ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN HỒNG NGUYÊN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN HỒNG NGUYÊN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số
: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÁ DIẾN
Hà Nội - 2012
2
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các bản đồ, hình vẽ, đồ thị
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.
6
Nhận thức chung về tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài
6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài
6
1.1.2. Phân loại các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
12
1.2.
19
Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Vai trò của giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài
19
1.2.2. Các yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
20
1.2.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài
1.3.
21
Trọng tài - Một phương thức giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
26
1.3.1. Các đặc trưng pháp lý của hoạt động giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
26
1.3.2. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài trong việc giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
5
28
1.4.
Cơ sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
32
1.4.1. Các điều ước quốc tế về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài
32
1.4.2. Pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài
32
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI BẰNG TRỌNG TÀI
2.1.
33
Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài bằng trọng tài theo các điều ước quốc tế
33
2.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo quy định của Công ước Washington năm 1965 về
giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư quốc tế giữa Nhà
nước và công dân của Nhà nước khác
33
2.1.2. Quy định pháp luật về việc công nhận và thi hành tại Việt
Nam quyết định trọng tài nước ngoài
36
2.1.3. Giải quyết tranh chấp về đầu tư của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO)
39
2.1.4. Giải quyết tranh chấp trong Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ về quan hệ thương mại
2.2.
40
Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài bằng trọng tài theo pháp luật một số nước trên thế giới
45
2.2.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài bằng trọng tài tại Nhật Bản
45
2.2.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài bằng trọng tài tại Tây Ban Nha
48
2.2.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu bằng
trọng tài tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
6
52
Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài bằng trọng tài theo pháp luật Việt Nam
2.3.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài bằng trọng tài
2.3.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài bằng trọng tài
2.3.3. Các biện pháp hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng trọng tài
2.3.4. Thi hành các quyết định giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng trọng tài
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
2.3.
TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ LĨNH VỰC NÀY
Thực trạng thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng trọng tài
3.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài bằng trọng tài
3.1.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài bằng trọng tài
3.1.3. Các biện pháp hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng trọng tài
3.1.4. Thi hành các quyết định của Trọng tài Việt Nam về giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài bằng trọng tài
3.2.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng trọng tài
3.2.2. Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài bằng trọng tài
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
56
56
61
65
68
78
3.1.
7
78
78
87
88
90
90
90
95
102
105
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
BCC
(Business Cooperation Contract
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng BOT
Build-Operate-Transfer
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao
Hợp đồng BTO
Build-Transfer-Operate
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
Hợp đồng BT
Build-Transfer
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao
VCCI
Vietnam Chamber of Commerce and Industry
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
VIAC
The Vietnam International Arbitration Centre
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
Cơng ước Newyork năm 1958 Công ước về công nhận và thi hành quy định
trọng tài nước ngồi
Cơng ước ISCID
Cơng ước Washington năm 1965 về giải quyết
các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư quốc tế
giữa Nhà nước và công dân của Nhà nước khác
Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
UNCITRAL
Luật
mẫu
UNCITRAL Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài quốc
năm 1985
tế năm 1985
Quy tắc UNCITRAL
Qui tắc trọng tài Uncitral 1976 được Ðại hội đồng
thông qua vào ngày 15 tháng 12 năm 1976
8
BTA
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
GATT 1947
General Agreement on Tariffs and Trade
Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
Công ước Geneva năm 1961 Công ước Geneva ngày 21/04/1961 về trọng tài
thương mại quốc tế
ICSID
International
Centre
for
Settlement
of
Investment Disputes
Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế
DSB
Dispute Settlement Body
Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO
9
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Số lượng các vụ việc được giải quyết tại các Trung tâm
Trọng tài Việt Nam (2004 - 2009)
Bảng 3.2. Loại hình tranh chấp được giải quyết tại VIAC
81
82
Bảng 3.3. Số lượng tranh chấp trong nước và tranh chấp có yếu tố
nước ngồi
83
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Trang
Hình 2.1. Trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp nước ngồi bằng trọng tài
Hình 3.1. Loại hình tranh chấp được giải quyết tại VIAC
62
83
Hình 3.2. Số lượng tranh chấp trong nước và tranh chấp có yếu tố
nước ngồi
84
10
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương đổi mới, phát triển kinh
tế theo nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, trong những năm qua, ngày
càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào nước ta trong nhiều lĩnh
vực. Đặc biệt, từ khi Quốc hội nước ta thông qua Luật Đầu tư năm 2005 thay
thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước thì hoạt động đầu tư nước ngồi tại Việt Nam, trong đó có đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng phát triển cả về số lượng dự án và quy mô
đầu tư. Cùng với việc nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thì
những tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư nước ngồi đang có chiều hướng gia
tăng và phức tạp hơn cả về tính chất cũng như quy mơ.
