1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ ÚT QUYÊN
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới và
kinh nghiệm đối với Việt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ ÚT QUYÊN
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới và
kinh nghiệm đối với Việt Nam
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC. NGUYỄN LAN NGUYÊN
Hà Nội – 2012
4
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
01
Chƣơng I: CƠ SỞ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
10
1.1.
Các quy định của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng
10
1.1.1.
Mục tiêu
11
1.1.2.
Các nguyên tắc chung
12
1.1.3.
Các hướng dẫn
13
1.1.3.1.
An toàn sản phẩm
13
1.1.3.2.
Thúc đẩy và bảo vệ những quyền lợi kinh tế của người tiêu dùng
15
1.1.3.3.
Các tiêu chuẩn về an toàn và chất lượng của sản phẩm và dịch vụ
17
1.1.3.4.
Các phương tiện phân phối hàng tiêu dùng thiết yếu
18
1.1.3.5.
Các biện pháp giúp người tiêu dùng được bồi thường
18
1.1.3.6.
Các chương trình giáo dục và thông tin
19
1.1.3.7.
Thúc đẩy tiêu dùng bền vững
21
1.1.3.8.
Các biện pháp liên quan tới các lĩnh vực cụ thể
23
1.1.4.
Hợp tác quốc tế
25
1.2
Tổ chức quốc tế người tiêu dùng (Consumers International – CI)
27
1.2.1.
Lịch sử hình thành
27
1.2.2.
Những lĩnh vực hoạt động chủ yểu của Tổ chức quốc tế người
tiêu dùng
28
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG CỦA MỘT SỐ QUỐC
GIA TRÊN THẾ GIỚI
24
5
2.1.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Hoa Kỳ
25
2.2.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Công đồng Châu Âu
45
2.3.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của một số nước Châu Á
60
2.3.1.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Nhật Bản
60
2.3.2.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Malaysia
63
2.3.3.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Trung Quốc
68
2.3.4.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Philippin
70
2.3.5.
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Thái Lan
76
2.4
Một số kinh nghiệm rút ra từ việc nghiện cứu pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
81
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
CỦA VIỆT NAM
84
3.1.
Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt
Nam
84
3.1.1
Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam
trước khi ban hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
85
3.1.1.1.
Thực trạng các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng
85
3.1.1.2.
Tình hình thực thi các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng
89
3.1.2.
Thực trạng pháp luật bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam sau khi
ban hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
99
3.1.2.1.
Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng
99
3.1.2.1.1
Những điểm mới của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
99
6
dùng của Việt Nam
3.1.2.1.2
Những hạn chế của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của Việt Nam hiện nay
105
3.1.2.2.
Tình hình thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Việt Nam
110
3.2.
Giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng của Việt Nam hiện nay
116
3.2.1.
Phương hướng hoàn thiện
116
3.2.2.
Kiến nghị nhằm thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của Việt Nam hiện nay
117
KẾT LUẬN
123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
125
7
MỞ ĐẦU
Quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội, bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản
xuất với nhau, là quan hệ giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, là lực lượng
hết sức đông đảo. Nhưng vì chưa nhận thức đầy đủ các quyền và trách nhiệm
của mình, không có đầy đủ kiến thức về mọi mặt và thường hành động riêng
lẻ nên trong mối quan hệ giữa họ và nhà sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng
thường đứng ở thế yếu và chịu nhiều thiệt thòi. Bên cạnh đó, người tiêu dùng
còn có nguy cơ sử dụng hàng hoá, dịch vụ thiếu độ an toàn đặc biệt là đối với
hàng hoá, dịch vụ thiết yếu và hàng hoá, dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp tới
sức khoẻ con người. Điều này thực sự đã kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Chính vì vậy, nhiều nước trên thế giới đã thấy sự cần thiết của việc bảo vệ
người tiêu dùng, có chính sách tôn trọng các quyền của người tiêu dùng và
các biện pháp chống lại sự lạm dụng của những nhà sản xuất, kinh doanh.
Ở Việt Nam, chính sách bảo vệ người tiêu dùng cũng đã được quan tâm,
đặc biệt là sau khi Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng năm 1999
ra đời. Với quy định pháp luật đó bước đầu đã tạo được hành lang pháp lý cho
việc bảo vệ người tiêu dùng, các quyền của người tiêu dùng được ghi nhận,
các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng được thành lập. Nhưng do nhiều nguyên
nhân mà các quy định trên đã ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế như: quy định
còn chung chung, chưa thực sự đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các quyền
của người tiêu dùng… Do đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần xây dựng, ban
hành và bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
Tuy nhiên, do xu hướng chung của thế giới là toàn cầu hoá, hội nhập kinh
tế quốc tế trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội nên không nằm ngoài
xu thế đó, việc ban hành các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
của Việt Nam cũng như vấn đề thực thi các quy định pháp luật đó phải có sự
8
phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và cần học hỏi kinh nghiệm của
nước ngoài.
