣơng mại song phƣơng với Hoa Kỳ đã
đạt đƣợc nhiều thành tựu rõ rệt không chỉ riêng đối với nền kinh tế mà cả
trong nhiều phƣơng diện khác liên quan tới việc phát triển toàn diện đất nƣớc.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, sau một thời gian quan hệ thƣơng mại
hàng hoá với Hoa Kỳ, bên cạnh những lợi ích kinh tế mà Việt Nam đã đạt
đƣợc còn có những rủi ro, tổn thất đáng kể mà ngay cả các nhà hoạch định
chính sách và các doanh nghiệp còn chƣa lƣờng trƣớc đƣợc. Những rủi ro và
tổn thất ấy khi nhìn dƣới một góc độ khác thì lại là những kinh nghiệm quý

báu cho Chính phủ và cả giới doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù vậy những bài
học kinh nghiệm ấy còn quá ít ỏi, rủi ro và tổn thất sẽ không chỉ dừng lại ở
đó. Hơn nữa chúng ta đang tiếp thu kinh nghiệm một cách quá thụ động, cần
đặt câu hỏi tại sao và nguyên nhân vì đâu dẫn đến những rủi ro ấy? Việc trả
lời câu hỏi này không chỉ là trách nhiệm của riêng giới kinh tế học mà còn
của cả giới chính trị học và giới luật học.
Có thể khẳng định rằng, một nguyên nhân cơ bản của vấn đề chính là sự ấu
trĩ trong cách tìm hiểu và nắm bắt luật chơi. Chúng ta quan hệ thƣơng mại với
Hoa Kỳ song việc tìm hiểu các chính sách và pháp luật thƣơng mại Hoa Kỳ
mới chỉ đƣợc tiến hành một cách sơ sài. Đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam
trong khi ra sức xuất khẩu hàng hoá vào thị trƣờng Hoa Kỳ vẫn chƣa suy tính
hết về những rào cản thƣơng mại có thể phát sinh, chƣa tìm hiểu cặn kẽ những
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
10
quy định nghiêm ngặt của pháp luật thƣơng mại Hoa Kỳ, và chƣa ý thức đƣợc
vai trò quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của chính mình .
Chính vì vậy mà quan hệ thƣơng mại với Hoa Kỳ luôn mang tính hai mặt: nó
sẽ vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với Việt Nam. Trƣớc tình hình đó, việc
nghiên cứu và tìm hiểu về pháp luật thƣơng mại của Hoa Kỳ đã trở thành một
nhu cầu thiết yếu để Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội tốt hơn và hạn chế đƣợc
tối thiểu những rủi ro trong quá trình quan hệ thƣơng mại với quốc gia này.
Do khả năng còn hạn chế và thời gian nghiên cứu không cho phép nên
luận văn chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu và bình luận những vấn đề trong phạm
vi thƣơng mại về hàng hoá chứ không phải thƣơng mại theo nghĩa rộng bao
gồm cả thƣơng mại dịch vụ, thƣơng mại đầu tƣ, hay thƣơng mại sở hữu trí
tuệ…. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật thương mại hàng hoá
Hoa Kỳ - Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi giao lưu thương mại
hàng hoá với Hoa Kỳ” vẫn là yêu cầu cấp thiết cả về mặt lý luận cũng nhƣ

đòi hỏi của thực tiễn nhằm góp phần tạo thế chủ động cho Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu nhằm mục đích khái quát hóa những quy định cơ bản về
pháp luật thƣơng mại hàng hóa của Hoa Kỳ để giúp ngƣời đọc có một cái
nhìn tổng thể về hệ thống pháp luật thƣơng mại hàng hóa của Hoa Kỳ.
- Nêu các sự kiện và bình luận về những cơ hội cũng nhƣ thách thức mà
các doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang Hoa Kỳ đã, đang và sẽ phải đối mặt.
Khẳng định những cơ hội lý tƣởng để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
đất nƣớc thông qua việc giao thƣơng với Hoa Kỳ. Đồng thời làm nổi bật
những thách thức chính, nhất là thách thức về sự cạnh tranh kéo theo vô số vụ
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
11
tranh chấp thƣơng mại, và những điểm yếu cơ bản của các doanh nghiệp Việt
Nam khi thâm nhập thị trƣờng hấp dẫn này.
- Kiến nghị một số giải pháp với mong muốn hoàn thiện hệ thống pháp
luật thƣơng mại của nƣớc nhà, tạo môi trƣờng thuận lợi và an toàn cho việc
phát triển kinh tế đất nƣớc, đồng thời mong muốn các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ đƣợc trang bị đầy đủ hơn những kiến thức để có đƣợc sự chủ động khi
quan hệ thƣơng mại hàng hoá với Hoa Kỳ cũng nhƣ với tất cả các nƣớc trên
thế giới trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong các lĩnh vực về thƣơng mại, ngoài thƣơng mại về hàng hoá còn có
một số lĩnh vực thƣơng mại khác nhƣ: thƣơng mại dịch vụ; thƣơng mại đầu
tƣ; thƣơng mại quyền sở hữu trí tuệ… Luận văn chỉ nghiên cứu trong phạm vi
thƣơng mại hàng hoá. Trên cơ sở phạm vi đó, luận văn tập trung nghiên cứu
những vấn đề sau:

- Khái quát về chính sách pháp luật thƣơng mại hàng hoá của Hoa Kỳ
- Tính hai mặt của một vấn đề: Quan hệ thƣơng mại hàng hoá với Hoa
Kỳ vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Việt Nam.
- Những kiến nghị về các giải pháp cần thực hiện để tận dụng cơ hội và
đối phó với thách thức khi Việt Nam quan hệ thƣơng mại hàng hóa với Hoa
Kỳ.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài còn đang là vấn đề tƣơng đối mới mẻ cho nên các công trình nghiên
cứu khoa học về nội dung này còn rải rác và chƣa có chiều sâu. Do vậy luận
văn sẽ góp phần làm phong phú hơn cho các thƣ mục tài liệu liên quan đến đề
tài, giúp cho những ngƣời quan tâm tới Pháp luật thƣơng mại hàng hoá Hoa
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
12
Kỳ có một cái nhìn bao quát hơn về một nhánh luật của quốc gia này. Luận
văn có chỉ ra một số nguyên nhân và các biện pháp cần thiết để khắc phục
những thách thức đã, đang và có thể sẽ phát sinh trong quá trình Việt Nam
trao đổi hàng hoá với Hoa Kỳ. Đồng thời, thông qua việc xác định những cơ
hội và thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, luận văn cũng đề cập tới vấn đề
hoàn thiện pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật nói chung nhằm tạo ra một
môi trƣờng pháp lí thích ứng với những mối quan hệ xã hội mới trong một
thời đại mới.




















Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
13
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI HÀNG HÓA
CỦA HOA KỲ

1.1 Pháp luật thƣơng mại và pháp luật thƣơng mại hàng hóa
1.1.1 Pháp luật thương mại
Pháp luật thƣơng mại là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các hoạt động thƣơng mại. Với một định nghĩa khái quát nhƣ vậy, muốn hiểu
rõ hơn về pháp luật thƣơng mại thì chúng ta cần tìm hiểu xem bản thân khái
niệm “thƣơng mại” nghĩa là gì.
1.1.1.1 Thương mại
Thuật ngữ “thƣơng mại” từ khi mới ra đời thì đƣợc dùng để chỉ các
hoạt động buôn bán của các thƣơng gia. Nhƣ vậy, nếu khái niệm thƣơng mại
hiểu theo nghĩa hẹp thì chỉ bao gồm những hoạt động mua bán hàng hóa để
kiếm lời của các thƣơng gia. Tuy nhiên với sự phát triển chóng mặt của nền

kinh tế thế giới, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trƣờng
thì khái niệm thƣơng mại không còn chỉ dừng lại ở những hoạt động buôn bán
hàng hóa, nó đã đƣợc mở rộng hơn rất nhiều. Ngày nay, thƣơng mại đƣợc
hiểu là hoạt động cung cấp, trao đổi của cải hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền
tệ v.v… giữa hai hay nhiều đối tác với nhau, và có thể nhận lại một giá trị nào
đó, có thể bằng tiền thông qua giá cả hoặc bằng hàng hóa, dịch vụ khác thông
qua hình thức thƣơng mại hàng đổi hàng.
Theo Luật mẫu về trọng tài thƣơng mại (United Nations Commission
on International Trade Law - UNCITRAL), thuật ngữ "thƣơng mại" phải đƣợc
giải thích theo nghĩa rộng để khái quát hết các vấn đề phát sinh từ tất cả các
quan hệ có bản chất thƣơng mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
14
có bản chất thƣơng mại bao gồm (nhƣng không bị giới hạn) những giao dịch
sau: bất cứ giao dịch thƣơng mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc
dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thƣơng mại; uỷ thác hoa
hồng (factoring), cho thuê (leasing); xây dựng các công trình; tƣ vấn; kỹ thuật
(engineering); đầu tƣ; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác
hoặc tô nhƣợng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp
hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đƣờng biển,
đƣờng không, đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ…, đều đƣợc coi là giao dịch thƣơng
mại. Đặc biệt trong Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm
thƣơng mại cũng đƣợc hiểu là tất cả những hoạt động kinh doanh sinh lời, chứ
không phải chỉ có hoạt động mua bán hay xuất nhập khẩu thông thƣờng. Theo
đó, khái niệm thƣơng mại sẽ bao hàm thƣơng mại hàng hoá, thƣơng mại dịch
vụ, thƣơng mại quyền sở hữu trí tuệ, thƣơng mại về đầu tƣ…
Có thể thấy, khái niệm thƣơng mại theo nghĩa rộng đã đƣợc hầu hết các quốc
gia và các tổ chức kinh tế trên thế giới ghi nhận mà điển hình là sự ghi nhận

của Tổ chức Thƣơng mại thế giới - WTO.