Để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư tại Việt
Nam thì một trong những giải pháp là phải giải quyết các tranh chấp trong
lĩnh vực FDI triệt để, thoả đáng và có hiệu quả. Hiện nay, pháp luật nước ta
quy định có bốn phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư là
thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài hoặc toà án. Đề tài tập trung
nghiên cứu một cách chuyên sâu về phương thức giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực FDI bằng trọng tài theo pháp luật Việt Nam; thực tiễn áp dụng
phương thức này trong giải quyết tranh chấp, có sự đánh giá, so sánh với pháp
luật quốc tế và pháp luật một số nước.
Hiện nay, pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng
trọng tài còn nhiều bất cập, dẫn đến việc giải quyết tranh chấp hiệu quả chưa
cao khiến doanh nghiệp chưa tin tưởng vào trọng tài. Do vậy, dựa trên việc
nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI, thực tiễn
giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này bằng trọng tài, tác giả mong muốn
đóng góp ý kiến để hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh
1
vực FDI nói chung, pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI
bằng trọng tài nói riêng phù hợp với pháp luật quốc tế và điều kiện cụ thể của
Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất các biện pháp để thực thi lĩnh
vực pháp luật này có hiệu quả.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giải quyết tranh chấp kinh doanh luôn thu hút được sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, vì vậy đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về vấn đề này ở các mức độ khác nhau. Có thể kể đến một số cơng
trình nghiên cứu như sau: Luận án tiến sỹ của Đào Văn Hội với đề tài “Giải
quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”; Tác
giả Nguyễn Thị Kim Vinh với đề tài Luận án tiến sỹ “Pháp luật giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng con đường toà án ở Việt Nam”; Luận án tiến sỹ của
Phan Thị Hương Thuỷ với đề tài “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết
tranh chấp kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt
Nam”; Tác giả Trần Minh Ngọc với đề tài Luận án tiến sỹ “Giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế”; Tác giả Nguyễn Thị Vân Anh với đề tài Luận văn thạc sỹ
“Giải quyết tranh chấp công ty theo thủ tục tư pháp - những vấn đề lý luận và
thực tiễn”. Các cơng trình nghiên cứu nói trên mới đề cập đến việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và tranh
chấp trong một số loại hình doanh nghiệp cụ thể (cơng ty, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi) mà chưa tập trung nghiên cứu sâu những quy định của
pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng trọng tài theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
Có thể nói, đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu
tư trực tiếp nước ngoài bằng trọng tài tại Việt Nam” mà tác giả lựa chọn là
cơng trình nghiên cứu đầu tiên được thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật
học nghiên cứu một cách chuyên sâu các quy định pháp luật và thực tiễn giải
2
quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI tại Việt Nam bằng trọng tài theo quy
định mới của Luật Trọng tài thương mại, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004,
Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005 có sự đánh giá, so sánh
với pháp luật một số nước trên thế giới, trong khi các luận văn nói trên nghiên
cứu trên cơ sở quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989, Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995,
Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và được sửa đổi, bổ sung năm
2000, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Bên cạnh đó, một điểm mới
nữa là Đề tài có nghiên cứu, so sánh pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng trọng tài với pháp luật
một số nước ASEAN, Trung Quốc, Hoa Kỳ…
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích của việc nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, đánh giá hệ thống pháp luật và
thực tiễn giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng phương thức trọng tài
theo quy định của pháp luật Việt Nam, có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật
một số nước trên thế giới, từ đó, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật
về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng trọng tài ở nước ta.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng trọng tài; tìm hiểu
một cách đầy đủ, có hệ thống quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng trọng tài cũng như quy định của pháp luật
quốc tế và pháp luật một số nước để thấy được những điểm giống nhau, khác
nhau và ưu điểm cũng như tồn tại, hạn chế của pháp luật Việt Nam và pháp
luật một số nước về lĩnh vực này. Bên cạnh đó, luận văn cịn nghiên cứu, đánh
3
giá thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI
bằng trọng tài, trong đó chỉ ra những ưu điểm, cũng như hạn chế, bất cập của
công tác này trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, từ đó phân tích, đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng trọng tài.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật của Việt Nam, các điều ước
quốc tế của Liên hiệp quốc, điều ước quốc tế song phương và pháp luật một
số quốc gia điển hình như: Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Ban Nha.