Vì vậy, với yêu cầu trên tác giả đã chọn đề tài cho luận văn là: “Pháp luật
về bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối
với Việt Nam”
1. Tính cấp thiết và điểm mới của đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng là vấn đề cần
thiết bởi:
- Các quy định trước đây của Việt Nam về vấn đề này đã trở lên lỗi
thời, không còn phù hợp với thực tiễn.
- Hiện nay, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng là vấn đề cấp bách không
chỉ tại Việt Nam mà trên toàn thế giới.
- Thực trạng ngày càng tăng các hàng hoá, dịch vụ gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khoẻ của người tiêu dùng.
- Việc thực thi các quy định về bảo vệ người tiêu dùng còn chỉ nằm
trên giấy tờ, chưa thực sự triển khai có hiệu quả trên thực tế.
- Yêu cầu các quy định của pháp luật quốc gia phải phù hợp với quy
định của pháp luật quốc tế.
Chính vì những nguyên nhân trên mà việc nghiên cứu pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng là một vấn đề cấp thiết.
1.2. Điểm mới của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam và thực thi có hiệu quả các quy định đó. Do đó, luận văn có những
đóng góp khoa học mới sau:
- Tổng hợp những nội dung về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của
9
Liên hợp quốc và các quốc gia trên toàn thế giới.
- Chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm của các quy định của các nước
trên thế giới về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, từ đó rút ra kinh nghiệm
cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về
vấn đề này.
- Chỉ ra được những hạn chế của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng, trên cơ sở nghiên cứu một số vụ việc điểm hình gây ra
nhiều bức xúc trong thời gian qua.
- Đề xuất hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng và cơ chế thực thi có hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiêm cứu trên thế giới
Vấn đề bảo vệ người tiêu dùng hay trách nhiệm sản phẩm của doanh
nghiệp luôn được coi là vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới.
Hầu như năm nào, các bài nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
liên quan đến trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp cũng được đăng tải.
Trong số đó, nhiều bài nghiên cứu đề cập tới chế độ trách nhiệm sản phẩm ở
nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản. Sau
đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này:
- Bài viết “The Japanese Products Liability Law (Pháp luật trách
nhiệm sản phẩm của Nhật Bản)” của Jason F.Cohen (nghiên cứu sinh Đại học
Fordham – Hoa Kỳ) đăng trên tạp chí “Fordham International Law Journal,
November 1997” đã làm rõ cơ sở chính sách và những đặc điểm cơ bản của
chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Nhật Bản.
- Bài viết “The future of products liability in America (Tương lai của
pháp luật trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ)” của ba luật sư của Hoa Kỳ là
Gary Wilson, Vincent Moccio và Daniel O.Fallon đăng trên tạp chí William
10
Mitchell Law Review (năm 2000) đã bàn về chế độ trách nhiệm sản phẩm ở
Hoa Kỳ hiện tại, những tồn tại, bất cập và đề xuất một số hướng cải cách đổi
mới.
- “Products Liability – Why the EU does not need the restatement
(third) (Chế định trách nhiệm sản phẩm – Vì sao Cộng đồng Châu Âu không
cần theo mô hình của Hoa Kỳ)” của Giáo sư Rebekah Rollo (Đại học
Maryland - Đức) trong bài viết đăng trên tạp chí “Brooklyn Law Review,
Spring, 2004” đã nghiên cứu chế độ trách nhiệm sản phẩm theo quy định của
Cộng đồng Châu Âu (EU) và tác động của những thay đổi trong chính sách
trách nhiệm sản phẩm của Hoa Kỳ tới chính sách tương tự của Cộng đồng
Châu Âu.
- Công trình “The Evolution of Products Liability Law (Quá trình phát
triển của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm)” của Giáo sư Luật David
G.Owen (Đại học South Carolina – Hoa Kỳ) đăng trên tạp chí “The Review
of Litigation (Symposium 2007)” đã nghiên cứu khá tỉ mỉ quá trình phát sinh,
phát triển của chế độ trách nhiệm sản phẩm ở Hoa Kỳ, nguồn gốc, những ý
tưởng cơ bản của chế độ trách nhiệm ấy.
- “Products Liability in the United Kingdom (Chế định trách nhiệm
sản phẩm ở Vương quốc Anh)” Giáo sư Jane Stapteton (Đại học quốc gia
Australia), đăng trên tạp chí “Texax International Law Journal, Winter 1999”
đã đề cập khá chi tiết về nguồn gốc, chức năng và các đặc điểm cơ bản trong
chế định trách nhiệm sản phẩm ở Anh quốc. Trong năm 2000, cũng chính
giáo sư Jane Stapleton đã đăng bài viết “Products Liability, an Anglo –
Australia Perspective (Chế định trách nhiệm sản phẩm - từ cách nhìn của châu
Úc)” trên tạp chí “Washburn Law Joural, Spring, 2000” trong đó ông làm rõ
quan niện của Úc về chế độ trách nhiệm sản phẩm.
- Chuyên khảo “Products liability” của giáo sư D.Cray, trường đại ọc
11
Carleton, Otawa, Canada, đã xem xét vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong
pháp luật của các quốc gia dưới cách nhìn luật học so sánh.
Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, trách nhiệm sản
phẩm là một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người tiêu
dùng trong nền kinh tế thị trường. Nhưng do điều kiện của mỗi quốc gia mà
việc áp dụng chế định này còn khác nhau, nhất là về phạm vi của chế định và
cơ chế đảm bảo thực thi chế định trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng đã được đề cập đến từ rất lâu và
đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới.
Tại Việt Nam nó cũng đã được ghi nhận trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng năm 1999, Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 thay thế
Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 và nhiều văn bản pháp luật khác
nhau như: Bộ luật dân sự 2005, Pháp lệnh chất lượng hàng hoá 1999 (được
thay thế bàng Luật chất lượng sảm phẩm hàng hoá 2007), Luật cạnh tranh
2004, Luật thương mại 2005, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm 2003 và
các Nghị định hướng dẫn thi hành…. Bên cạnh đó, phải kể tới là các bài viết
trên nhiều tạp chí chuyên nghành luật như Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Luật học, tuy
nhiên số lượng vẫn còn chưa nhiều.
Không những thế, liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, Viện
Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp đã phối hợp với Dự án Hỗ trợ cải cách pháp
luật của Canada tại Việt Nam (dự án Lerap) tổ chức Hội thảo “Cơ chế pháp lý
bảo vệ người tiêu dùng: thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế” (tổ chức
tại Khách sạn Melia trong 03 ngày từ ngày 14/8/2007 đến ngày 16/8/2007)
với sự tham gia của gần 70 đại biểu là đại diện các cơ quan bảo vệ người tiêu
dùng (Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Thương mại, Cục quản lý thị trường – Bộ
12
Thương mại, Cục an toàn vệ sinh thực phẩm – Bộ Y tế…), đại diện Bộ Tư
pháp, Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa Dân sự - Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội, đại diện Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt
Nam, đại diện Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng một số tỉnh, thành
phố, các chuyên gia pháp lý, đại diện phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, đại diện một số hiệp hội doanh nghiệp, đại diện của một số doanh
nghiệp, các cơ quan truyền thông, báo chí, một số chuyên gia của Canada.
Với hơn 10 bài tham luận tại Hội thảo, các đại biểu đã nêu rõ những khoảng
trống pháp lý trong công tác bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay,
trong đó có khoảng trống về chế định trách nhiệm sản phẩm của doanh
nghiệp. Nhiều ý kiến tham luận tại Hội thảo đã đề xuất việc hoàn thiện chế
định trách nhiệm sản phẩm ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, năm 2010, Viện Khoa
học Pháp lý – Bộ Tư pháp đã xây dựng Đề tài nghiên cứu “Trách nhiệm sản
phẩm của doanh nghiệp – công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng”. Có thể
nói đây là một Đề tài nghiên cứu tiếp cận rất sâu về bản chất, đặc điểm của
chế định trách nhiệm sản phẩm. Đề tài đã luận giải mô hình chế định trách
nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp và từ đó có các đề xuất hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ người tiêu dùng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay.
Tuy nhiên, kể từ khi Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 (có hiệu
lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2011) ra đời, mặc dù đã góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho việc bảo vệ người tiêu dùng được tốt hơn so với trước đây,
nhưng tình trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, khó khăn trong việc
áp dụng luật vẫn là vấn đề rất phức tạp. Bên cạnh đó, các quy định vẫn còn
chưa bắt kịp với sự phát triển của xã hội và còn chưa phù hợp với xu hướng
chung của thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu các quy định về trách nhiệm sản phẩm của các nước trên
13
thế giới, các kinh nghiệm xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng để hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng cũng như phương thức thực thi pháp luật
là vấn đề cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận về chế
định trách nhiệm sản phẩm của một số nước trên thế giới để bảo vệ người tiêu
dùng. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam, qua đó
góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, kịp thời xử
lý những nhà sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ kém chất lượng, góp
phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá các quy định pháp luật quốc tế và
quốc gia về bảo vệ người tiêu dùng
- Rút ra kinh nghiệm và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật
Việt Nam về vấn đề này
- Đề xuất cơ chế thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.3. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn.
- Hệ thống các quy định pháp lý của quốc tế về bảo vệ người tiêu
dùng.
- Các quy đinh của pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng.
- Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ người tiêu dùng, những
hạn chế còn tồn tại, phương hướng hoàn thiện và cơ chế để thực thi có hiệu
14
quả những quy đinh đó.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của một số
nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam” giúp chúng ta có thể:
- Hệ thống hóa các điều ước quốc tế của Liên hợp quốc, các nghị quyết
của Đại hội đồng Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng;
- Có được một số thông tin tổng quan về kết quả nghiên cứu pháp luật
của một số quốc gia về bảo vệ người tiêu dùng;
- Hiểu rõ hơn các nguyên lý, quan điểm của một số học giả trên thế giới
về bảo vệ người tiêu dùng;
- Đưa ra các khuyến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện cũng như việc
thực thi các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp luận biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: trong luận văn này tác giả tìm hiểu
nghiên cứu các quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo vệ
người tiêu dùng. Từ đó có sự so sánh, đối chiếu với nhau để tìm ra các quy
định mới và phát triển.