1.1.1.2 Pháp luật thương mại
Vì pháp luật thƣơng mại là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các hoạt động thƣơng mại, cho nên chính sự bao hàm rộng lớn của khái niệm
thƣơng mại đã khiến pháp luật thƣơng mại cũng có phạm vi điều chỉnh nới
rộng theo, bao trùm nhiều lĩnh vực của thƣơng mại và đƣợc quy định không
chỉ bó hẹp trong những đạo luật mang tên “Luật thƣơng mại”, chúng còn
đƣợc quy định rải rác cả trong luật dân sự, luật công ty, luật hàng hải, luật
chứng khoán… Và do tính chất đặc thù tƣơng đối của các nhóm đối tƣợng
điều chỉnh, pháp luật thƣơng mại có thể phân chia thành:
+ Pháp luật thƣơng mại hàng hóa;
+ Pháp luật thƣơng mại dịch vụ;
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
15
+ Pháp luật thƣơng mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ;
+ Pháp luật thƣơng mại đầu tƣ.
1.1.2 Pháp luật thương mại hàng hóa
1.1.2.1 Phân biệt hàng hóa với dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ
Thật ra “hàng hóa” có thể bao hàm nghĩa rất rộng, nhƣng khi phân biệt
với các nhóm đối tƣợng nói trên thì “hàng hóa” sẽ mang ý nghĩa nhỏ hẹp hơn.
ở đây có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về từng nhóm đối tƣợng,
xin đƣợc nêu những khái niệm tiêu biểu nhất để có thể phân biệt chúng một
cách tƣơng đối.
Khi định nghĩa về “dịch vụ” thì các văn kiện của WTO thừa nhận “dịch
vụ” là tất cả những gì bạn có thể mua hoặc bán mà không thể thả chúng rơi
vào chân mình đƣợc: “Services are anything you can buy or sell but can’t
drop on your foot” [40]; hoặc:

In economics and marketing, a service is the non-material
equivalent of a good. Service provision has been defined as an
economic activity that does not result in ownership, and this is
what differentiates it from providing physical good. It is claimed
to be a process that creates benefits by facilitating either a
change in customers, a change in their physical possessions, or
a change in their intangible assets [45].
Tạm dịch: Trong kinh tế học và trong kinh doanh, dịch vụ là một loại hàng
hóa phi vật chất. Việc cung ứng dịch vụ đƣợc mô tả giống nhƣ một hoạt động
kinh tế mà hệ quả của hoạt động đó không phải là quyền sở hữu, đây chính là
điểm khác biệt so với việc cung ứng hàng hóa vật chất. Nó phải là một quá
trình tạo ra lợi nhuận bằng cách thúc đẩy sự thay đổi đối với chính ngƣời tiêu
dùng, hoặc thay đổi sự sở hữu tài sản vật chất của họ, hoặc thay đổi đối với
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
16
những tài sản vô hình của họ.
Theo quan điểm của Hoa Kỳ: “Dịch vụ - Các hoạt động kinh tế - nhƣ
giao thông vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, bƣu chính viễn thông, quảng
cáo, công nghiệp giải trí, xử lý dữ liệu và tƣ vấn - thƣờng đƣợc tiêu dùng nhƣ
khi chúng đƣợc sản xuất, khác với các hàng hóa kinh tế thƣờng mang tính hữu
hình hơn” [10].
Nhìn chung “dịch vụ” đƣợc coi là một dạng tƣơng đƣơng với “hàng
hóa”, phi vật chất, giống nhƣ một loại hoạt động kinh tế nhằm tạo ra lợi
nhuận.
“Đầu tƣ” với định nghĩa dễ hiểu nhất thì là việc đặt tiền hoặc vốn vào
một trạng thái có thể có rủi ro với mục đích kiếm lợi nhuận [41]. Quan điểm
này không có nhiều ý kiến tranh luận, hoặc có ý kiến khác thì nội dung các
quan điểm cũng không phủ định lẫn nhau nên có thể coi đây là một định nghĩa