Về mặt thời gian, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam là
những văn bản đang còn hiệu lực pháp luật hoặc đã hết hiệu lực nhưng cịn ý
nghĩa thực tiễn vẫn được phân tích ở mức độ nhất định. Đối với các điều ước
quốc tế và văn bản quy phạm pháp luật của một số nước được nghiên cứu là
những văn bản đang còn hiệu lực pháp luật.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã cố gắng sưu tầm và sử dụng thông
tin từ nguồn tư liệu khai thác được tại Thư viện quốc gia, Thư viện Bộ Tư
pháp, các tài liệu do các đơn vị liên quan của Bộ Tư pháp và một số Bộ,
ngành liên quan phát hành, tài liệu thu thập trên mạng internet.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp: phân
tích – tổng hợp, phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng. Bên cạnh
đó, tác giả đã sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác như: so sánh, chứng
minh, logic, thống kê, quy nạp để rút ra bản chất của các sự vật, hiện tượng
thuộc đối tượng nghiên cứu và phương pháp xã hội học khác như lấy số liệu,
tham khảo ý kiến của những người làm công tác thực tiễn…
4
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Về lý luận: Đề tài này có sự đan xen giữa pháp luật về đầu tư và
pháp luật về trọng tài thương mại. Việc đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực pháp
luật này nhằm làm rõ các căn cứ khoa học của việc hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng phương thức trọng tài ở nước ta
cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật; tạo cơ sở để tham vấn ký kết,
tham gia các điều ước quốc tế có liên quan.
5.2. Về thực tiễn: Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI bằng
phương thức trọng tài là lĩnh vực khơng mới, nhưng vẫn cịn mang tính thời
sự, cấp thiết vì đây là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả nhưng lại ít
được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp FDI nói riêng sử
dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh. Do vậy, làm rõ nhưng
ưu điểm, hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này cũng như đề xuất
các giải pháp để hoàn thiện thể chế, nâng cao hiểu quả áp dụng pháp luật về
giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI sẽ đem lại lợi ích, trước hết cho các
doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, từng bước hội nhập quốc tế.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
kèm theo, luận văn bao gồm 03 chương với cấu trúc như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực FDI.
Chương 2: Các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực FDI bằng trọng tài.
Chương 3: Thực trạng thực thi pháp luật và một số kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI
bằng trọng tài.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Nhận thức chung về tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài
a) Khái niệm tranh chấp trong lĩnh vực FDI
Sau khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương đổi mới, phát triển kinh
tế theo nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, trong những năm qua, ngày
càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước ta trong nhiều lĩnh vực.
Đặc biệt, từ khi Quốc hội nước ta thông qua Luật Đầu tư năm 2005 thay thế
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước nhằm xố bỏ sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và
nước ngồi. Luật Đầu tư đã xây dựng trình tự thủ tục đơn giản cho các nhà
đầu tư và phù hợp với quy định của các hiệp định song phương và đa phương
liên quan đến hoạt động đầu tư thì hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
nhất là FDI ngày càng phát triển cả về số lượng dự án và quy mơ đầu tư.
