1
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THÚY
PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI KẾT HÔN
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.
Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm thông tin - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MÔI GIỚI KẾT HÔN CÓ YẾU
TỐ NƢỚC NGOÀI
6
1.1.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về pháp luật về Môi giới kết hôn
có yếu tố nước ngoài
6
1.1.1.
Khái niệm về pháp luật điều chỉnh quan hệ Môi giới kết hôn
có yếu tố nước ngoài
6
1.1.2.
Vai trò của hoạt động môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài
trong xã hội hiện đại
10
1.2.
Hoạt động môi giới kết hôn ở nước ngoài và ở Việt Nam
19
1.2.1.
Hoạt động môi giới kết hôn ở nước ngoài
19
1.2.1.1.
Môi giới kết hôn ở Hàn Quốc
19
1.2.1.2.
Môi giới kết hôn ở Ấn Độ
22
1.2.1.3.
Môi giới kết hôn ở Nhật Bản
22
1.2.1.4.
Môi giới kết hôn ở Trung Quốc
24
1.2.2.
Hoạt động môi giới kết hôn ở Việt Nam
26
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI KẾT
HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM VÀ Ở
NƢỚC NGOÀI
32
5
2.1.
Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến môi
giới kết hôn có yếu tố nước ngoài
32
2.1.1.
Quy định liên quan đến môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài
trong các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
32
2.1.2.
Quy định liên quan đến môi giới kết hôn trong pháp luật chuyên
ngành khác
39
2.1.2.1.
Pháp luật kinh doanh
39
2.1.2.2.
Pháp luật hành chính
40
2.1.3.
Điều ước quốc tế
44
2.2.
Pháp luật của một số nước trên thế giới về môi giới kết hôn
có yếu tố nước ngoài
45
2.2.1.
Luật quản lý các cơ sở môi giới kết hôn của Hàn Quốc
46
2.2.2.
Luật quy định về môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài năm
2005 của Hoa Kỳ
51
2.2.3.
Quy định về môi giới kết hôn có yết tố nước ngoài của
Trung Quốc
54
2.3.
Những hạn chế của pháp luật Việt Nam liên quan đến môi
giới kết hôn có yếu tố nước ngoài
57
2.3.1.
Các biện pháp đang áp dụng hiện nay
58
2.3.1.1.
Biện pháp quản lý hành chính - nhà nước
58
2.3.1.2.
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và văn hóa
truyền thống dân tộc về hôn nhân và gia đình
62
2.3.2.
Những điểm còn tồn tại của pháp luật Việt Nam liên quan
đến môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài
64
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI
KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
69
3.1.
Đánh giá thực trạng hoạt động môi giới kết hôn có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam
69
3.2.
Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan đến môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài
81
3.2.1.
Phương hướng chung
81
6
3.2.2.
Các giải pháp cụ thể
84
KẾT LUẬN
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
MGKH
: Môi giới kết hôn
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
8
Danh môc c¸c biÓu ®å
Sè
hiÖu
biÓu
®å
Tªn biÓu ®å
Trang
3.1
Tỷ lệ kết hôn của phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài
đến năm 2010 theo quốc gia và vùng lãnh thổ
69
3.2
Số liệu về phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài Loan
70
3.3
Số liệu về phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Hàn Quốc
71
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đã có từ lâu đời trong lịch
sử. Song chỉ đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, hiện tượng này
mới thực sự phổ biến và là xu thế tất yếu của xã hội trong bối cảnh hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là việc kết
hôn của phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài những năm gần đây diễn biến
phức tạp, có nhiều tiêu cực, không bảo đảm được nguyên tắc hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, đi ngược lại giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc.