chung.
“Sở hữu trí tuệ” là gì? Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới-WIPO thừa nhận:
“Sở hữu trí tuệ đề cập tới sự sáng tạo của trí óc bao gồm: những phát minh,
các tác phẩm văn học nghệ thuật, và những ký tự, tên gọi, hình ảnh và những
thiết kế đƣợc dùng trong thƣơng mại” [47]. Dù cho các định nghĩa có khác
nhau về danh mục liệt kê thì tựu trung lại Sở hữu trí tuệ vẫn là sự sở hữu đối
với loại sản phẩm mang tính sáng tạo của trí óc, có giá trị thƣơng mại và cần
thiết phải có sự bảo vệ của pháp luật.
“Hàng hóa” có thể hiểu theo nghĩa rộng là bất cứ một vật thể hay dịch
vụ nào đó thông qua sự tiêu dùng đã phát huy đƣợc tính năng tiện ích của
mình, và vì thế mà chúng đƣợc bán trên thị trƣờng với giá tiền nhất định [37].
Tuy nhiên khi hiểu theo nghĩa hẹp và để phân biệt với Dịch vụ thì Hàng hóa
lại đƣợc mô tả là những sản phẩm vật chất có thể đƣợc chuyển tới tay ngƣời
mua và chuyển quyền sở hữu từ ngƣời bán sang ngƣời tiêu dùng [37].
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
17
1.1.2.2 Pháp luật thương mại hàng hóa
Từ sự phân biệt các khái niệm hàng hóa, dịch vụ, đầu tƣ và quyền sở
hữu trí tuệ trên đây, chúng ta có thể dễ dàng nắm bắt đƣợc nội dung của khái
niệm Pháp luật thƣơng mại hàng hóa. Pháp luật thƣơng mại hàng hóa là tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại hàng hóa,
hay nói dễ hiểu hơn thì đó là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ liên quan đến việc mua, bán, xuất, nhập khẩu hàng hóa.
1.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật thƣơng mại hàng hóa của
Hoa Kỳ
1.2.1 Nguồn của pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ bắt đầu phát triển kể từ khi ngƣời Anh lập
thuộc địa đầu tiên ở Jamestown (bang Virginie) năm 1607. Khi sinh sống trên

vùng lục địa mới này, ngƣời Anh đã mang theo cả truyền thống pháp luật
common law và cũng đã có sự cải tiến cho phù hợp với những điều kiện đặc
thù của Châu Mỹ, vì vậy mà ngƣời ta ghi nhận rằng pháp luật Hoa Kỳ đã phát
triển từ trật tự pháp luật Anh. Thuật ngữ “common law” vốn đƣợc hiểu là
“luật chung” hay còn gọi là “thông luật”, và ở Hoa Kỳ, luật thƣơng mại đƣợc
phát triển thông qua các phán quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vốn là một nhà nƣớc cộng hòa
tổng thống, do vậy, cho dù Hoa Kỳ theo truyền thống thông luật - ngƣời ta
vẫn gọi là hệ thống bất thành văn, thì bản Hiến pháp Liên bang lại là một
nguồn luật đặc biệt quan trọng đối với hệ thống pháp luật nói chung và pháp
luật thƣơng mại hàng hóa nói riêng của quốc gia này khi nội dung của Hiến
pháp quy định về quyền hạn của từng cơ quan lập pháp - hành pháp - tƣ pháp.
Các chế định về dân sự - thƣơng mại đƣợc quy định rải rác ở các bang, và khi
các hoạt động thƣơng mại trở nên phát triển mạnh mẽ đã đòi hỏi cần phải có
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
18
một bộ luật chung thống nhất có hiệu lực đối với tất cả các bang thuộc liên
bang. Hệ quả của nhu cầu thiết yếu đó là sự ra đời của Bộ luật thƣơng mại
thống nhất (Uniform Commercial Code, thƣờng đƣợc viết tắt là UCC), lần
đầu tiên đƣợc xây dựng vào những năm 50 và đƣợc sửa đổi khá nhiều lần.
Tuy có tên gọi là “bộ luật”, nhƣng đây chỉ là một văn bản hệ thống luật lệ
thƣơng mại, bao gồm trong đó tất cả các văn bản riêng rẽ có liên quan đến
thƣơng mại. UCC bao gồm các điều khoản cơ bản về mua bán, cho thuê, các
chứng từ lƣu thông đƣợc, tiền gửi ngân hàng và nhờ thu của ngân hàng,
chuyển khoản bằng điện tử, thƣ tín dụng, bán hàng khối lƣợng lớn, chứng từ
quyền sở hữu, chứng khoán đầu tƣ và giao dịch có bảo đảm. Bộ luật này đƣợc
áp dụng trong hầu hết tất cả các tiểu bang, trừ tiểu bang Louisiana, một bang
nghiêng về dân luật đã không thông qua các điều khoản về mua bán. Bộ luật