Để có khái niệm chuẩn về tranh chấp trong lĩnh vực FDI, trước hết
chúng ta tìm hiểu một số khái niệm có liên quan.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005, đầu tư là việc
nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ hình để hình thành
tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan. Tài sản hữu hình là những tài sản có thể
nhìn thấy được như đất đai, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, vật kiến trúc…
Cịn tài sản vơ hình là tài sản khơng thấy bằng mắt như uy tín kinh doanh,
thương hiệu, cơng nghệ, bằng phát minh, sáng chế…
6
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư (khoản 2 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005).
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khốn và thơng qua các
định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư (khoản 2 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005). Như vậy,
đầu tư trực tiếp khác đầu tư gián tiếp ở chỗ, nhà đầu tư trực tiếp đầu tư vốn và
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư còn nhà đầu tư gián tiếp thì khơng
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Hiện nay có một số khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign
direct investment, sau đây viết tắt là FDI), cụ thể là:
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa FDI như sau:
FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu
tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng
với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân
biệt FDI với các cơng cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường
hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngồi là
các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là
"công ty con" hay "chi nhánh công ty" [25].
Luật Đầu tư năm 2005 không đưa khái niệm FDI. Tuy nhiên, qua khái
niệm đầu tư trực tiếp có thể rút ra khái niệm FDI như sau: FDI là hình thức
đầu tư do tổ chức, cá nhân nước ngồi bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý
hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư
trực tiếp tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngồi có thể đối mặt với nhiều loại
tranh chấp. Để có khái niệm chuẩn về tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài, trước hết chúng ta tìm hiểu thế nào là tranh chấp, tranh chấp
kinh doanh.
7
Dưới góc độ khoa học pháp lý, tranh chấp được hiểu là những bất đồng,
mâu thuẫn về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên trong một quan hệ xã hội nhất
định được pháp luật điều chỉnh [1, tr. 5].
Có quan điểm cho rằng tranh chấp là sự bất đồng, sự xung đột về quyền
lợi, về quan điểm giữa người này với một người khác, giữa nhóm người này
với một hoặc nhóm người khác, giữa doanh nghiệp này với doanh nghiệp
khác [9, tr. 44].
Tranh chấp kinh doanh (hay còn gọi là tranh chấp trong kinh doanh) là
thuật ngữ được nhiều công trình, bài nghiên cứu của giới luật học sử dụng như
một thuật ngữ chính thức để chỉ tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh.
Cụ thể, tranh chấp kinh doanh được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về các lợi
ích kinh tế giữa chủ thể phát sinh trong quan hệ kinh doanh, chủ yếu là liên
quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Xuất phát từ khái niệm kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
1999 thì đó là tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực từ đầu tư, sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh là luôn gắn liền với các hoạt động kinh
doanh; chủ thể tham gia là các chủ thể kinh doanh và các bên có liên quan;
tranh chấp kinh doanh thể hiện ra bên ngoài là những xung đột về lợi ích kinh
tế giữa các bên [1, tr. 6].
Quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngồi khơng chỉ phát sinh giữa các chủ
thể là nhà đầu tư nước ngồi với các loại hình doanh nghiệp trong nước từ
hoạt động đầu tư trực tiếp (quan hệ kinh doanh, thương mại) mà cịn phát sinh
trong q trình quản lý nhà nước về đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài với
các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư (quan hệ hành chính). Chính vì vậy,
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực FDI có thể là tranh chấp kinh doanh,
thương mại nếu chủ thể là các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh hoặc
8
tranh chấp trong lĩnh vực hành chính nếu một bên chủ thể là cơ quan quản lý
nhà nước về đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý như cấp giấy
chứng nhận dự án đầu tư, điều chỉnh, thay đổi dự án đầu tư… Trong phạm vi
luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến hoạt động FDI với tư cách là một hoạt
động thương mại. Do đó, khái niệm tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực FDI
trong luận văn này được coi như là một tranh chấp về kinh doanh thương mại.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm tranh chấp trong lĩnh vực
FDI như sau: Tranh chấp trong lĩnh vực FDI là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong quan
hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
b) Đặc điểm tranh chấp trong tranh chấp trong lĩnh vực FDI tại Việt Nam
Thứ nhất, về chủ thể tranh chấp: là các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
- Một bên chủ thể là nhà đầu tư nước ngồi hoặc doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi với các chủ thể khác trong quá trình thực hiện hoạt động
đầu tư. Theo khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005, nhà đầu tư nước ngoài là
tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư
tại Việt Nam thơng qua hình thức đầu tư trực tiếp.