Hình ảnh hàng chục, thậm chí hàng trăm cô gái Việt Nam đứng xếp
hàng để những người đàn ông Hàn Quốc, Đài Loan xem xét, lựa chọn như
những món hàng không còn là hiếm trên các trang báo của Việt Nam và nước
ngoài. Nhật báo Chosun, ngày 21/4/2006 có đăng bài viết "Các trinh nữ Việt
Nam đến Hàn Quốc, đất nước của hy vọng" của phóng viên Chae Sung Woo
trong đó hình ảnh minh họa là tấm ảnh chụp cảnh hai người đàn ông Hàn
Quốc với khoảng hơn mười cô gái Việt Nam rụt rè ngồi chờ "coi mắt", đau
xót thay khi dưới tấm ảnh là chú thích "các hoàng tử Hàn Quốc, xin hãy đưa
em về" [4]. Bài báo đã gây ra làn sóng phản đối mạnh mẽ ở cả Việt Nam và
Hàn Quốc, bởi những hình ảnh này không đơn giản là "nỗi đau về trách
nhiệm, mà đây còn là nỗi nhục hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới con mắt người
nước ngoài" [4].
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do sự "nở rộ"
của dịch vụ môi giới kết hôn (MGKH) trái pháp luật. Dịch vụ này hoạt động
dưới "muôn hình vạn trạng", thủ đoạn tinh vi, phức tạp rất khó kiểm soát. Tất
nhiên cũng có những dịch vụ MGKH hoạt động lành mạnh, cung cấp các dịch
10
vụ hữu ích như: giúp những người có nhu cầu kết hôn có cơ hội gặp gỡ, tiếp
xúc, tìm hiểu để tiến tới hôn nhân; hỗ trợ làm các thủ tục pháp lý liên quan
đến kết hôn có yếu tố nước ngoài,… nhưng con số này rất hiếm. Đã có không
ít những tổ chức, cá nhân lợi dụng danh nghĩa MGKH để hoạt động mua bán
phụ nữ hoặc tổ chức, môi giới mại dâm.
Do pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố
nước ngoài là hoạt động hợp pháp nên mặc dù các hoạt động này trong những
năm gần đây phát triển rất mạnh nhưng hoàn toàn tự phát và có nhiều tiêu
cực. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận lại vấn đề này: Thừa nhận hay không
thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài là hợp pháp? Xác định rõ
quan điểm về vấn đề này mới có thể xây dựng khung pháp lý phù hợp, kiểm
soát chặt chẽ hoạt động MGKH bằng công cụ pháp luật.
Từ cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, việc lựa chọn và nghiên cứu
đề tài "Pháp luật về môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài" tác giả mong
muốn góp phần phản ánh một cách đầy đủ và toàn diện về thực trạng các quy
định của pháp luật Việt Nam về MGKH có yếu tố nước ngoài; phân tích kinh
nghiệm về quản lý MGKH quốc tế của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra
giải pháp cho vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu của Đề tài
Ở Việt Nam và trên thế giới vấn đề hôn nhân và gia đình (HN&GĐ)
có yếu tố nước ngoài được nhiều nhà luật gia quan tâm nghiên cứu dưới các
góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các công trình
này chỉ tập trung nghiên cứu về: quan hệ kết hôn, quan hệ ly hôn, quan hệ gia
đình, vấn đề nuôi con nuôi, có yếu tố nước ngoài như: Nguyễn Hồng Bắc
(2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Luận án tiến sỹ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội; Nông Quốc Bình (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Trường
11
Đại học Luật Hà Nội; Lê Thị Thu (2007), Quan hệ kết hôn có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận văn thạc sỹ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội,…
Hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài đã trở thành vấn đề "nóng",
mang đậm tính thời sự hiện nay. Thực trạng hoạt động này được phản ánh rất
nhiều trên báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như trong
các hội thảo chuyên đề về bảo vệ quyền phụ nữ hay các hội thảo về HN&GĐ
có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các hoạt động này chỉ dừng ở việc nêu vấn
đề thông qua các vụ việc đơn lẻ, chưa thực sự nghiên cứu toàn diện, chuyên
sâu về vấn đề này. Có thể nói, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện, hệ thống và cụ thể về thực trạng hoạt động MGKH có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam cũng như quy định của pháp luật Việt Nam về
MGKH có yếu tố nước ngoài.