UCC vẫn đƣợc coi là một trong những Bộ luật thƣơng mại công phu nhất trên
thế giới, tinh thần tôn trọng thực tế hiện đại của bộ luật đối với các thực tiễn
thƣơng mại hợp pháp và việc loại bỏ chủ nghĩa hình thức pháp lý không cần
thiết đã tạo ra những ảnh hƣởng tích cực rộng lớn trên bình diện quốc tế [9].
Bên cạnh đó, những chế định về thƣơng mại hàng hóa còn tìm thấy ở
một số đạo luật riêng tƣơng đối hoàn chỉnh nhƣ: Luật thuế quan năm 1930;
Luật điều chỉnh nông nghiệp; Luật phát triển thƣơng mại năm 1962; Luật
thƣơng mại năm 1974; Luật về các hiệp định thƣơng mại năm 1979; Luật
cạnh tranh và thƣơng mại Omnibus năm 1988; Luật về các hiệp định vòng
đàm phán Urugoay… với các chế định pháp luật về thuế quan và hải quan; về
bồi thƣờng thƣơng mại; Một số luật liên quan đến quản lý hoạt động xuất
nhập khẩu…. Những đạo luật này đã đƣợc pháp điển hóa trong Bộ luật Hoa
Kỳ (United States Code). Tƣơng tự nhƣ Uniform Commercial Code, bản thân
Bộ luật Hoa Kỳ cũng không phải là một bộ luật đúng nghĩa mà nó chỉ là sự
tập hợp và sắp xếp các đạo luật theo một trật tự hợp lí và logíc. Trong United
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
19
States Code có hai tiêu mục đáng chú ý vì chúng chứa đựng nhiều quy định
về thƣơng mại hàng hóa. Đó là tiêu mục 15 về “Commerce and Trade” [2] với
những quy định về việc quản lý xuất nhập khẩu, bảo vệ ngƣời tiêu dùng…, và
tiêu mục 19 về “Customs Duties” với nội dung quy định về Thuế quan và Hải
quan, trong tiêu mục này chúng ta còn có thể tìm thấy Luật thuế năm 1930
(Tariff Act of 1930) tại Chƣơng 4, hoặc Luật Thƣơng Mại năm 1974 (Trade
Act of 1974) tại Chƣơng 12…
Tuy nhiên, với đặc trƣng tiêu biểu của hệ thống common law, luật
thành văn dù đƣợc ƣu tiên áp dụng song vẫn không thể loại bỏ đƣợc án lệ [7
tr. 44, 72]. Sự coi trọng án lệ đƣợc thể hiện cả trong tinh thần của UCC - Bộ
luật thƣơng mại mẫu; nó còn đƣợc thể hiện thông qua việc ghi chép, biên tập

thành những bài báo có tính hệ thống để thuận tiện cho việc tham khảo. Ví
dụ: những phán quyết của Tòa án tối cao Supereme Court đƣợc xuất bản
thành những tập sách chính thức gọi là United States Reports. Những phán
quyết đƣợc trích dẫn cùng tên của các bên tham gia tố tụng, cùng tên sách, tên
gọi bài báo, số trang và năm xuất bản… Khi không có sự điều chỉnh của
những quy định Hiến pháp và các đạo luật thì các Tòa án bang và Tòa án Liên
bang thƣờng đối chiếu với thông luật - đó là tuyển tập các quyết định tƣ pháp,
tập quán và quy tắc chung đã có từ nhiều thế kỷ trƣớc đó.
Án lệ hay hay tiền lệ tƣ pháp là một nguồn luật bổ sung khá hiệu quả.
Đó là cách giải thích pháp luật của Tòa án trƣớc đó hoặc là cách giải thích
pháp luật của Tòa án cấp cao hơn đối với một vụ việc tƣơng tự. Tiền lệ của
Tòa án liên bang sẽ đƣợc áp dụng cho tất cả các tòa án liên bang cấp dƣới. Và
tiền lệ cũng đƣợc áp dụng ở nhiều hệ thống Tòa án các tiểu bang, do vậy loại
nguồn luật này đang càng ngày càng phát triển cả về số lƣợng lẫn nội dung
diễn giải [23 tr. 18, 19] .
Tóm lại nguồn của pháp luật thƣơng mại hàng hóa Hoa Kỳ bao gồm cả
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
20
loại nguồn luật thành văn lẫn nguồn luật bất thành văn. Ngoại trừ bản Hiến
pháp thì nguồn luật thành văn không đƣợc bố cục một cách chặt chẽ trong
những văn bản pháp quy thống nhất với tên gọi Bộ Luật đƣợc ban hành theo
đúng trình tự thủ tục mà mới chỉ tồn tại dƣới dạng các công trình tập hợp,
thống kê và sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật rời rạc lại với nhau,
đƣợc áp dụng tƣơng đối triệt để trên toàn Liên bang. Và mặc dù có nguồn luật
thành văn nhƣng nguồn đó vẫn luôn mang dấu ấn và thừa nhận vai trò quan
trọng của án lệ hay tiền lệ. Đó chính là đặc trƣng tiêu biểu của hệ thống pháp
luật Anh - Mỹ nói chung.
1.2.2 Hệ thống các quy định pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ

1.2.2.1 Tính phức tạp của pháp luật thương mại hàng hóa Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia có lãnh thổ rất rộng lớn đồng thời lại có một hệ
thống pháp luật của Liên bang và các tiểu bang rất cồng kềnh, phức tạp. Mặt
khác, nền kinh tế Hoa Kỳ vô cùng phát triển, nó có sự ảnh hƣởng mạnh mẽ tới
nền kinh tế của nhiều nƣớc khác trên thế giới, đồng nghĩa với một thực tế
khách quan rằng pháp luật Hoa Kỳ cũng ảnh hƣởng mạnh mẽ đối với pháp
luật của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế. Một khi thƣơng mại đã trở thành
cây cầu lớn nhất nối liền mối quan hệ giữa Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc tìm hiểu về pháp luật thƣơng mại
Hoa Kỳ chính là một đòi hỏi tất yếu đối với chính phủ, các luật gia cũng nhƣ
các chủ doanh nghiệp Việt Nam.
Nguyên nhân của sự phức tạp trƣớc hết phải kể đến sự khác nhau về
truyền thống pháp luật. Hoa Kỳ là một nƣớc theo truyền thống pháp luật Anh-
Mỹ (Common law), vì hệ thống pháp luật Hoa Kỳ đƣợc phát triển từ trật tự
pháp luật Anh – một trật tự pháp luật đƣợc hình thành tại Anh quốc từ năm
1066 với tên gọi là Common Law hay Hệ thống thông luật. Trong khi đó Việt
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
21
Nam lại theo truyền thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa. Chính sự khác biệt này
đã tạo nên sự khác nhau rất lớn về tƣ duy pháp lý, về thói quen ứng xử trong
quan hệ thƣơng mại hàng hóa giữa hai nƣớc. Hoa Kỳ coi trọng án lệ, ghi nhận
án lệ là một nguồn luật đặc biệt quan trọng. Trong khi đó, Việt Nam mặc dù
có nét tƣơng đồng với truyền thống Civil Law với nền tảng là luật La Mã
nhƣng chủ yếu coi trọng nguồn luật thành văn, thậm chí còn không chấp nhận
án lệ là một loại nguồn. Do vậy, khi tiếp cận với hệ thống pháp luật của Hoa
Kỳ, chúng ta sẽ có cảm giác quá mênh mông và rất khó nắm bắt.
Bên cạnh đó, bởi Hoa Kỳ áp dụng mô hình nhà nƣớc Liên Bang cho
nên hệ thống pháp luật của quốc gia này không đơn thuần chỉ là những quy

định chung của pháp luật Liên bang mà còn là những quy định pháp luật của
mỗi bang trong số 50 tiểu bang. Mặc dù Hiến pháp Hoa Kỳ qui định quyền
quản lí ngoại thƣơng và thu thuế xuất nhập khẩu thuộc về các cơ quan quản lí
nhà nƣớc Liên bang, nhƣng vẫn có những quy định pháp luật của một số bang
ảnh hƣởng gián tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Các quy phạm pháp luật
có sự đan xen khá phức tạp, nhất là khi các quy phạm pháp luật lại không phải
chỉ là những quy phạm nằm trên văn bản cụ thể, chúng còn là những phán
quyết của Tòa án khi xét xử một vụ việc khác, hoặc chúng cũng có thể là cách
giải thích pháp luật theo ý thức chủ quan của vị thẩm phán nào đó. Có những
vụ việc tƣởng chừng nhƣ rất tƣơng tự để có thể vận dụng cách giải quyết của
án lệ nào đó, thế rồi luật sƣ lại vẫn có thể lí giải rằng hai vụ việc không hề
tƣơng tự nhau bằng cách phân biệt sự khác nhau giữa những yếu tố khách
quan của vụ việc đang giải quyết với các sự kiện đã dẫn đến quyết định trƣớc
đó [23 tr. 18-19]… Không giống nhƣ ở Việt Nam, mặc dù hệ thống các văn
bản luật và hƣớng dẫn luật còn khá chồng chéo, nhƣng các luật gia và đƣơng
sự vẫn có thể tra cứu các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành một cách dễ
dàng và đầy đủ, những văn bản đó có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc. Còn tại
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
22
Hoa Kỳ, các quy định pháp luật của tiểu bang này có thể lại khác so với quy
định pháp luật của tiểu bang khác, thậm chí có những hành vi thƣơng mại mặc
dù pháp luật Liên bang không điều chỉnh nhƣng lại rất có thể là hành vi vi
phạm pháp luật của tiểu bang nào đó khi đối chiếu với những quy định của
pháp luật Tiểu bang ấy. Mối quan hệ của nhiều hệ thống pháp luật trong một
hệ thống pháp luật của một quốc gia chắc chắn sẽ dẫn đến hiện tƣợng đan
chéo nhau, gây ra những vấn đề phức tạp trong quá trình áp dụng. Chẳng hạn,
sự khác biệt về kinh tế, văn hóa, truyền thống, lịch sử, dân tộc… của mỗi
bang sẽ ảnh hƣởng đến hệ thống pháp luật của bang đó; thẩm quyền của Liên