- Phương pháp phân tích các quy phạm của pháp luật quốc tế cũng như
các quốc gia khác về bảo vệ người tiêu dùng.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo. Luận văn
được triển khai theo 3 chương:
Chương 1. Cơ sở pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền lợi người tiêu
15
dùng.
Chương 2. Các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
của một số quốc gia trên thế giới
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam
16
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG
Trong xu hướng toàn cầu hóa, pháp luật Việt Nam đã có nhiều chính
sách mở cửa thị trường để cho các công ty nước ngoài tìm chỗ đứng trên thị
trường Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh các công ty sang đầu tư vào Việt Nam
đều mang theo dây truyền công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến
thì cũng có không ít một số công ty dùng Việt Nam là nơi giải quyết hàng hóa
tồn kho, lắp ráp các dây chuyền công nghệ đã lạc hậu cho nhà máy ở Việt
Nam hoặc tiến hành các chiêu thức tiếp thị gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
Vì vậy, để quyền lợi người tiêu dùng được bảo vệ, nước ta đã ban hành các
quy định pháp luật về vấn đề này. Mặc dù vậy, trong thời đại hội nhập kinh tế
quốc tế, để các quy định của pháp luật Việt Nam được áp dụng một cách
thuận lợi và nghiêm chỉnh cũng như hạn chế hành vi vi phạm của các chủ thể
tham gia thì các quy định này cần phải phù hợp với quy định của pháp luật
quốc tế về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng.
1.1. Các quy định của Liên hợp quốc về bảo vệ ngƣời tiêu dùng
Liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, năm 1985, Bản hướng
dẫn bảo vệ người tiêu dùng đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc chính thức
thông qua. Đây là một tài liệu cơ bản và toàn diện về bảo vệ người tiêu dùng.
Bản hướng dẫn này giúp ích cho các chính phủ, đặc biệt là các nước đang
phát triển, trong việc hoạch định các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Bản hướng dẫn đã được gửi cho các chính phủ thành viên
Liên hợp quốc, trong đó có chính phủ Việt Nam. Sau 10 năm ban hành, năm
1996, Liên hợp quốc đã gửi văn bản chính thức cho các chính phủ thành viên
đề nghị kiểm điểm lại việc thi hành Bản hướng dẫn về bảo vệ người tiêu
17
dùng. Sau năm 1999, Liên hợp quốc đã bổ sung thêm phần về bảo vệ môi
trường vào Bản hướng dẫn [4]. Theo đó, nội dung cơ bản của hướng dẫn của
Liên hợp quốc về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng gồm:
1.1.1. Mục tiêu
Hướng dẫn yêu cầu các quốc gia cần phát triển, củng cố hoặc giữ vững
các chính sách mạnh mẽ về bảo vệ người tiêu dùng. Để thực hiện được điều
đó, chính phủ mỗi nước phải dành ưu tiên cho việc bảo vệ người tiêu dùng,
phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và môi trường của nước mình, với các
nhu cầu của người dân và phải quan tâm đến hệ quả và lợi ích của các biện
pháp đề ra.
Bản hướng dẫn cũng ghi nhận rằng người tiêu dùng thường phải chịu
sự bất cân xứng về mặt kinh tế, các cấp độ giáo dục và khả năng thương
lượng trong mua bán; và ý thức được rằng người tiêu dùng có quyền được sử
dụng các sản phẩm an toàn, cũng như cần phải khuyến khích sự phát triển
kinh tế, xã hội một cách đúng đắn, công bằng và hợp lý. Chính vì vậy, mục
tiêu của hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng bao gồm:
- Giúp các nước thực hiện và duy trì đầy đủ việc bảo vệ người dân của
mình với tư cách là người tiêu dùng;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức sản xuất và phân phối đáp
ứng được những nhu cầu và nguyện vọng của người tiêu dùng;
- Khuyến khích việc nâng cao phẩm chất đạo đức cho những người sản
xuất, phân phối hàng hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng;
- Giúp các nước hạn chế những thủ đoạn lạm dụng của các doanh
nghiệp tầm cỡ quốc gia và quốc tế gây thiệt hại cho người tiêu dùng;
- Tạo thuận lợi cho sự phát triển các hội người tiêu dùng độc lập;
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng;
- Khuyến khích sự phát triển của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho
18
người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn với giá cả thấp hơn;
- Khuyến khích tiêu dùng bền vững.