Mặc dù Luật Đầu tư không xác định cụ thể tổ chức nước ngoài là ai
nhưng theo khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 về quốc tịch doanh
nghiệp thì có thể hiểu rằng tổ chức nước ngoài là doanh nghiệp được thành lập,
đăng ký kinh doanh ở nước, vùng lãnh thổ không phải là Việt Nam hoặc công
ty do các tổ chức, cá nhân nước ngồi thành lập mà khơng liên doanh với nhà
đầu tư trong nước.
Theo Luật Quốc tịch năm 2008 thì cá nhân nước ngồi là người có
quốc tịch nước khác, khơng phải quốc tịch Việt Nam. Do đó, nhà đầu tư nước
ngồi trước hết là cá nhân gồm: người có quốc tịch nước ngồi (trong đó có
Việt kiều – người gốc Việt Nam ở nước ngồi và có quốc tịch nước ngồi).
9
- Một nhóm nhà đầu tư cũng được coi là nhà đầu tư nước ngoài mà
khoản 3 Điều 12 Luật Đầu tư năm 2005 đề cập đó là các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi (căn cứ vào nguồn vốn từ nước ngồi góp vào doanh
nghiệp), gồm có:
+ Một hoặc các cá nhân nước ngoài, tổ chức nước ngoài thành lập công
ty mà không liên doanh với nhà đầu tư trong nước. Doanh nghiệp được thành
lập này là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp này,
công ty được thành lập sẽ được coi là nhà đầu tư nước ngoài.
+ Một hoặc các cá nhân nước ngoài, tổ chức nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam và góp vốn liên doanh với nhà đầu tư trong nước cùng thành lập
công ty. Công ty được thành lập là loại hình doanh nghiệp liên doanh mà nhà
đầu tư nước ngồi có góp một phần vốn.
Thứ hai, lĩnh vực phát sinh tranh chấp là lĩnh vực FDI. FDI là việc nhà
đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư thơng
qua các hình thức:
(i) Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài;
(ii) Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngồi.
(iii) Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng
BTO, hợp đồng BT;
(iv) Đầu tư phát triển kinh doanh;
(v) Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư;
(vi) Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
- Vốn đầu tư để nhà đầu tư nước ngồi đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
có thể là tiền hoặc các tài sản hợp pháp khác. Theo hướng dẫn tại khoản 1
Điều 2 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, tài sản hợp
10
pháp có thể là cổ phần, cổ phiếu, giấy tờ có giá; trái phiếu, khoản nợ và các
hình thức vay nợ khác; các quyền theo hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng chìa
khố trao tay, hợp đồng xây dựng, hợp đồng quản lý, hợp đồng phân chia sản
phẩm hoặc doanh thu; các quyền địi nợ và quyền có giá trị kinh tế theo hợp
đồng; công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả nhãn hiệu thương mại,
kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, tên thương mại, nguồn gốc hoặc tên gọi
xuất xứ; các quyền chuyển nhượng, bao gồm cả quyền đối với thăm dò và
khai thác tài nguyên; bất động sản, quyền đối với bất động sản, bao gồm cả
quyền cho thuê, chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp hoặc bảo lãnh; các khoản
lợi tức phát sinh từ hoạt động đầu tư, bao gồm cả lợi nhuận, lãi cổ phần, cổ
tức, tiền bản quyền và các loại phí; các tài sản và quyền có giá trị kinh tế khác
theo quy định của pháp luật và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam có thể phải “đối mặt”
với rất nhiều loại tranh chấp như: tranh chấp liên quan đến hợp đồng (phục vụ
cho hoạt động đầu tư như: thuê nhân công, mua bán nguyên vật liệu, thành
phẩm…), tranh chấp trong nội bộ doanh nghiệp liên doanh…
Thứ ba, giống như bất kỳ một tranh chấp nào khác, tranh chấp trong
lĩnh vực FDI thể hiện ra bên ngoài là những mâu thuẫn, bất đồng liên quan
đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư nước ngồi. Đó là những tranh chấp
mà nhà đầu tư gặp phải trong quá trình đầu tư thơng qua việc thực hiện các
hình thức đầu tư trực tiếp vào Việt Nam như: các tranh chấp trong việc
thành lập, tổ chức quản lý, hoạt động của các tổ chức kinh tế nếu nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư thơng qua hình thức thành lập tổ chức kinh tế để tiến
hành hoạt động đầu tư; tranh chấp liên quan đến thực hiện hợp đồng BCC,
hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT…, mua cổ phần hoặc góp
vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; đầu tư thực hiện việc sáp nhập
và mua lại doanh nghiệp.
11
Tranh chấp bắt nguồn từ bất đồng, mâu thuẫn giữa các chủ thể của
quan hệ pháp luật. Nguồn gốc của hầu hết các tranh chấp phát sinh có thể
được nhìn nhận dưới góc độ kinh tế, tức là có mối liên quan chặt chẽ đến lợi
ích kinh tế. Tranh chấp trong lĩnh vực FDI cũng vậy, có thể là mâu thuẫn giữa
các bên trong quan hệ đầu tư liên quan đến góp vốn, phân chia lợi nhuận,
phân chia rủi ro, tranh giành quyền quản lý. Nó cũng có thể là sự bất đồng với
quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư liên quan đến cấp Giấy
chứng nhận đầu tư, các chính sách ưu đãi đầu tư…
Ví dụ 1: Doanh nghiệp A (là doanh nghiệp nước ngoài) ký hợp đồng
hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) với doanh nghiệp B (là doanh nghiệp
Việt Nam). Trong hợp đồng 2 bên thoả thuận cùng góp vốn và chia lợi nhuận,
phân chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Trong q trình thực hiện hợp đồng này,
các bên có bất đồng trong việc phân chia lợi nhuận và tranh chấp xảy ra. Đây
là tranh chấp trong lĩnh vực FDI.
Ví dụ 2: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài A được thành lập bởi sự
góp vốn của cá nhân ơng B (người có quốc tịch nước ngồi) và doanh nghiệp
nước ngồi C. Trong quá trình hoạt động, các thành viên của doanh nghiệp A
có mâu thuẫn với doanh nghiệp A về việc góp vốn. Đây là tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực FDI.
Ví dụ 3: Tranh chấp liên quan đến góp vốn và định giá tài sản góp vốn
giữa nhà đầu tư nước ngồi là ơng A với Cơng ty trách nhiệm hữu hạn B là
doanh nghiệp Việt Nam (các bên đã thành lập doanh nghiệp liên doanh). Đây
là tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.2. Phân loại các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
Các tranh chấp trong lĩnh vực FDI xảy ra trên thực tế rất đa dạng và
phức tạp. Do đó, việc phân loại tranh chấp này là thật sự cần thiết và có ý
nghĩa về cả lý luận và thực tiễn, nó cho chúng ta cái nhìn tổng qt, hệ thống
và toàn diện khi nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI. Phân
12
loại tranh chấp trong lĩnh vực FDI là việc chia các tranh chấp này thành từng
nhóm khác nhau dựa trên các tiêu chí nhất định. Chúng tơi cho rằng cần phải
nghiên cứu về tính chất, đặc điểm của tranh chấp trong lĩnh vực đặc biệt này
thông qua việc phân loại các tranh chấp nhằm làm rõ đặc điểm nổi bật của
tranh chấp này so với tranh chấp kinh doanh khác. Từ đó, xây dựng được cơ
sở pháp lý giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực FDI phù hợp với từng loại
tranh chấp. Hơn nữa, việc phân loại các tranh chấp trong lĩnh vực FDI có ý
nghĩa rất quan trọng vì nó cho cái nhìn tổng qt khi nghiên cứu về loại tranh
chấp này. Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà người ta có thể có các cách phân
loại khác nhau.