bang và thẩm quyền của mỗi bang cũng có thể xung đột với nhau; pháp luật
của các tiểu bang cũng có thể xung đột với nhau.
Ngoài ra, nhà nƣớc Liên bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có sự khác
biệt so với các nhà nƣớc liên bang khác trên thế giới. Nhìn chung các nhà
nƣớc liên bang trên thế giới thƣờng đƣợc xây dựng trên nguyên tắc Nhà nƣớc
thống nhất và quyền lực của nhà nƣớc Liên bang là tối cao (ví dụ: Cộng hòa
Liên bang Đức; Cộng hòa Liên bang Nga; Liên bang Nam Tƣ…) Tuy nhiên
nhà nƣớc Liên bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ lại đƣợc xây dựng trên
nguyên tắc: quyền lực nhà nƣớc của Tiểu bang là tối cao, quyền lực nhà nƣớc
Liên bang phải đƣợc xây dựng trên cơ sở quyền lực nhà nƣớc các Tiểu bang
đã đƣợc thiết lập. Chính bởi nguyên tắc này đã khiến cho hệ thống pháp luật
Hoa Kỳ trở nên rất phức tạp. Pháp luật của Liên bang trƣớc hết phải hình
thành dựa trên nguyên tắc pháp luật của các Tiểu bang, và pháp luật Liên
bang phải thể hiện đƣợc tinh thần của pháp luật Tiểu bang. Các thẩm phán
của Tòa án Liên bang phải áp dụng những quy định pháp luật của Tiểu bang
nếu vụ việc đó đã đƣợc thẩm phán Tòa án Tiểu bang đó xem xét. Nói theo
một cách khác thì pháp luật Liên bang không thể trái với pháp luật của các
Tiểu bang. Nếu xảy ra xung đột pháp luật thì pháp luật của các Tiểu bang sẽ
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
23
đƣợc ƣu tiên áp dụng.
1.2.2.2 Một số đạo luật cơ bản trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
a. Luật về thuế quan và hải quan
Những quy định về luật thuế quan và hải quan đƣợc liệt kê tại tiêu mục
19 trong Bộ luật Hoa Kỳ (US Code) với tên gọi: Customs Duties. Tiêu mục
19 này bao gồm 25 chƣơng thống kê toàn bộ các đạo luật và hiệp ƣớc liên
quan đến thuế quan và hải quan của Hoa Kỳ. Để tìm hiểu chế định này một
cách khái quát, chúng ta cần tìm hiểu cách tính thuế, các chế độ áp thuế thông

qua biểu thuế nhập khẩu – hay còn gọi là biểu thuế quan hoặc biểu thuế quan
hài hòa (Harmonized Tariff Schedule-HTS); cách tính trị giá hải quan (hay
còn gọi là trị giá chịu thuế nhập khẩu); các yêu cầu đối với Hóa đơn thƣơng
mại; nguyên tắc xác định xuất xứ hàng hóa và đánh dấu xuất xứ hàng hóa.
→ Biểu thuế nhập khẩu HTS hiện hành của Hoa Kỳ (có thể tra cứu
bằng cách truy cập vào địa chỉ website của Uỷ ban
thƣơng mại quốc tế Hoa Kỳ) là biểu thuế đƣợc ban hành trong Luật Thƣơng
mại và Cạnh tranh Omnibus năm 1988 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm
1989. Hệ thống thuế nhập khẩu của quốc gia này đƣợc xây dựng trên cơ sở hệ
thống thuế quan của một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Bruxen với tên
gọi là Hội đồng Hợp tác hải quan. Hệ thống thuế quan này đƣợc hầu hết các
quốc gia thƣơng mại lớn áp dụng.
Hoa Kỳ có chính sách khuyến khích nhập khẩu hàng nguyên liệu
và hàng sơ chế hơn là nhập khẩu các loại hàng thành phẩm. Chính sách này
thể hiện ở mức thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa là thành phẩm cao hơn so
với thuế suất đánh vào loại hàng hóa là nguyên liệu hoặc hàng sơ chế. Theo
đó, hàng chế biến càng qua nhiều công đoạn, hay còn gọi là chế biến càng sâu
thì thƣờng bị áp thuế suất nhập khẩu càng cao. Ví dụ, mức thuế nhập khẩu cá
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
24
tƣơi sống hoặc ở dạng philê đông lạnh từ một quốc gia thuộc diện đối xử Tối
huệ quốc là 0%, trong khi đó mức thuế suất nhập khẩu hàng cá khô hoặc xông
khói cũng từ quốc gia thuộc diện đối xử tối huệ quốc là từ 4% đến 6%. Các
mức thuế suất nhập khẩu hàng hóa có thể thay đổi và đƣợc Hoa Kỳ công bố
hàng năm. Phƣơng pháp tính thuế nhập khẩu tại nƣớc này cũng khá đa dạng,
có thể căn cứ theo tỉ lệ giá trị hàng hóa nhập khẩu, hoặc số lƣợng hàng hóa
nhập khẩu, hoặc cũng có thể kết hợp cả hai loại thuế tính theo hai phƣơng
pháp trên, ngoài ra còn có một số loại thuế khác đối với hàng hóa nhập khẩu