Trước tình hình đó, việc lựa chọn nghiên cứu các quy định của pháp
luật Việt Nam về MGKH có yếu tố nước ngoài, tác giả mong muốn góp phần
làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các
quy định pháp luật về hoạt động này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá một cách toàn diện thực
trạng pháp luật Việt Nam về MGKH có yếu tố nước ngoài, từ đó đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật về MGKH có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu này, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về MGKH
có yếu tố nước ngoài.
12
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về MGKH có yếu
tố nước ngoài.
- Phân tích kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về quản lý môi
giới hôn nhân quốc tế.
- Đánh giá một cách toàn diện về thực trạng hoạt động MGKH có yếu
tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về quản lý hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: pháp luật về MGKH có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam và của một số nước trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về
MGKH có yếu tố nước ngoài; nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế
giới về quản lý môi giới hôn nhân quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của triết học Mác- Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, cũng như quan điểm đường lối
của Đảng và Nhà nước về chính sách pháp luật trong lĩnh vực HN&GĐ có
yếu tố nước ngoài.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
như: thống kê, phân tích, tổng hợp, luật học so sánh,
13
6. Ý nghĩa và những đóng góp mới của ¬uận văn
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu đã đề ra, luận văn có
một số đóng góp mới sau đây:
- Phân tích lý luận cơ bản về MGKH có yếu tố nước ngoài.
- Đánh giá tổng quát thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về
MGKH có yếu tố nước ngoài.
- Nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới về quản lý hoạt
động môi giới hôn nhân quốc tế.
- Kiến nghị giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quản lý hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài.
Luận văn mong muốn góp phần trong việc hoàn thiện các quy định
pháp luật nhằm quản lý, kiểm soát chặt chẽ hoạt động MGKH có yếu tố nước
ngoài, đáp ứng nhu cầu tất yếu của xã hội Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở pháp lý về môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Các quy định của pháp luật về môi giới kết hôn có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam và ở nước ngoài.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về quản
lý hoạt động môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài.
14
Chương 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ MÔI GIỚI KẾT HÔN
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI KẾT
HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI.
1.1.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh quan hệ Môi giới kết hôn có
yếu tố nƣớc ngoài
Kết hôn là quyền cơ bản của con người, pháp luật các quốc gia đều ghi
nhận: mỗi người đều có quyền lựa chọn, quyết định hạnh phúc và người bạn
đời riêng cho mình. Quyền tự kết hôn thể hiện ở chỗ con người có quyền tự
do kết hôn với người cùng dân tộc hoặc với người không cùng dân tộc; với
người cùng tôn giáo hoặc không cùng tôn giáo; với người cùng quốc tịch hoặc
không cùng quốc tịch. Pháp luật các nước đều tôn trọng và bảo vệ quyền tự
do kết hôn của con người.
Để hỗ trợ, tạo cầu nối cho con người thực hiện quyền kết hôn một cách
trọn vẹn, đầy đủ hơn; giúp những người có nhu cầu kết hôn có nhiều sự lựa
chọn cũng như có đầy đủ thông tin trước khi quyết định lựa chọn đối tượng để
kết hôn cho mình thì không thể thiếu vai trò của MGKH.
Vậy, thế nào là MGKH? Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết chúng ta
cùng tìm hiểu nghĩa của 02 từ: "mai mối" và "môi giới". Theo Từ điển tiếng
Việt, "mai mối" và "môi giới" đều có nghĩa là Người trung gian [36]. Tuy
nhiên, mai mối là hoạt động trung gian cho hai bên trai gái gặp gỡ với mục
đích tiến tới hôn nhân. Cũng diễn tả về hành vi này còn có từ "làm mai" và
"làm mối". Làm mai là "đứng trung gian trong việc hôn phối". Còn làm mối là
"đứng giữa làm môi giới cho hai bên trai gái" [36]. Ngoài ra, còn có diễn giải
khác đó là: Làm mối hay còn gọi là làm mai là việc đóng vai trò trung gian để
thu xếp nhằm tiến tới một cuộc hôn nhân. Người làm mối gọi là ông mối, bà
15
mối hay từ cổ là băng nhân. Làm mối là khâu quan trọng trong quá trình kết
hôn theo phong tục Việt Nam thời phong kiến và có nguồn gốc từ văn hóa
Trung Quốc [48].