1.1.2. Các nguyên tắc chung
Nguyên tắc là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chất chỉ đạo,
bao trùm có giá trị bắt buộc chung đối với các chủ thể là thành viên của Liên
hợp quốc. Theo đó, trong việc quy định về bảo vệ người tiêu dùng các nhu
cầu pháp lý mà Bản hướng dẫn nhằm hướng tới bao gồm:
Một là, bảo vệ người tiêu dùng tránh những mối nguy hại về sức khỏe
và an toàn;
Hai là, ủng hộ và bảo vệ các quyền lợi kinh tế của người tiêu dùng;
Ba là, thông tin đầy đủ cho người tiêu dùng để họ có thể lựa chọn sáng
suốt theo nguyện vọng và nhu cầu cá nhân;
Bốn là, giáo dục người tiêu dùng, bao gồm giáo dục về các tác động về
mặt kinh tế, xã hội và môi trường đối với sự lựa chọn của người tiêu dùng;
Năm là, thực hiện việc đền bù một cách hữu hiệu cho người tiêu dùng;
Sáu là, cho phép tự do thành lập các nhóm hay các tổ chức người tiêu
dùng thích hợp và tạo điều kiện cho các tổ chức đó trình bày quan điểm của
mình trong các quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến họ.
Bảy là, thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Bản hướng dẫn nêu cụ thể việc sản xuất và tiêu dùng không bền vững,
đặc biệt là ở các nước công nghiệp, là nguyên nhân chính của sự xuống cấp
của môi trường toàn cầu. Tất cả các nước cần thúc đẩy tiêu dùng bền vững;
các nước phát triển cần đi đầu trong việc thúc đẩy tiêu dùng bền vững; các
nước đang phát triển cần tìm mọi cách để đẩy mạnh tiêu dùng bền vững trong
quá trình phát triển của mình, cần quan tâm thích đáng tới nguyên tắc chung
và các trách nhiệm cụ thể. Tình hình cụ thể và nhu cầu của các nước đang
phát triển cần phải được ghi nhận đầy đủ. Chính sách khuyến khích tiêu dùng
19
hợp lý cần phải lưu ý mục tiêu xóa đói giảm nghèo, thỏa mãn các nhu cầu cơ
bản của con người, giảm thiểu sự bất bình đẳng trong xã hội và giữa các nước.
Bản hướng dẫn yêu cầu Chính phủ các nước cần phát triển, củng cố và duy trì
đủ cơ sở hạ tầng để phát triển, thực hiện và điều hành các chính sách bảo vệ
người tiêu dùng. Bên cạnh đó, các nước cần quan tâm đặc biệt để bảo đảm các
biện pháp bảo vệ người tiêu dùng được thực hiện vì quyền lợi của toàn dân,
đặc biệt là người dân sống ở vùng nông thôn và người nghèo. Tất cả các tổ
chức kinh doanh phải tuân theo pháp luật và những quy định của nhà nước,
đồng thời phải phù hợp với những quy định của tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ
người tiêu dùng mà cơ quan chức năng của nước đó đã thỏa thuận. Vai trò
tích cực của việc nghiên cứu trong các trường đại học và các doanh nghiệp
kinh doanh tư nhân hay nhà nước cần được xem xét khi hoạch định các chính
sách bảo vệ người tiêu dùng.
1.1.3. Các hƣớng dẫn
Liên quan đến người tiêu dùng là liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác
nhau từ sản xuất đến cung ứng sản phẩm hay dịch vụ, vì vậy để hoạt động bảo
vệ quyền lợi đạt hiệu quả, Liên hợp quốc đưa ra các hướng dẫn để áp dụng
cho cả hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước và nhập khẩu.
Tuy nhiên, khi áp dụng bất cứ biện pháp hoặc quy định nào về bảo vệ
người tiêu dùng thì các nước cần quan tâm thỏa đáng để đảm bảo rằng những
quy định ấy sẽ không gây cản trở và mâu thuẫn với những điều ước về thương
mại quốc tế mà nước mình đã ký kết hoặc tham gia.
1.1.3.1. An toàn sản phẩm
Đây là một trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu liên quan trực
tiếp và phổ biến nhất đến người tiêu dùng. Do đó, Bản hướng dẫn yêu cầu các
nước cần phê chuẩn hoặc khuyến khích việc phê chuẩn các biện pháp thích
hợp bao gồm những hệ thống pháp lý, những quy định về an toàn, các tiêu
20
chuẩn quốc gia hoặc quốc tế, các tiêu chuẩn tự nguyện và lưu trữ hồ sơ an
toàn để đảm bảo rằng các sản phẩm phải an toàn cho sử dụng theo mục đích,
hoặc bình thường có thể dự đoán trước được.
Những chính sách thích hợp đó cần đảm bảo các sản phẩm được sản
xuất ra phải an toàn cho việc sử dụng có mục đích hoặc bình thường có thể dự
đoán được. Những người có trách nhiệm đưa sản phẩm ra thị trường đặc biệt
là những người cung cấp, xuất nhập khẩu, những người buôn bán lẻ và tương
tự (sau đây gọi là những nhà phân phối) cần phải đảm bảo rằng trong quá
trình lưu thông, những hàng hóa này không trở thành độc hại do lưu kho hoặc
quản lý không tốt. Người tiêu dùng cần được hướng dẫn đầy đủ về cách sử
dụng hàng hóa và phải được thông báo về sự cố có thể xảy ra khi sử dụng
theo mục đích, hoặc trong khi sử dụng bình thường có thể thấy trước được.
Thông tin quan trọng về an toàn phải được truyền đạt tới người tiêu dùng
bằng những ký hiệu quốc tế dễ hiểu nếu có.