nhƣ: thuế hạn ngạch, thuế theo thời vụ…
Thuế theo trị giá là thuế đánh theo tỉ lệ trên giá trị, tức là mức thuế
đƣợc xác định bằng một tỉ lệ phần trăm trên trị giá giao dịch của hàng hóa
nhập khẩu. Hầu hết các loại thuế quan của Hoa Kỳ đƣợc đánh theo tỉ lệ trên
giá trị nhƣ vậy với mức thuế suất dao động từ dƣới 1% đến gần 40%. Đại đa
số mức thuế suất đánh theo tỉ lệ trên giá trị nằm trong biên độ từ 2% đến 7%
với mức thuế trung bình là 4%. Ví dụ mức thuế tối huệ quốc năm 2004 đối
với chè xanh có hƣơng vị đóng gói không quá 3kg/gói là 6,4%.
Có một số loại hàng hóa, thƣờng chủ yếu là hàng nông sản và hàng sơ
chế phải chịu “thuế theo số lƣợng” hay còn gọi là thuế tuyệt đối. Đây là loại
thuế đƣợc ấn định đối với một trọng lƣợng, khối lƣợng hoặc thể tích nhất
định. Loại thuế này chiếm khoảng 12% số dòng trong biểu thuế HTS của Hoa
Kỳ. Ví dụ, mức thuế tối huệ quốc đối với hàng nho tƣơi là từ 1,13 USD đến
1,80 USD cho một mét khối hàng, trừ trƣờng hợp đƣợc miễn thuế theo thời
điểm nhập khẩu trong năm theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, mức thuế đối với một số loại
nông sản có thể thay đổi theo thời điểm nhập khẩu trong năm – còn gọi là
thuế theo thời vụ. Cũng với ví dụ trên đây, mức thuế tối huệ quốc năm 2004
đối với hàng nho tƣơi nhập khẩu trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 2
Nguyễn Thị Lan CH-K9/Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội

Luận văn tốt nghiệp
25
đến hết ngày 31 tháng 3 là 1,13 USD/m
3
, nếu nhập khẩu trong thời gian từ
ngày 1 tháng 4 đến hết ngày 30 tháng 6 là 1,80 USD/m
3
, và ngoài những
khoảng thời gian đó thì lại đƣợc miễn thuế.

Có những loại mặt hàng khác khi đƣợc nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ phải
chịu thuế hạn ngạch. Thuế hạn ngạch là một mức thuế suất cao hơn đƣợc áp
dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi một số lƣợng hàng cụ thể đã đƣợc nhập
vào nƣớc này trong một năm. Hàng hóa nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn
ngạch cho phép đƣợc hƣởng mức thuế thấp hơn, còn hàng nhập mà vƣợt quá
hạn ngạch sẽ phải chịu thuế suất cao hơn nhiều và có hệ quả giống nhƣ cấm
nhập khẩu. Theo nguồn tin của Thƣơng Vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết,
mức thuế tối huệ quốc năm 2002 áp dụng với số lƣợng trong hạn ngạch bình
quân là 9%, trong khi đó mức thuế đối với số lƣợng vƣợt quá hạn ngạch trung
bình là 53%. Hiện nay một số mặt hàng nhƣ thịt bò, các sản phẩm sữa, đƣờng
và các sản phẩm lạc, thuốc lá, bông là đang phải chịu thuế hạn ngạch.
Bên cạnh những quy định về các cách tính thuế nêu trên, Hoa Kỳ còn
có những chế độ thuế quan khác nhau khi nhập khẩu hàng hóa từ những nhóm
quốc gia nhất định, tùy theo những thỏa thuận chung giữa Hoa Kỳ và các
quốc gia ấy. Do sự khác nhau này mà biểu thuế của Hoa Kỳ có ba cột thuế
gồm: cột thuế tối huệ quốc, cột thuế phi tối huệ quốc và cột thuế ƣu đãi.
Cột thuế tối huệ quốc (Most Favored Nation-MFN) bao gồm những
mức thuế dành cho tất cả các nƣớc có quan hệ thƣơng mại bình thƣờng
1
, đƣợc
áp dụng với những nƣớc là thành viên của Tổ chức thƣơng mại thế giới
(WTO) và kể cả những nƣớc tuy chƣa phải là thành viên của WTO nhƣng đã

1
Quy chế Quan hệ Thƣơng mại Bình thƣờng (Normal Trade Relations - NTR) mà Hoa Kỳ sử dụng chính là
Quy chế Tối Huệ Quốc mà Tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO và nhiều nƣớc trên thế giới hiện đang sử
dụng.Sự chuyển tên này ở Hoa Kỳ diễn ra vào năm 1998, thời điểm mà có rất nhiều quốc gia có quy chế này.
Việt Nam đƣợc trao NTR từ năm 2001 nhƣng trên cơ sở xét theo từng năm. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng
thƣơng thảo trên bàn đàm phán với Hoa Kỳ để đƣợc hƣởng Quy chế PNTR (Permanent Normal Trade
Relations) – Quy chế quan hệ thƣơng mại bình thƣờng vĩnh viễn chứ không phải là NTR xem xét theo từng

năm nữa.

×