Khác với "mai mối", "môi giới" thường được dùng nhiều trong hoạt
động thương mại. Môi giới là "Người làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc,
giao thiệp với nhau" [47]. Người môi giới là "loại thương nhân trung gian
giữa người mua và người bán, được người bán hoặc người mua ủy thác tiến
hành bán hoặc mua hàng hóa hay dịch vụ" [48].
Còn Kết hôn là viÖc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Từ các khái niệm trên, tác giả đưa ra định nghĩa về MGKH: MGKH là
một loại hình dịch vụ, trong đó Người cung cấp dịch vụ MGKH đóng vai trò
trung gian giới thiệu cho những người có nhu cầu tìm kiếm đối tượng kết hôn
gặp gỡ, tìm hiểu nhau tiến tới hôn nhân. Khách hàng phải trả phí khi tham gia
dịch vụ này.
MGKH có những đặc điểm chính sau:
Là hoạt động làm trung gian tạo điều kiện cho hai bên nam giới và
phụ nữ tiếp xúc, tìm hiểu nhau.
Người MGKH có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Người sử dụng dịch vụ MGKH là cá nhân.
Mục đích của dịch vụ MGKH là tiến tới kết hôn.
Hiện nay, MGKH nói chung và MGKH với người nước ngoài luôn có
tính hai mặt. Mặt tích cực là tạo điều kiện cho hai bên có điều kiện làm quen,
tiếp xúc và tìm hiểu nhân thân của nhau. Đó cũng là những yếu tố cần thiết để
hình thành giai đoạn tiền hôn nhân, nhất là trong xã hội công nghiệp. Nhiều
người đã tìm được bạn đời qua những hình ảnh và thông tin của các dịch vụ
môi giới. Nhưng tính trung thực của các loại thông tin này (hình ảnh, số
liệu, ) không phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Mặt trái của MGKH có yếu tố
16
nước ngoài là áp đặt, cung cấp thông tin sai lệch và kiếm lời. Họ tìm mọi cách
để thành công với mục đích kiếm được tiền, bất kể cả việc cung cấp thông tin
sai, lừa dối đôi bên dẫn đến hậu quả khôn lường, làm nhiều gia đình tan vỡ,
trong đó chịu thiệt thòi hơn cả là người phụ nữ. Nhiều vấn đề thuộc hành vi,
văn hóa, lối sống không được cung cấp đầy đủ và trung thực. Mặt khác,
chuyện "kết tóc xe duyên" của đôi bên trong trường hợp này cần có cơ quan tư
vấn chuyên nghiệp và cần tính đến những rủi ro trước khi đi đến quyết định.
Chính vì vậy, cần có các tổ chức MGKH hợp pháp, đáng tin cậy và
nguyên tắc đầu tiên phải là cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để khách hàng
có cơ sở tin cậy cùng với gia đình đưa ra quyết định đúng đắn cho cuộc hôn
nhân của mình.
Vậy, thế nào là một dịch vụ MGKH có yếu tố nước ngoài đáng tin cậy?
Không có câu trả lời chính xác tuyệt đối cho vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn có
những đặc điểm chung nhất để nhận biết một dịch vụ MGKH có yếu tố nước
ngoài đáng tin cậy, đó là: Dịch vụ này phải được cung cấp bởi một công ty, tổ
chức có đăng ký hợp pháp theo quy định của nước sở tại nơi công ty, tổ chức
đó có trụ sở; cam kết chịu trách nhiệm về tính trung thực, đầy đủ, toàn vẹn
của thông tin cung cấp; tuyệt đối giữ bí mật thông tin của khách hàng…
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật chính là công cụ hữu hiệu nhất
để quản lý, định hướng xã hội. Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề
MGKH có yếu tố nước ngoài, tóm lược lại có hai luồng quan điểm chính: Một
là, tuyệt đối cấm hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài dưới mọi hình thức.