Không những thế, cần có chính sách thích hợp để đảm bảo rằng nếu
nhà sản xuất hoặc nhà phân phối thấy được tác hại sau khi hàng hóa đã được
đưa ra thị trường, thì họ phải khai báo ngay với những người có trách nhiệm,
và tốt hơn là với toàn thể công chúng. Bản hướng dẫn cũng yêu cầu các nước
cũng cần quan tâm đến các phương thức để bảo đảm rằng người tiêu dùng
được thông tin chính xác về những tác hại ấy.
Để ràng buộc trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc đảm bảo chất
lượng sản phẩm với người tiêu dùng, Bản hướng dẫn ghi nhận khả năng linh
hoạt cho các quốc gia. Theo đó, các quốc gia cần ban hành các chính sách để
nếu một sản phẩm được phát hiện là kém chất lượng một cách nghiêm trọng
hoặc gây ra những tác hại thực sự nghiêm trọng ngay cả khi được sử dụng
đúng, thì nhà sản xuất hoặc nhà phân phối phải thu hồi và thay thế, hoặc sửa
chữa, hoặc đổi sản phẩm khác. Nếu không thể thực hiện được việc này trong
21
một thời gian hợp lý, thì người tiêu dùng phải được bồi hoàn thỏa đáng. Với
quy định này, người tiêu dùng được bảo vệ quyền lợi trong nghĩa vụ bảo hành
sản phẩm của nhà sản xuất với những cam kết cụ thể về chất lượng hàng hóa.
1.1.3.2. Thúc đẩy và bảo vệ những quyền lợi kinh tế của ngƣời tiêu dùng
Bản hướng dẫn đã nêu rõ việc yêu cầu các quốc gia khi hoạch định các
chính sách phải đảm bảo cho người tiêu dùng được hưởng lợi nhiều nhất từ
các nguồn lực kinh tế của họ. Những chính sách này phải cố gắng để hoàn
thiện phương thức phân phối, thực hiện buôn bán ngay thẳng, tiếp thị có đầy
đủ thông tin, bảo vệ có hiệu quả chống lại những thủ đoạn có thể phương hại
đến quyền lợi kinh tế và sự lựa chọn của người tiêu dùng trên thị trường.
Thêm vào đó, các nước cần cố gắng ngăn chặn những thủ đoạn gây tổn
hại đến quyền lợi kinh tế của người tiêu dùng, bằng cách bảo đảm các nhà sản
xuất, nhà phân phối và những người có liên quan đến việc cung cấp hàng hóa
và dịch vụ phải tuân theo những luật pháp đã định và các tiêu chuẩn bắt buộc.
Các tổ chức của người tiêu dùng cần được khuyến khích để giám sát những
việc làm có hại như pha chất độn trong thực phẩm, quảng cáo gây nhầm lẫn
hoặc gian dối trên thị trường và các gian lận trong cung cấp dịch vụ.
Trong trường hợp có thể, các nước cũng nên phát triển, củng cố và duy
trì những biện pháp liên quan đến việc kiểm soát các thủ đoạn hạn chế hay
lạm dụng trong buôn bán có thể có hại đến người tiêu dùng, bao gồm những
biện pháp cưỡng chế đối với những thủ đoạn đó. Theo đó, các nước phải làm
theo sự cam kết của mình đối với “Các nguyên tắc và quy tắc công bằng, nhất
trí của nhiều bên và các điều lệ về kiểm soát các thủ đoạn hạn chế buôn bán”
do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua trong Nghị quyết 35/63 ngày 5
tháng 12 năm 1980.
Bản hướng dẫn cũng yêu cầu các nước cần phê chuẩn hoặc duy trì các
chính sách làm rõ trách nhiệm của nhà sản xuất phải đảm bảo hàng hóa đáp
22
ứng được nhu cầu hợp lý về độ bền, công dụng và độ tin cậy, phù hợp với
mục đích sử dụng, và người bán phải biết được những yêu cầu này đã được
đáp ứng hay chưa. Những chính sách tương tự cũng phải được áp dụng trong
các khâu cung ứng dịch vụ. Bên cạnh đó, để tạo cho người tiêu dùng được lựa
chọn trong phạm vi rộng các sản phẩm và dịch vụ với chi phí thấp nhất thì các
nước cần khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, có hiệu quả. Tùy vào điều kiện
ở mỗi nước mà có sự quan tâm để nhà sản xuất hoặc những nhà bán lẻ phải
đảm bảo cung cấp các phụ tùng và dịch vụ sau bán hàng đủ tin cậy.
Về vấn đề hợp đồng giao kết giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất, Bản
hướng dẫn cũng yêu cầu có các quy định để bảo vệ người tiêu dùng tránh
những gian lận trong hợp đồng, như hợp đồng do một bên quy định tiêu
chuẩn, hợp đồng bỏ ra ngoài những quyền cơ bản và những điều kiện giao
nhận không sòng phẳng của người bán.