Thứ nhất, phân loại theo chủ thể thì có các loại sau:
- Nhóm thứ nhất gồm có tranh chấp mà một bên chủ thể là nhà đầu tư
nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi hoặc tranh chấp giữa
các nhà đầu tư nước ngoài với nhau:
Tranh chấp mà một bên là nhà đầu tư nước ngoài. Chủ thể một bên là
nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt
động đầu tư tại Việt Nam và tham gia quản lý hoạt động đầu tư), còn bên kia
là nhà đầu tư Việt Nam: doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh
tế (doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm, công ty cổ phần…); hợp tác
xã; hộ kinh doanh; cá nhân.
Tranh chấp mà một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) với một bên
là nhà đầu tư Việt Nam: doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh
tế (doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm, công ty cổ phần…); hợp tác
xã; hộ kinh doanh; cá nhân.
Tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau. Chủ thể tranh
chấp có thể là hai doanh nghiệp liên doanh với nhau hoặc hai doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài với nhau hoặc giữa một bên là doanh nghiệp liên doanh
13
với bên kia là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc một bên là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với bên kia là tổ chức, cá nhân nước ngoài
bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư.
Các tranh chấp này là các tranh chấp thương mại xuất phát từ hoạt động
đầu tư là một hoạt động thương mại. Căn cứ phát sinh loại tranh chấp này
thường từ việc ký kết và thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng
BCC), hợp đồng thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, hợp đồng
mua trái phiếu hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; tranh chấp
trong nội bộ doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
được thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư…
- Nhóm thứ hai là tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan quản
lý nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam.
Các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư gồm có:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (ở Trung ương) và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban
quản lý khu công nghiệp (ở địa phương). Theo quy định của pháp luật về đầu
tư thì cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư tham gia với
tư cách là cơ quan quản lý. Trên thực tế có thể phát sinh tranh chấp từ quan hệ
này trong quá trình xin cấp, thay đổi Giấy chứng nhận đầu tư hoặc trong quá
trình thực hiện dự án đầu tư. Đây là các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
hành chính. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp này cũng xuất phát từ lợi ích
kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ và những lĩnh vực mà Chính phủ khuyến khích thực hiện
các dự án xây dựng, vận hành cơng trình kết cấu hạ tầng mới hoặc cải tạo, mở
rộng, hiện đại hố, vận hành, quản lý các cơng trình mà các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý.
Đây là tiền đề để các cơ quan quản lý nhà nước trên đề xuất, xin phê duyệt và
14
công bố danh mục dự án gọi vốn đầu tư theo hình thức BT, hợp đồng BTO,
hợp đồng BOT do Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp
Giấy chứng nhận đầu tư. Trong hợp đồng này, một bên tham gia hợp đồng là
cơ quan nhà nước, đó là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo Điều 3 Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày
27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức hợp đồng BTO, BOT,
BT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết và thực hiện hợp đồng BTO,
BOT, BT phải thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo thoả thuận với
nhà đầu tư trong hợp đồng. Đây là mối quan hệ bình đẳng giữa các chủ thể
trong hợp đồng, không phải là quan hệ quản lý hành chính. Trong q trình
thực hiện hợp đồng này có thể phát sinh tranh chấp giữa hai bên khi một hoặc
hai bên vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Thứ hai, phân loại theo nội dung
Theo tiêu chí phân loại này thì có thể chia tranh chấp trong lĩnh vực
FDI thành 4 nhóm:
- Nhóm 1: Tranh chấp về góp vốn và định giá tài sản vốn góp
Vốn góp trong các cơng nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi là tài sản do
các thành viên góp vốn tạo thành và thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, đặc biệt là các doanh nghiệp liên
doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước (các tổ chức
kinh tế trong nước) thì đặc điểm nổi bật là sự khác biệt về quốc tịch của các
chủ thể là nhà đầu tư, nguồn vốn. Chính vì vậy mà sự phức tạp liên quan đến
thoả thuận góp vốn định giá tài sản sẽ gay gắt hơn. Tài sản do các thành viên
góp vào doanh nghiệp khơng phải do cá nhân thành viên tự định đoạt mà theo
sự thoả thuận của các thành viên phù hợp với pháp luật, điều lệ doanh nghiệp.
Nguyên nhân phát sinh tranh chấp có thể là khơng thực hiện đúng những
cam kết về góp vốn, góp vốn nhưng khơng ghi tên vào cơng ty hoặc có sự bất
15
đồng liên quan đến định giá tài sản góp vốn, nhất là những loại tài sản mà khơng
phải là tiền.
Ngồi ra, nhà đầu tư nước ngồi có thể gặp phải tranh chấp này trong
các hợp đồng hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư Việt Nam. Một bên trong
hợp đồng cũng có thể khơng tn thủ nghĩa vụ góp vốn phát sinh từ hợp đồng
dẫn đến tranh chấp xảy ra.
- Nhóm 2: Tranh chấp về chuyển nhượng vốn góp
Nhóm tranh chấp này thường gặp trong các doanh nghiệp liên doanh
giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư Việt Nam. Như phần trên đã phân
tích yếu tố khác biệt về chủ thể và nguồn gốc vốn đầu tư đã làm cho các tranh
chấp trong các doanh nghiệp liên doanh trở nên phức tạp hơn.
Doanh nghiệp liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngồi và nhà đầu tư trong
nước có thể tồn tại dưới hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh. Cả 3 hình thức tổ chức cơng ty này đều cho phép thành viên
cơng ty được quyền chuyển nhượng vốn góp nhưng theo trình tự, thủ tục, mức độ
khác nhau.
Tranh chấp xảy ra khi các bên vi phạm trình tự, thủ tục hoặc định giá
phần vốn góp khi chuyển nhượng.
- Nhóm 3: Tranh chấp liên quan đến quản trị doanh nghiệp
Vấn đề về quyền quản lý hay quản trị doanh nghiệp trong các doanh
nghiệp liên doanh là vấn đề rất phức tạp. Các doanh nghiệp liên doanh được
thừa nhận là có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam nên tham gia vào
các quan hệ dân sự, thương mại thông qua người đại diện của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp liên doanh, khi nhà đầu tư là tổ chức thì tổ chức cịn phải
có văn bản quy định về người đại diện của tổ chức tham gia vào liên doanh.
Trong doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi cũng có chế định này nếu như chủ
sở hữu doanh nghiệp không phải là một mà là nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
16
Quyền hạn hoạt động của những người đại diện này được quy định cụ thể
trong Điều lệ doanh nghiệp. Do đó, nếu Điều lệ doanh nghiệp khơng quy định
rõ về những vấn đề này thì sẽ gây khó khăn trong hoạt động của doanh nghiệp
khi khơng có sự nhất trí của những người đại diện của các nhà đầu tư, thường
là có quan hệ sở hữu khác đối với phần vốn góp vào doanh nghiệp liên doanh.
Ví dụ: các nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu đối với phần vốn góp của họ
vào liên doanh trong khi đó, đại diện bên nhà đầu tư Việt Nam chỉ là chủ sở
hữu hình thức đối với tài sản của nhà nước khi góp vào liên doanh.
Tranh chấp liên quan đến quyền quản trị doanh nghiệp như các bên
tranh giành quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp được quy định cụ thể
trong Điều lệ công ty, vi phạm quy định về trình tự, thủ tục, nội dung trong
cuộc họp của cơ quan quản lý như Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị...
- Nhóm 4: Các tranh chấp về phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro.
Tranh chấp này thường gặp trong các doanh nghiệp liên doanh hoặc
trong các hợp đồng hợp tác điều kiện (BCC). Quyền được chia lợi nhuận và
nghĩa vụ chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp vào doanh nghiệp liên doanh
hoặc thoả thuận hợp tác góp vốn trong hợp đồng BCC giữa nhà đầu tư nước
ngoài và nhà đầu tư trong nước. Tranh chấp xảy ra khi các bên vi phạm quy
định về phân chia lợi nhuận và rủi ro được thoả thuận trong Điều lệ doanh
nghiệp hoặc trong hợp đồng BCC.
Thứ ba, phân loại theo tính chất:
Theo tiêu chí phân loại này có thể chia nhóm các tranh chấp trong lĩnh
vực FDI thành 2 nhóm.
- Nhóm 1: Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng BCC, hợp đồng BTO,
hợp đồng BOT, hợp đồng BT.
Đây là các hợp đồng nhằm thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Hợp đồng BCC trong lĩnh vực FDI được ký kết giữa các nhà đầu tư nước
17