Hai là, thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài là hoạt động hợp
pháp và có cơ chế phù hợp để quản lý chặt chẽ hoạt động này. Hiện quan
điểm thứ hai đang được đại đa số các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý ủng hộ,
tác giả cũng nhất trí với quan điểm đó.
Theo quy định tại Điều 758, Bộ luật Dân sự năm 2005, quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài là: (i) Ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; (ii) giữa các
17
bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài;
(iii) tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [31].
Căn cứ vào định nghĩa về MGKH cũng như các đặc điểm của MGKH,
tác giả đưa ra định nghĩa về quan hệ MGKH có yếu tố nước ngoài như sau: (i)
Ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người của nước đó nhưng định cư ở nước ngoài; (ii) giữa các bên tham gia là
công dân, tổ chức của một nước nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài; (iii) tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Trên cơ sở phân tích các khái niệm về MGKH và quan hệ MGKH có
yếu tố nước ngoài, tác giả đưa ra định nghĩa về Pháp luật điều chỉnh quan hệ
MGKH có yếu tố nước ngoài như sau: Pháp luật điều chỉnh quan hệ MGKH
có yếu tố nước ngoài là tổng hợp các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh quan hệ MGKH giữa các bên chủ thể khác quốc tịch; sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ MGKH ở nước ngoài;
hoặc tài sản liên quan tới quan hệ MGKH ở nước ngoài.
Hiện nay, Việt Nam chưa có bất kỳ đạo luật chuyên biệt nào quy định
về MGKH nói chung và MGKH có yếu tố nước ngoài nói riêng. Hoạt động
MGKH nhằm mục đích kiếm lời bị nghiêm cấm dưới mọi hình thức. Pháp
luật Việt Nam chỉ khuyến khích các hoạt động hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước
ngoài hoạt động phi lợi nhuận để tư vấn, hướng dẫn các hoạt động liên quan
đến hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Hôn nhân có yếu tố nước ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay và là một vấn đề bình thường trong quá trình phát triển,
giao lưu và hội nhập kinh tế, văn hóa. Và MGKH chính là nhân tố góp phần
thúc đẩy hôn nhân có yếu tố nước ngoài phát triển một lành mạnh hơn.
Trong thế giới toàn cầu hóa, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học,
công nghệ đã giúp cho tất cả nhân loại như cùng sống dưới một mái nhà
18
chung, khoảng cách địa lý bị thu hẹp lại nhưng mặt trái của tiến bộ khoa học,
công nghệ lại chính là biến con người ngày càng lệ thuộc nhiều vào máy móc,
tất cả mọi hoạt động của con người gần như là một chu trình khép kín.
MGKH góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như: giải quyết sự mất cân
bằng về giới, tạo điều kiện thuận lợi cho những cuộc di dân từ nơi có điều
kiện kinh tế- xã hội chưa phát triển đến những vùng kinh tế - xã hội phát triển
hơn; thúc đẩy giao lưu giữa các nền văn hóa; tăng cường hội nhập kinh tế
quốc tế.
Từ những cơ sở lý luận về MGKH có yếu tố nước ngoài, thiết nghĩ, đã
đến lúc các nhà lập pháp Việt Nam cần xem xét lại việc nên hay không nên
thừa nhận hoạt động MGKH có yếu tố nước ngoài là hoạt động hợp pháp để
từ đó ban hành quy định pháp lý phù hợp để điều chỉnh hoạt động này.
1.1.2. Vai trò của Môi giới kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài trong xã
hội hiện đại
Hôn nhân là hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm từ khi hình thành xã
hội loài người. Không có tộc người nào trên thế giới lại không coi trọng vấn
đề HN&GĐ. Hôn nhân không chỉ thuần túy là sự kết hợp giới tính mà còn
qua hôn nhân thể hiện những sắc thái văn hóa của một tộc người. Hôn nhân
có vai trò quan trọng tái sản xuất dân cư và góp phần cải thiện chất lượng
cuộc sống.