Việc xúc tiến thương mại và việc thực hiện buôn bán phải tuân theo các
nguyên tắc đối xử công bằng với người tiêu dùng và hợp pháp. Nguyên tắc
này quy định việc cung cấp thông tin cần thiết để người tiêu dùng có thể độc
lập quyết định, cũng như những biện pháp để bảo đảm rằng thông tin cung
cấp là chính xác. Vì vậy, cần khuyến khích mọi nguồn tin tự do đưa những
thông tin chính xác về mọi mặt của sản phẩm cho người tiêu dùng. Để người
tiêu dùng có thể tiếp cận thông tin chính xác về tác động môi trường của các
sản phẩm và dịch vụ thì cần phải thông qua các phương tiện như các thông tin
về sản phẩm, các báo cáo về môi trường của ngành, của các trung tâm thông
tin người tiêu dùng, các chương trình dán nhãn chứng nhận về môi trường và
các đường dây nóng thông tin về sản phẩm. Hơn thế nữa, cơ quan chịu trách
nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần có sự hợp tác chặt chẽ với các
nhà sản xuất, các nhà phân phối và các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, cần có các biện pháp đối với các thông tin gây nhầm lẫn về môi trường
23
trong các quảng cáo và các hoạt động tiếp thị khác.
Tùy từng điều kiện của mỗi nước, các nước cần khuyến khích các
doanh nghiệp xây dựng và thực hiện các điều luật về tiếp thị và hành vi
thương mại, thông qua sự hợp tác với các tổ chức người tiêu dùng, nhằm bảo
vệ người tiêu dùng một cách thỏa đáng. Những thỏa thuận tự nguyện cũng có
thể được các tổ chức kinh doanh và các bên quan tâm khác cùng nhau xây
dựng. Những điều luật này phải được công bố rộng rãi và cần được thường
xuyên xem xét các văn bản pháp lý liên quan đến việc tính toán và đánh giá
xem bộ máy thi hành có đủ năng lực không.
1.1.3.3. Các tiêu chuẩn về an toàn và chất lƣợng của sản phẩm và
dịch vụ
Để đảm bảo cho sản phẩm và dịch vụ được lưu thông trên thị trường
cũng như xuất khẩu vào các nước được thuận lợi thì tùy từng vào điều kiện
của mỗi nước cần xây dựng hoặc xúc tiến việc soạn thảo và thực hiện các tiêu
chuẩn theo hình thức tự nguyện hoặc các hình thức khác, ở cấp độ quốc gia và
quốc tế về an toàn và chất lượng của hàng hóa và dịch vụ, và phải công bố
công khai những tiêu chuẩn đó. Những quy định và tiêu chuẩn quốc gia về an
toàn và chất lượng sản phẩm này cần phải được thường xuyên xem xét để khi
có điều kiện, đảm bảo cho những quy định và tiêu chuẩn đó phù hợp với
những tiêu chuẩn chung đã được quốc tế công nhận.
Đối với những nước do điều kiện kinh tế mà phải áp dụng những tiêu
chuẩn thấp hơn những tiêu chuẩn phổ biến được quốc tế công nhận, thì phải
cố gắng nâng cao những tiêu chuẩn đó càng sớm càng tốt.
Bên cạnh đó, để đảm bảo an toàn và chất lượng của sản phẩm và dịch
vụ các nước cần khuyến khích và đảm bảo các phương tiện để kiểm nghiệm
và xác nhận độ an toàn, chất lượng của hàng hóa và dịch vụ thiết yếu của
người tiêu dùng.
24
1.1.3.4. Các phƣơng tiện phân phối hàng tiêu dùng thiết yếu
Để hàng tiêu dùng thiết yếu đến tay người tiêu dùng được thuận lợi,
hiệu quả thì cần có phương tiện phân phối. Tuy nhiên, do địa hình, vùng miền
cũng như điều kiện kinh tế của từng quốc gia khác nhau mà việc sử dụng
phương tiện phân phối hàng hóa đặc trưng cho mỗi loại địa hình, vùng miền
cũng khác nhau. Chính vì vậy, khi tiến hành phân phối hàng tiêu dùng thiết
yếu, các nước cũng chú ý xem xét hai vấn đề sau:
Thứ nhất, phê chuẩn hoặc duy trì các chính sách để đảm bảo sự phân
phối hiệu quả hàng hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng; ở nơi thích hợp, cần
xem xét các chính sách đặc biệt để đảm bảo việc phân phối những hàng hóa
và dịch vụ thiết yếu ở những nơi việc phân phối gặp khó khăn, đặc biệt đối
với các khu vực nông thôn. Những chính sách ấy có thể bao gồm việc trợ giúp
để tạo ra các kho chứa và các phương tiện bán lẻ thích hợp ở các trung tâm
mua bán nông thôn, khuyến khích người tiêu dùng tự giải quyết và kiểm tra
tốt hơn các điều kiện cung ứng hàng hóa và dịch vụ thiết yếu ở nông thôn;
Thứ hai, khuyến khích việc thành lập các hợp tác xã tiêu thụ và các
hoạt động thương mại có liên quan, cũng như thông tin về các hoạt động đó,
đặc biệt ở các vùng nông thôn.
1.1.3.5. Các biện pháp giúp ngƣời tiêu dùng đƣợc bồi thƣờng
Vấn đề bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng là vấn đề luôn nhận
được sự quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng. Do đó, Bản hướng dẫn yêu
cầu các nước cần thiết lập hoặc duy trì những biện pháp hành chính và/hoặc
pháp chế để giúp người tiêu dùng hoặc, nếu phù hợp, các tổ chức liên quan có
thể nhận bồi thường thông qua các thủ tục chính thức hoặc không chính thức
một cách nhanh chóng, công bằng, không tốn kém, thuận tiện và đặc biệt chú
ý tới nhu cầu của người tiêu dùng có thu nhập thấp.
Về phía các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp giải quyết
25
thắc mắc của người tiêu dùng một cách sòng phẳng, nhanh chóng và bình
thường; nên thiết lập các cơ chế tự nguyện, bao gồm những dịch vụ tư vấn và
các phương thức khiếu nại không chính thức để giúp đỡ người tiêu dùng.
Về phía người tiêu dùng, các nước cần phổ biến tới người tiêu dùng các
thông tin về việc bồi thường và các hình thức giải quyết tranh chấp.
1.1.3.6. Các chƣơng trình giáo dục và thông tin
Một trong những biện pháp để người tiêu dùng tự bảo vệ mình có hiệu
quả là phổ biến giáo dục pháp luật về quyền lợi của người tiêu dùng cũng như
cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ để người tiêu dùng lựa chọn. Do đó,
các nước cần phát triển hoặc khuyến khích các chương trình thông tin và giáo
dục cho người tiêu dùng, bao gồm thông tin về tác động đối với môi trường
của sự lựa chọn của người tiêu dùng và hành vi và các tác dụng có thể có, bao
gồm các lợi ích và chi phí, của những thay đổi trong tiêu dùng, có lưu ý đến
truyền thống văn hóa của những đối tượng được giáo dục. Mục đích của các
chương trình này cần tạo cho mọi người khả năng hành động độc lập, có khả
năng lựa chọn một cách có căn cứ các hàng hóa, dịch vụ và ý thức được trách
nhiệm và quyền lợi của họ. Khi thực hiện các chương trình đó, cần chú ý đặc
biệt đến nhu cầu của những người tiêu dùng bị thiệt thòi ở cả hai khu vực
nông thôn và thành thị, kể cả những người tiêu dùng có thu nhập thấp và
những người có trình độ văn hóa thấp hoặc mù chữ. Các tổ chức người tiêu
dùng, doanh nghiệp và các tổ chức liên quan khác cần phải cùng tham gia vào
những nỗ lực giáo dục này.
Tùy từng vào chính sách của mỗi quốc gia, việc giáo dục người tiêu
dùng phải trở thành một bộ phận cấu thành của chương trình cơ bản của hệ
thống giáo dục, tốt nhất là lồng ghép vào các môn học hiện hành.
Các chương trình thông tin và giáo dục người tiêu dùng phải bao quát
các khía cạnh quan trọng về bảo vệ người tiêu dùng như:
26
- Sức khỏe, dinh dưỡng, ngăn cản bệnh loãng xương, thực phẩm bị pha trộn;
- Tác hại của sản phẩm;
- Ghi nhãn sản phẩm;
- Pháp luật có liên quan; làm thế nào để được bồi thường, các cơ quan
và tổ chức bảo vệ người tiêu dùng;
- Thông tin về cân đo, giá cả, chất lượng, điều kiện mua bán và việc
cung ứng các nhu cầu cơ bản;
- Bảo vệ môi trường;
- Sử dụng hợp lý vật liệu, năng lượng, nguồn nước
Để tiến hành các chương trình giáo dục và thông tin, các nước cần
khuyến khích các tổ chức người tiêu dùng và các nhóm liên quan khác, bao
gồm báo chí tiến hành các chương trình giáo dục và thông tin, bao gồm các tác
động về môi trường của việc mua sắm, bao gồm các lợi ích và chi phí của
những thay đổi trong tiêu dùng, đặc biệt là lợi ích của các nhóm người tiêu
dùng thu nhập thấp ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Tùy từng vào các
nước, các doanh nghiệp ở nước đó còn phải đảm trách hoặc tham gia một cách
thực tiễn và thích hợp vào các chương trình thông tin giáo dục người tiêu dùng.
Thể hiện sự quan tâm đến sự cần thiết phải đưa chương trình thông tin
và giáo dục người tiêu dùng đến những người tiêu dùng ở nông thôn và những
người tiêu dùng không biết chữ, yêu cầu các nước cần phát triển hoặc khuyến
khích phát triển các chương trình thông tin người tiêu dùng trên phương tiện
thông tin đại chúng.
Không những thế, để hoạt động giáo dục và thông tin tới người tiêu
dùng đạt hiệu quả cần tổ chức hoặc khuyến khích các chương trình tập huấn
cho những người làm công tác giáo dục, những người công tác ở các phương
tiện thông tin đại chúng và những người làm tư vấn về tiêu dùng, để giúp họ
có thể tham gia vào việc triển khai các chương trình giáo dục và thông tin cho