Hôn nhân xuyên quốc gia hay hôn nhân có yếu tố nước ngoài xét trên
bình diện thế giới và ngay cả ở Việt Nam không phải là một hiện tượng mới.
Hiện tượng này xuất hiện rất sớm, có lẽ cùng với quá trình di dân làm cho
tình trạng sống xen kẽ giữa các thành viên của các tộc người tăng dẫn đến sự
giao lưu văn hóa tộc người và dẫn đến "hôn nhân ngoại tộc" mà quá trình di
dân lại xảy ra rất sớm cách ngày nay hàng chục ngàn năm. Trong lịch sử Việt
Nam cũng đã từng xuất hiện những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài như
trường hợp Huyền Trân công chúa được gả cho vua Chăm để được nhận hai
châu Ô, Rí thuộc Chămpa. Chúng ta cũng đã biết đến cuộc hôn nhân của công
19
chúa Ngọc Vạn ở phía Nam để chúa Nguyễn có điều kiện mở rộng vùng lãnh
thổ. Hay như cuộc di dân của người Hoa do Trần Thượng Xuyên, Dương
Ngạn Địch, Hoàng Tiến dẫn đầu đã đến vùng Đồng Nai Gia Định vào năm
1679 đã dẫn đến hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở đồng bằng sông Cửu Long
giữa người Hoa với cư dân bản địa, cụ thể giữa người Hoa với người Việt và
người Khmer - lớp cư dân đã có mặt trước đó. Đây có thể được coi là một
trong những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài tương đối đông đảo xảy ra ở
Việt Nam cho đến thời điểm đó [26].
Ngày nay, hôn nhân có yếu tố nước ngoài được hình thành theo hai
cách: đôi nam nữ tự tìm hiểu dẫn đến hôn nhân hoặc thông qua trung gian giới
thiệu. Trong trường hợp thứ nhất đó là mối quan hệ hôn nhân tự nguyện cao
và xuất phát từ cơ sở tình cảm; hiểu biết lẫn nhau trên các vị trí công tác, học
tập. Trường hợp thứ hai thông qua trung gian giới thiệu. Trường hợp này chia
làm hai loại: Thứ nhất, thông qua sự giới thiệu của người thân, bạn bè để hai
bên gặp gỡ, tìm hiểu nhau. Ở đây, tuy đôi bên nam nữ không có sự quen biết
từ trước mà qua người thứ ba. Nhưng quan hệ hôn nhân ở đây vẫn được xây
dựng trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ tình yêu, sự hiểu biết lẫn nhau sau quá
trình gặp gỡ, tìm hiểu đi đến quyết định kết hôn. Thứ hai, thông qua các hình
thức MGKH: trung tâm/công ty môi giới hôn nhân hoặc cá nhân thực hiện
dịch vụ MGKH. Quyết định đi đến hôn nhân của đôi nam nữ trong trường
hợp này, tất nhiên vẫn xuất phát trên cơ sở tự nguyện của cả hai bên sau quá
trình gặp gỡ, tìm hiểu nhau. Tuy nhiên, không ít tổ chức, cá nhân hoạt động
MGKH thiếu trách nhiệm, chỉ quan tâm đến lợi nhuận, cung cấp thiếu thông
tin thậm chí thông tin sai lệch về đối tượng kết hôn, thời gian cho đối tượng
tìm hiểu nhau lại rất ngắn nên đã dẫn đến những hệ lụy đáng tiếc của thời kỳ
"hậu kết hôn". Ngoài ra, còn có trường hợp lợi dụng hình thức MGKH trá
hình để mua bán phụ nữ; tổ chức, môi giới mại dâm gây hậu quả nghiêm trọng.
Để hiểu sâu hơn về vai trò của MGKH có yếu tố nước ngoài, chúng ta
cùng tìm hiểu về lịch sử phát triển của nghề mai mối ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới.