Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 139 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








PHÙNG VĂN THÀNH




VẤN ĐỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
THEO PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







PHÙNG VĂN THÀNH





VẤN ĐỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
THEO PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI




Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS Lê Văn Bính


Hà Nội – 2013




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Phùng Văn Thành

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH, CHÍNH SÁCH VÀ
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc bảo vệ cạnh tranh 8

1.1.1.

Khái niệm cạnh tranh 8

1.1.2.

Những đặc trưng cơ bản của cạnh tranh 9

1.1.3.

Ý nghĩa của cạnh tranh 12

1.1.4.

Các hình thức tồn tại của cạnh tranh 15

1.1.5.

Môi trường cạnh tranh lành mạnh cần được tạo lập và bảo vệ 17


1.2. Chính sách và pháp luật cạnh tranh 18

1.2.1.

Chính sách cạnh tranh 18

1.2.2.

Pháp luật cạnh tranh 20

1.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 25

1.3.1.

Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 25

1.3.2.

Yếu tố cơ bản của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 31

1.3.3.

Phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 36

1.3.4 Các nhân tố thúc đẩy thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 45

1.4. Khái quát các vấn đề pháp lý về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 45

1.4.1.


Tác động của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và vấn đề pháp lý đặt ra 45

1.4.2 Mục tiêu chung về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và việc giải
quyết về mặt chính sách trên bình diện quốc tế

49

1.4.3 Quy phạm xung đột và việc giải quyết xung đột pháp luật trong kiểm soát
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

60


Chương 2: VẤN ĐỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
THEO PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI

2.1. Những nội dung pháp lý cơ bản trong quy định kiểm soát thỏa thuận 63

hạn chế cạnh tranh theo pháp luật nước ngoài
2.2. Xu hướng điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 79

2.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật của một số nước 83

2.3.1.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ 83

2.3.2.


Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Thụy Sỹ 92

2.3.3.

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh Nhật Bản 95


Chương 3: THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH THEO PHÁP
LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN


3.1. Khái quát những vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam

102

3.1.1.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh 102

3.1.2.

Quy định và các dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 104

3.1.3.

Quy định cấm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 108

3.1.4.


Quy định về miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 110

3.1.5.

Hình thức và mức độ xử lý đối với vi phạm 110

3.1.6.

Cơ quan tiến hành tố tụng và thẩm quyền 112

3.2. Vấn đề hợp tác và cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh

113

3.3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định kiểm soát thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam

114

3.3.1.

Liên quan đến cách thức quy định 115

3.3.2.

Định hướng sửa đổi quy định cấm 116

3.3.3.


Định hướng sửa đổi quy định cho hưởng miễn trừ 118

3.3.4.

Định hướng sửa đổi và bổ sung quy định về xử lý vi phạm 119

3.3.5.

Vấn đề áp dụng chính sách khoan hồng 122

3.3.6.

Vấn đề trách nhiệm cá nhân và áp dụng chế tài hình sự 123


KẾT LUẬN 124


TÀI LIỆU THAM KHẢO 127


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AANZFTA Hiệp định thương mại tự do giữa Asean, Úc và Niu Di-lân (Asean,
Australia and New Zealand Free Trade Agreement)
ACCC Ủy ban cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng của Úc (Australian
Competition and Consumer Commission)
ACFTA Hiệp định thương mại tự do giữa Asean và Trung Quốc (Asean and
China Free Trade Agreement)
AEC Cộng đồng kinh tế Asean (Asean Economic Community)
AFTA Hiệp định thương mại tự do Asean (Asean Free Trade Agreement)

AIFTA Hiệp định thương mại tự do giữa Asean và Ấn Độ (Asean and India
Free Trade Agreement)
AJCEP Hiệp định đối tác toàn diện giữa Asean và Nhật Bản (Agreement for
comprehensive economic partnership between Asean and Japan)
AKFTA Hiệp định thương mại tự do giữa Asean và Hàn Quốc (Asean and
Korea Free Trade Agreement)
APEC Diễn đàn Hợp tác kinh tế các nước Châu Á – Thái Bình Dương
(Asia – Pacific Economic Cooperation)
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian
Nations)
BTA Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
(Vietnam - US Bilateral Trade Agreement)
BIT Hiệp định đầu tư song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
COMCO Ủy ban cạnh tranh Thụy Sỹ (Swiss Competition Commission)
CPDG Nhóm công tác về chính sách cạnh tranh và nới lỏng cơ chế của APEC
(APEC Competition Policy and Deregulation Group)
EC Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European Economic Community)
ECN Mạng lưới cạnh tranh Châu Âu (European Competition Network)
EU Khối các nước Châu Âu (European Union)
FBI Cục Điều tra Liên bang Mỹ (Federal Bureau of Investigation)

FTC Ủy ban thương mại Liên bang Mỹ (Federal Trade Commission)
FTA Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement)
HCCT Hạn chế cạnh tranh
ICN Mạng lưới cạnh tranh quốc tế (International Competition Network)
JFTC Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật (Japan Fair Trade Commission)
NCA Cơ quan cạnh tranh Hà Lan (Netherlands Competition Authority)
OECD Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (Organization for Economic
Co-operation and Development)
PCA Hiệp định Hợp tác và đối tác giữa Việt Nam và EU (Vietnam – EU

partnership and cooperation agreement)
QLCT Quản lý cạnh tranh
RTA Hiệp định khu vực tự do (Regional Trade Agreement)
SEOM Hội nghị quan chức kinh tế cao cấp ASEAN
SNG Cộng đồng các quốc gia độc lập
TFEU Hiệp ước về hoạt động Liên minh Châu Âu (Treaty on the
functioning of the European Union)
TIFA Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư Việt Nam- Hoa Kỳ
TTP Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans
– Pacific Strategic Economic Partnership)
UNCTAD Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (United
Nations Conference on Trade and Development)
WB Ngân hàng thế giới (World Bank)
WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Mô phỏng sơ lược các dạng hành vi thỏa thuận HCCT cơ
bản 36
Biểu đồ 2.2 Xu hướng tăng phạt tù đối với cá nhân trong thỏa thuận các-
ten 80
Bảng 2.1 Xu hướng tăng mức phạt đối với cá nhân vi phạm pháp luật về
thỏa thuận HCCT của một số quốc gia trong giai đoạn năm 2000
– 2009 81
Bảng 2.2 Xu hướng thay đổi mức phạt tiền đối với doanh nghiệp vi phạm
pháp luật về thỏa thuận HCCT ở một số quốc gia giai đoạn năm
2000 – 2009 82
Bảng 2.3 Quy định về cách tính tiền phạt đối với vi phạm pháp luật về thỏa
thuận HCCT theo pháp luật cạnh tranh của Nhật Bản 98












1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự đa dạng của các hình thái kinh tế là
sự phong phú trong các hình thức hợp đồng, thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh. Trong các thỏa thuận đó có những hình thức gây hạn chế cạnh tranh không
chỉ ảnh hưởng và tác động tiêu cực đến nền kinh tế của một quốc gia mà còn tác
động tiêu cực đến quá trình tự do hoá thương mại thế giới.
Bản chất của cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi
thế hơn so với đối thủ. Tuy nhiên, ranh giới của những hành vi kinh doanh có thể
chấp nhận được sẽ bị vượt qua nếu các doanh nghiệp tìm mọi cách để hạn chế cạnh
tranh không phải dựa vào các lợi thế mà họ xây dựng được, mà bằng cách cấu kết
với nhau. Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith trong cuốn sách Nghiên cứu bản
chất và nguyên nhân sự giàu có của các quốc gia viết năm 1776 đã phát hiện ra
rằng những đối thủ kinh doanh cùng ngành hiếm khi gặp nhau, thậm chí để giải trí
hay vui vẻ, nhưng khi họ ngồi lại với nhau thì kết thúc cuộc đối thoại bao giờ cũng
là âm mưu chống lại công chúng hoặc một số thủ đoạn tăng giá.
Hiện tượng kinh tế nêu trên được chuyển hóa vào pháp luật cạnh tranh của
các quốc gia trên thế giới dưới thuật ngữ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đó là hành
vi cấu kết hay thoả thuận giữa các chủ thể kinh doanh nhằm làm giảm, làm sai lệch
hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường.

Kể từ khi pháp luật cạnh tranh ra đời, các cơ quan cạnh tranh trên thế giới
đều thống nhất một quan điểm cho rằng thỏa thuận HCCT, đặc biệt thỏa thuận các-
ten, vi phạm trực tiếp các nguyên tắc cạnh tranh và được thừa nhận là một trong
những hành vi phản cạnh tranh có tác động nghiêm trọng nhất. Nó được coi là căn
bệnh ung thư của nền kinh tế thị trường, bởi bằng cách hạn chế cạnh tranh nó đã
gây tác hại nghiêm trọng cho nền kinh tế và người tiêu dùng. Hầu hết các nước trên
thế giới, bên cạnh việc nhìn nhận thỏa thuận HCCT ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu
dùng cá nhân, tác động tiêu cực đến thương mại nội địa, còn cho rằng có ảnh hưởng
tiêu cực đến kinh tế thế giới, ngăn cản quá trình tự do hoá thương mại.

2
Thực tiễn cho thấy thoả thuận HCCT xuất hiện từ rất lâu, trong mọi ngành
hay lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, đồng thời xuất hiện ở khắp các quốc gia từ
nước có nền kinh tế phát triển tiên tiến hiện đại cho đến những nước đang phát triển
hay kém phát triển.
Do tính chất nguy hiểm và khả năng tác động tiêu cực nên kiểm soát thoả
thuận HCCT là mục tiêu hàng đầu trong chính sách cạnh tranh của nhiều quốc gia
nhằm (i) duy trì, bảo vệ cạnh tranh tự do và thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả, (ii) bảo vệ
lợi ích người tiêu dùng, (iii) bảo vệ tổng phúc lợi xã hội và sự phát triển kinh tế bền
vững, thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Thoả thuận HCCT đã được pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới quy
định từ rất lâu như tại Mỹ từ năm 1890, tại Nhật từ năm 1947 hay tại Châu Âu từ
năm 1957. Hiện nay, thoả thuận HCCT được quy định trong pháp luật cạnh tranh
của hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo xu thế chung và giống như ở nhiều nước, Luật cạnh tranh của Việt
Nam được ban hành năm 2004 trong đó bao gồm các quy định kiểm soát thoả thuận
HCCT. Tuy nhiên, những quy định này còn nhiều bất cập và chưa hoàn thiện. Vì
vậy, nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề thoả thuận HCCT theo pháp luật nước
ngoài để có cơ sở thực hiện việc phân tích so sánh nhằm tìm ra những điểm tiến bộ
để từ đó đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát thoả thuận

HCCT của Việt Nam là rất cần thiết. Vì lý do đó nên tôi quyết định chọn nghiên
cứu đề tài "Vấn đề thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật nước ngoài” làm
luận văn tốt nghiệp.
Đề tài đi sâu nghiên cứu để trả lời những câu hỏi gồm thoả thuận HCCT là
gì, có tác hại hay tác động tiêu cực gì, vì sao phải kiểm soát và việc kiểm soát như
thế nào, thực tiễn quy định của pháp luật nước ngoài ra sao, cơ sở lý luận và bài học
kinh nghiệm gì cho Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên thế giới, mặc dù có bề dày phát triển song pháp luật cạnh tranh chỉ có
những bước đột phá thực sự từ những năm 70 của thế kỷ trước. Vấn đề cạnh tranh,

3
chính sách và luật cạnh tranh đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ trong những
công trình của nhiều nhà nghiên cứu, thậm chí các tổ chức trong và ngoài nước khác
nhau. Thoả thuận HCCT là một phần nội dung trong các nghiên cứu đó.
Ở phạm vi trong nước, trước khi Luật cạnh tranh được ban hành năm 2004,
đã có một số công trình nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh trong đó bao hàm vấn
đề thỏa thuận HCCT. Có thể kể đến Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất
hợp pháp và kiểm soát độc quyền của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp năm 1996; Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển
sang kinh tế thị trường ở Việt Nam của PGS.TS. Nguyễn Như Phát – ThS. Bùi
Nguyên Khánh được Nhà xuất bản Công an nhân dân phát hành năm 2001; Cạnh
tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS. Nguyễn
Như Phát và PGS.TS.Trần Đình Hảo được Nhà xuất bản Công an Nhân dân phát
hành năm 2001; Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền kinh doanh của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương năm
2002; Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam của TS. Đặng Vũ Huân năm 2004.
Sau khi được ban hành đã có khá nhiều nghiên cứu hoặc bình luận về Luật
cạnh tranh, như Tiêu chí đánh giá tính bất hợp pháp của các-ten trong Luật cạnh

tranh Hoa Kỳ, Cộng đồng Châu Âu, Nhật Bản và một số bình luận về Luật cạnh
tranh của Việt Nam của Nguyễn Văn Cương được Nhà xuất bản Tư pháp phát hành
năm 2004; Tìm hiểu về Luật Cạnh tranh của Trần Minh Sơn năm 2005; Bình luận
khoa học Luật Cạnh tranh của TS. Lê Hoàng Oanh năm 2005; Pháp luật cạnh tranh
tại Việt Nam của PGS.TS. Lê Danh Vĩnh được Nhà xuất bản Tư pháp phát hành
năm 2006; Báo cáo rà soát các quy định của pháp luật cạnh tranh của Việt Nam
của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương, năm 2012. Ngoài ra, cũng có một số
công trình khoa học nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh được đăng ở một số báo,
tạp chí chuyên ngành.
Tuy nhiên, các công trình trên đây cũng mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
các quy định của pháp luật cạnh tranh nói chung, về cạnh tranh không lành mạnh và

4
chống HCCT trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nói riêng chứ chưa phân tích,
đánh giá chuyên sâu về những quy định của pháp luật và thực tiễn các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh trong khi về vấn đề này có những đặc thù riêng rất cần được
nghiên cứu chi tiết, cụ thể.
Ở phạm vi ngoài nước, các nghiên cứu liên quan đến chính sách và pháp luật
cạnh tranh nói chung, và thỏa thuận HCCT nói riêng rất phong phú và đa dạng,
được thực hiện bởi nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau. Một trong những công trình
được biết đến rộng rãi hiện nay trên thế giới là Chính sách cạnh tranh, Lý thuyết và
thực tiễn (Competition Policy, Theory and Practice) của tác giả Massimo Motta do
Cambridge University Press phát hành năm 2004. Ngoài ra, còn nhiều công trình
nghiên cứu công phu khác như Luật chống độc quyền và Kinh tế (Antitrust law and
Economics) của nhóm ba tác giả Ernest Gellhorn, William E. Kovacis, Stephen
Calkings do Thomson West phát hành năm 2004 (tái bản lần 5), Chính sách cạnh
tranh và pháp luật chống độc quyền quốc tế (International antitrust law and policy)
do Viện nghiên cứu pháp luật luật cạnh tranh thuộc Đại học Fordham của Hoa Kỳ
thực hiện và phát hành năm 2008, Pháp luật cạnh tranh Châu Âu (EC Competition
Law) của nhóm tác giả Joanna Goyder, Albertina Albors-llorens được Nhà xuất bản

Oxford University Press phát hành năm 2009. Vấn đề pháp luật cạnh tranh bao gồm
thỏa thuận HCCT cũng được các tổ chức như UNCTAD, OECD, WTO, APEC,
ASEAN và các diễn đàn kinh tế khác nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
Mặc dù số lượng các nghiên cứu đề cập tới vấn đề thỏa thuận HCCT không ít
nhưng xét trên góc độ và theo hướng nghiên cứu của đề tài thì không có công trình
nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện và tổng thể vấn đề thoả thuận HCCT ở cả
góc độ lý luận và quy định pháp lý giống như những nội dung nghiên cứu trong đề
tài luận văn. Đặc biệt, tại Việt Nam đề tài luận văn còn khá mới mẻ vì chưa có một
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề thoả thuận HCCT
theo pháp luật nước ngoài để từ đó đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về thoả thuận HCCT của Việt Nam.


5
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vấn đề cạnh tranh, chính sách
và luật cạnh tranh trong đó bao gồm thoả thuận HCCT đang ngày càng được quan
tâm nghiên cứu nhiều hơn. Pháp luật cạnh tranh cũng đã được đưa vào giảng dạy tại
nhiều trường đại học trong cả nước. Vì vậy, nội dung và kết quả nghiên cứu trong
đề tài luận văn trước hết là một bức tranh toàn diện và tổng thể dưới góc độ lý luận
về cạnh tranh, chính sách và pháp luật cạnh tranh trong đó bao gồm thoả thuận
HCCT làm nguồn tài liệu tham khảo và học tập cho các học giả, các nhà nghiên
cứu, các bạn sinh viên và cộng đồng. Bên cạnh đó đề tài luận văn còn đi sâu nghiên
cứu thực tiễn các quy định kiểm soát thoả thuận HCCT theo pháp luật nước ngoài
nhằm đánh giá và thấy được những mặt tiến bộ hay điểm hạn chế trong mối liên hệ
so sánh, đối chiếu với thực tiễn các quy định của Việt Nam để từ đó đưa ra định
hướng và giải pháp sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử có dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu gồm phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp

với các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và đối chiếu, tổng hợp, tham
vấn để làm sáng tỏ từng nội dung cụ thể. Trong số đó, phương pháp so sánh và
đối chiếu được sử dụng phổ biến hơn. Trên cơ sở phương pháp nghiên cứu nêu trên,
các tài liệu liên quan đến đề tài luận văn được thu thập để rà soát, phân tích và dẫn
làm nội dung tham khảo. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu
trước đây được tổng hợp và kế thừa về mặt nội dung. Các quan điểm, chính sách
của Đảng và nhà nước được phân tích và vận dụng làm cơ sở định hướng.
5. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là nhằm làm sáng tỏ vấn đề thoả
thuận HCCT ở cả góc độ lý luận và thực tiễn quy định theo pháp luật cạnh tranh
nước ngoài trong mối liên hệ so sánh để từ đó đưa ra định hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT của Việt Nam.

6
Để đạt được mục đích đó, đề tài luận văn lần lượt giải quyết từng mục tiêu cụ
thể gồm (i) nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn cạnh tranh, chính sách và pháp luật cạnh
tranh trong đó bao gồm thoả thuận HCCT dưới góc độ lý luận, (ii) nghiên cứu thực
tiễn các quy định kiểm soát thoả thuận HCCT theo pháp luật nước ngoài, và (iii)
nghiên cứu các quy định kiểm soát thỏa thuận HCCT theo pháp luật cạnh tranh Việt
Nam trong mối liên hệ phân tích so sánh với pháp luật nước ngoài.
Từ các kết quả nghiên cứu cụ thể, luận văn đưa ra những định hướng và giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT của Việt Nam.
Đề thực hiện những mục tiêu trên, luận văn trước hết tập trung nghiên cứu
một cách toàn diện nội dung và các vấn đề liên quan đến cạnh tranh, chính sách và
luật cạnh tranh trong đó có vấn đề thoả thuận HCCT. Tiếp đó, vấn đề thoả thuận
HCCT được nghiên cứu một cách tổng thể về mặt lý luận và đặc biệt là tác động
của nó đến sự vận hành của nền kinh tế để từ đó làm sáng tỏ lý do đặt mục tiêu
kiểm soát thoả thuận HCCT trong chính sách và luật cạnh tranh của nhiều quốc gia
trong đó có Việt Nam. Sau khi nghiên cứu dưới góc độ lý luận, luận văn đi sâu
nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến thoả thuận HCCT theo pháp luật nước

ngoài, trong đó dẫn chứng các quy định kiểm soát thỏa thuận HCCT của một số
quốc gia tiêu biểu gồm Mỹ, Nhật Bản và một đại diện của Châu Âu (Thụy Sỹ).
6. Những đóng góp mới của đề tài
Như đã đề cập, tại Việt Nam, những nội dung nghiên cứu trong đề tài luận
văn còn khá mới mẻ. Đề tài luận văn đi sâu nghiên cứu một cách tổng quát những
vấn đề pháp lý về thỏa thuận HCCT trên cơ sở các quy định và kinh nghiệm của các
nước đi trước trên thế giới để từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT của Việt Nam. Từ việc nghiên cứu đó,
luận văn chỉ ra rằng việc kiểm soát thỏa thuận HCCT bằng những quy định của
pháp luật cạnh tranh là cần thiết nhằm đảm bảo duy trì và bảo vệ cạnh tranh, động
lực phát triển của nền kinh tế thị trường mở cửa, và cũng đồng nghĩa với việc bảo
vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Việc này đã được nhiều quốc gia trên thế giới thực
hiện từ rất lâu. Pháp luật kiểm soát thỏa thuận HCCT đã được Việt Nam xây dựng

7
nhưng còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn quy định trên thế giới. Trên cơ sở
đó, luận văn đưa ra định hướng và những giải pháp để sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện các quy định về thỏa thuận HCCT trong pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh
Chương 2: Vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật của
một số nước trên thế giới
Chương 3: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật cạnh tranh
Việt Nam và định hướng hoàn thiện
Trong đó Chương 1 nêu lên đồng thời đi sâu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
trong việc bảo vệ môi trường cạnh tranh, các nội dung chủ yếu của chính sách và
pháp luật cạnh tranh. Đồng thời chương này cũng đi sâu phân tích và làm sáng tỏ

các vấn đề lý luận về thỏa thuận HCCT và khái quát các vấn đề pháp lý liên quan
đến thỏa thuận HCCT. Tiếp đó, Chương 2 đề cập đến những nội cung cơ bản trong
pháp luật cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới đồng thời nêu các quy định cụ
thể liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của 03 nước đại diện cho ba châu
lục khác nhau gồm Mỹ - đại diện cho Châu Mỹ, Nhật Bản – đại diện cho Châu Á và
Thụy Sỹ - đại diện cho Châu Âu. Và cuối cùng, Chương 3 đề cập đến pháp luật
kiểm soát thỏa thuận HCCT của Việt Nam và mạnh dạn đưa ra đề xuất về định
hướng và những giải pháp hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm của nước ngoài phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nền kinh tế của đất nước
trong điều kiện hội nhập thương mại quốc tế hiện nay.

8
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH, PHÁP LUẬT CẠNH
TRANH VÀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc bảo vệ cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người, con người luôn đi tìm động lực phát triển trong các hình
thái kinh tế xã hội. Động lực của sự phát triển đối với nền kinh tế thị trường chính là
cạnh tranh. Cạnh tranh là một khái niệm rộng, xuất hiện ở hầu hết các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Trong kinh tế, cạnh tranh liên quan đến mọi lĩnh vực thị
trường và chủ thể kinh doanh. Tuy vậy, cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong
một cơ chế kinh tế nhất định – cơ chế kinh tế thị trường. Cạnh tranh là một trong
những quy luật cơ bản, đồng thời là thuộc tính của nền kinh tế thị trường, vì vậy nó
hiện diện trong nền kinh tế như một yếu tố tất yếu [12, tr.78]. Cạnh tranh một mặt
mang lại cho thị trường và cho đời sống xã hội diện mạo mới, linh hoạt, đa dạng,
phong phú và ngày càng phát triển, nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều vấn
đề xã hội như phá sản, kinh doanh gian dối, cạnh tranh không lành mạnh.
Do tính chất đa dạng và phức tạp của quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế
hiện đại, các định nghĩa hay khái niệm về cạnh tranh mặc dù đã nêu được trong một

chừng mực nhất định những đặc điểm căn bản của cạnh tranh nhưng còn có những
hạn chế nhất định. Cho đến nay, các nhà khoa học dường như chưa thể thoả mãn
với bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh. Bởi lẽ với tư cách là một hiện tượng xã hội
riêng có của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện ở mọi lĩnh vực, mọi công
đoạn của quá trình kinh doanh và gắn liền với tất cả các chủ thể đang hoạt động trên
thị trường. Vì vậy, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc
vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học [29, tr.9].
Nhìn nhận cạnh tranh là động lực nội tại của mỗi chủ thể kinh doanh, cuốn
Black’Law Dictionary diễn tả cạnh tranh là sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay
nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba
hoặc là sự đấu tranh để giành các lợi thế thương mại trên thị trường [39, tr.278],

9
[40, tr.302]. Với cách tiếp cận là một hiện tượng xã hội, cạnh tranh là sự ganh đua,
sự kình địch giữa các chủ thể kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình [8, tr.19]. Còn cuốn Từ điển
tiếng Việt định nghĩa cạnh tranh là tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức
năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về phía mình [32, tr.258]. Với
cách tiếp cận cụ thể hơn, tổ chức WB và OECD định nghĩa cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường được dùng để chỉ một hoàn cảnh trong đó các doanh nghiệp hoặc
người bán cố gắng một cách độc lập giành được sự quan tâm, chú ý của người mua
để đạt được một mục tiêu kinh doanh nhất định như lợi nhuận, doanh thu, thị phần
[1, tr.17]. Theo cách tiếp cận từ định nghĩa này, cạnh tranh là một sự đối đầu giữa
các đối thủ kinh doanh về giá cả, số lượng, dịch vụ hoặc kết hợp các yếu tố này và
các yếu tố khác nhằm thu hút khách hàng.
Mặc dù được tiếp cận ở những góc độ khác nhau nhưng về cơ bản cạnh
tranh được biểu hiện thông qua những dấu hiệu riêng vốn có của nó. Thứ nhất, cạnh
tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh chỉ có thể
tồn tại nếu như các chủ thể kinh doanh có quyền tự do hành xử trên thị trường. Thứ
hai, cạnh tranh thể hiện sự ganh đua, kình địch giữa các doanh nghiệp hay nói cách

khác cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các
nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng. Thứ ba, mục đích của
cạnh tranh là tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Và như vậy, cạnh tranh được hiểu một cách chung nhất là hành vi của các
chủ thể kinh doanh trên thị trường với mục đích giành cho mình những ưu thế cao
nhất so với các chủ thể khác.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cạnh tranh
Mặc dù được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau, song theo các lý
thuyết về kinh tế, cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là linh
hồn và là động lực cho sự phát triển của thị trường. Từ đó, cạnh tranh được mô tả
bởi ba đặc trưng căn bản sau:

10
Thứ nhất, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh
doanh [29]. Cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những tiền đề nhất định sau:
Một là, có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh
tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Kinh tế học đã chỉ rõ cạnh tranh là hoạt động
của các chủ thể kinh doanh nhằm tranh giành, mở rộng thị trường nên đòi hỏi phải
có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp trên thị trường. Một khi trên một thị trường
nào đó chỉ có một doanh nghiệp hoạt động thì chắc chắn nơi đó cạnh tranh không
thể nảy sinh và phát triển. Mặt khác, khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp
nhưng chỉ thuộc một thành phần kinh tế duy nhất thì sự cạnh tranh không còn ý
nghĩa. Cạnh tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh
doanh tốt hơn nếu các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác nhau với
lợi ích và tính toán khác nhau [29, tr.10], [19].
Hai là, cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do
hành xử trên thị trường. Với việc tự do khế ước, tự do lập hội và tự chịu trách
nhiệm sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể chủ động tiến hành cạnh tranh để
tìm cơ hội phát triển trên thương trường. Mọi kế hoạch để sắp đặt các hành vi ứng
xử, cho dù được thực hiện với mục đích gì đi nữa, đều hạn chế khả năng sáng tạo

trong kinh doanh. Khi đó, mọi sinh hoạt trong đời sống kinh tế sẽ giống như những
động thái của các diễn viên đã được đạo diễn sắp đặt trong khi sự tự do, tính độc lập
và tự chủ của các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm khả năng tồn tại và phát
triển trên thương trường không được đảm bảo [29, tr.11].
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa
các doanh nghiệp [29]. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải
quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định
của người tiêu dùng [18].
Trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho việc gia nhập thị trường, là
thước đo sự thành đạt và là mục đích hướng đến của các doanh nghiệp kinh doanh
trên thị trường. Kinh tế chính trị Mác-xít đã chỉ ra nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị
thặng dư mà nhà tư bản tìm kiếm được trong các chu trình của quá trình sản xuất,

11
chuyển hoá giữa tiền - hàng. Trong chu trình đó, khách hàng và người tiêu dùng có
vai trò là đại diện cho thị trường, quyết định giá trị thặng dư của xã hội thuộc về ai.
Ở đó mức thụ hưởng về lợi nhuận của mỗi nhà kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận với năng
lực của bản thân họ trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, người tiêu dùng
trong xã hội. Hình ảnh cạnh tranh được minh họa bằng quan hệ tay ba giữa các
doanh nghiệp với nhau và với khách hàng. Các doanh nghiệp đua nhau lấy lòng
khách hàng. Khách hàng là người có quyền lựa chọn người sẽ cung ứng các sản
phẩm hoặc dịch vụ cho mình. Quan hệ này cũng sẽ được mô tả tương tự khi các
doanh nghiệp cùng nhau tranh giành một nguồn nguyên liệu. Hiện tượng tranh đua
như vậy được kinh tế học gọi là cạnh tranh trong thị trường. Từng thủ đoạn được sử
dụng để ganh đua được gọi là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết quả của
cạnh tranh làm cho người chiến thắng mở rộng được thị phần và tăng lợi nhuận, làm
cho kẻ thua cuộc chịu mất khách hàng và phải rời khỏi thị trường [29, tr.12-13].
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh
giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm [29].
Với sự giục giã của lợi nhuận, nhà kinh doanh khi tham gia vào thị trường

luôn ganh đua để có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mở rộng thị trường.
Với sự giúp đỡ của người tiêu dùng, thị trường sẽ chọn ra người thắng cuộc và trao
cho họ lợi ích mà họ mong muốn. Cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp có
chung lợi ích tiềm năng về nguồn nguyên liệu đầu vào hay còn gọi là cạnh tranh
mua, hoặc về thị trường đầu ra hay còn gọi cạnh tranh bán. Việc có cùng chung lợi
ích để tranh giành làm cho các doanh nghiệp trở thành đối thủ của nhau. Lý thuyết
cạnh tranh xác định sự tồn tại của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp theo hướng xác
định sự tồn tại của thị trường liên quan đối với các doanh nghiệp. Việc có cùng một
thị trường liên quan làm cho các doanh nghiệp có cùng mục đích kinh doanh và trở
thành đối thủ cạnh tranh của nhau [29, tr.13].
Mục đích lợi nhuận và chiếm lĩnh thị trường phản ánh bản chất kinh tế của
hiện tượng cạnh tranh. Từ đó có thể phân biệt cạnh tranh với các hiện tượng xã hội
khác có cùng biểu hiện ganh đua như thi đấu thể thao hay các cuộc thi đua để tranh

12
dành danh hiệu khác trong đời sống kinh tế - xã hội. Các doanh nghiệp tham gia vào
quá trình cạnh tranh luôn nhắm đến chiếm lĩnh thị trường, khách hàng và các yếu tố
kinh tế của thị trường. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp cạnh tranh nhau trên
thương trường luôn đưa đến kết quả bàn tay vô hình của thị trường sẽ lấy lại phần
thị trường, lấy lại các yếu tố thị trường như vốn, nguyên vật liệu, lao động… của
người yếu thế và kinh doanh kém hiệu quả hơn để trao cho những doanh nghiệp có
khả năng sử dụng hiệu quả hơn. Như thế, sẽ có kẻ mất và người được trong cuộc
cạnh tranh. Người được sẽ tiếp tục kinh doanh với những gì đã gặt hái, còn doanh
nghiệp thua cuộc phải thu hẹp hoạt động kinh doanh, thậm chí phải rời bỏ thị
trường. Có thể nói, với đặc trưng này, cạnh tranh được mô tả như quy luật đào thải
tự nhiên diễn ra trên thương trường [29, tr.14].
1.1.3. Ý nghĩa của cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là
diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường [19, tr.24]. Nhờ có cạnh tranh,
với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và với bản tính tham lam của con người mà nền

kinh tế thị trường đã đem lại những bước phát triển nhảy vọt chưa từng có được
trong các hình thái kinh tế trước đó. Sự ham muốn không có điểm dừng đối với lợi
nhuận của nhà kinh doanh chính là động cơ thúc đẩy họ sáng tạo không mệt mỏi,
làm cho cạnh tranh trở thành động lực của sự phát triển. Theo đó, ý nghĩa của cạnh
tranh thể hiện ở một số khía cạnh [29, tr.17-23] sau:
Thứ nhất, cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng cường lợi ích đối
với người tiêu dùng. Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng ở vị trí trung
tâm, họ được cung phụng bởi các bên tham gia cạnh tranh. Nhu cầu của người tiêu
dùng được đáp ứng một cách tốt nhất theo khả năng mà thị trường có thể cung ứng,
bởi họ là người có quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền để quyết định ai được tồn tại và
ai phải ra khỏi cuộc chơi. Nói khác đi, cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu dùng có
được cái họ muốn. Một nguyên lý của thị trường là ở đâu có nhu cầu, có thể kiếm
được lợi nhuận thì ở đó có mặt các nhà kinh doanh. Nhà kinh doanh luôn tìm đến để
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt nhất. Với sự ganh đua của môi

13
trường cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn tìm cách hạ giá thành sản phẩm nhằm lôi
kéo khách hàng. Sự tương tác giữa nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng đáp
ứng của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh đã làm cho giá của hàng hoá, dịch
vụ đạt được mức rẻ nhất có thể. Từ đó, các doanh nghiệp có thể thoả mãn nhu cầu
của người tiêu dùng trong khả năng chi tiêu của họ. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh loại
bỏ mọi khả năng bóc lột người tiêu dùng từ phía nhà kinh doanh [29, tr.18].
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp
ứng về trình độ công nghệ của người sản xuất. Trong mối quan hệ đó, sở thích của
người tiêu dùng là động lực chủ yếu của yếu tố cầu, công nghệ sẽ quyết định về yếu
tố cung của thị trường. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và nhu cầu, người tiêu
dùng sẽ quyết định việc sử dụng một loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể. Căn cứ vào
những tính toán về công nghệ, chi phí… nhà sản xuất sẽ quyết định mức độ đáp ứng
nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ cũng như giá và chất lượng của chúng. Thực tế cho
thấy, mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào khả năng tài

chính, trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Những gì doanh nghiệp chưa đáp ứng
sẽ là các đề xuất từ phía thị trường để doanh nghiệp lên kế hoạch cho tương lai. Do
đó, có thể nói nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng có vai trò định hướng hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp [29, tr.19].
Kinh tế học đánh giá hiệu quả của thị trường dựa vào khả năng đáp ứng
nhu cầu cho người tiêu dùng. Thị trường sẽ được coi là hiệu quả nếu nó cung cấp
hàng hoá, dịch vụ đến tay người tiêu dùng với giá trị cao nhất. Thị trường sẽ kém
hiệu quả nếu chỉ có một người bán bị cô lập với các đối thủ hay khách hàng khác.
Việc đáp ứng nhu cầu thị trường thông qua cạnh tranh cũng đồng thời làm tăng lợi
ích người tiêu dùng bởi họ có được nhiều cơ hội tiếp cận và lựa chọn các sản phẩm,
dịch vụ với chất lượng tốt và giá cả phù hợp hơn [29, tr.20].
Thứ hai, cạnh tranh điều phối hoạt động kinh doanh. Như một quy luật
sinh tồn của tự nhiên, cạnh tranh đảm bảo phân phối thu nhập và các nguồn lực kinh
tế tập trung vào tay những doanh nghiệp giỏi, có khả năng và bản lĩnh trong kinh
doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ loại bỏ những khả năng lạm dụng quyền lực thị

14
trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh và bóc lột khách hàng. Vai trò điều phối của
cạnh tranh thể hiện thông qua các chu trình của quá trình cạnh tranh. Cạnh tranh là
một chuỗi các quan hệ và hành vi liên tục không có điểm dừng diễn ra trên thương
trường, được lý thuyết kinh tế mô tả bằng hình ảnh phát triển theo hình xoắn ốc.
Theo đó, chu trình sau có mức độ cạnh tranh và khả năng kinh doanh cao hơn chu
trình trước. Do đó, khi một chu trình cạnh tranh được giả định là kết thúc, người
chiến thắng sẽ có được thị phần lớn hơn điểm xuất phát. Thành quả này lại được sử
dụng làm khởi đầu cho giai đoạn cạnh tranh tiếp theo. Cứ thế, kết quả thực hiện các
chiến lược kinh doanh và cạnh tranh hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp có sự tích tụ
để nâng cao dần vị thế của người chiến thắng trên thương trường. Trong cuộc cạnh
tranh dường như có sự hiện diện của một bàn tay vô hình lấy đi mọi nguồn lực kinh
tế từ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả để trao cho những người có khả
năng sử dụng một cách tốt hơn. Sự dịch chuyển như vậy đảm bảo cho các giá trị

kinh tế của thị trường được sử dụng một cách tối ưu [29, tr.20-21].
Thứ ba, cạnh tranh đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một
cách hiệu quả nhất. Những nỗ lực giảm chi phí để từ đó giảm giá thành của hàng
hoá, dịch vụ đã buộc các doanh nghiệp phải tự đặt mình vào những điều kiện kinh
doanh tiết kiệm bằng cách sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà họ có
được. Mọi sự lãng phí hoặc tính toán sai lầm trong sử dụng nguyên vật liệu đều có
thể dẫn đến những thất bại trong kinh doanh. Nhìn ở tổng thể của nền kinh tế, cạnh
tranh là động lực cơ bản nhằm làm giảm sự lãng phí trong kinh doanh, giúp cho mọi
nguồn nguyên, nhiên, vật liệu được sử dụng tối ưu [29, tr.21].
Thứ tư, cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa
học và kỹ thuật trong kinh doanh. Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận thúc đẩy các doanh
nghiệp không ngừng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến để nâng cao
chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị
trường, mong giành phần thắng về mình. Cứ như thế, cuộc chạy đua giữa các doanh
nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật trong đời sống
kinh tế và xã hội [29, tr.22].

15
Thứ năm, cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là động lực của sự đổi mới
liên tục trong đời sống kinh tế. Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là
quyền tự do trong kinh doanh, sự độc lập trong sở hữu và hoạt động của doanh
nghiệp. Cạnh tranh đòi hỏi Nhà nước và pháp luật phải tôn trọng sự tự do kinh
doanh. Trong sự tự do kinh doanh, quyền được sáng tạo trong khuôn khổ tôn trọng
lợi ích của chủ thể khác và của xã hội luôn được đề cao như một kim chỉ nam của
sự phát triển. Sự sáng tạo làm cho cạnh tranh diễn ra liên tục theo chiều hướng gia
tăng của quy mô và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Sự sáng tạo không mệt
mỏi của con người trong cuộc cạnh tranh nhằm đáp ứng những nhu cầu luôn thay
đổi qua nhiều thế hệ liên tiếp là cơ sở thúc đẩy sự phát triển liên tục và đổi mới
không ngừng. Sự đổi mới trong đời sống kinh tế được thể hiện thông qua những
thay đổi trong cơ cấu thị trường, hình thành những ngành nghề mới đáp ứng nhu

cầu của đời sống hiện đại, sự phát triển liên tục của khoa học kỹ thuật, sự tiến bộ
trong nhận thức của con người về các vấn đề liên quan đến kinh tế xã hội [29, tr.23].
1.1.4. Các hình thức tồn tại của cạnh tranh
Trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý, các nhà khoa học có nhiều
cách phân loại cạnh tranh khác nhau để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu hoặc cho
công tác xây dựng chính sách cạnh tranh.
Dựa vào vai trò điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh có thể được phân loại
thành cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà.
Thị trường cạnh tranh tự do là thị trường tồn tại không có sự can thiệp của
Chính phủ và tại đó các tác nhân cung cầu được phép hoạt động tự do [16, tr.397].
Do đó, lý thuyết về cạnh tranh tự do đưa ra mô hình cạnh tranh tự do mà ở đó các
chủ thể tham gia cuộc tranh đua hoàn toàn chủ động và tự do ý chí trong việc xây
dựng và thực hiện các chiến lược, các kế hoạch kinh doanh.
Mô hình cạnh tranh tự do ra đời cùng với quan điểm về bàn tay vô hình do
nhà kinh tế học Adam Smith (1723-1790) đề xuất. Theo Adam Smith, sự phát triển
kinh tế phụ thuộc vào quy luật của tự nhiên vì trong các hiện tượng tự nhiên luôn
tồn tại một trật tự có thể thấy được qua quan sát hoặc bẳng cảm giác. Do đó, cơ chế

16
kinh tế và pháp luật nên tuân theo thay vì đi ngược lại các trật tự hay quy luật của tự
nhiên. Trong tác phẩm Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc
gia viết năm 1776, Adam Smith tôn vinh vai trò điều tiết thị trường của bàn tay vô
hình và cho rằng, sự tự do tự nhiên đã sản sinh ra một hệ thống điều tiết các quan hệ
và các lợi ích thị trường đơn giản và rõ ràng. Theo đó, khi chạy theo lợi ích cá nhân,
mỗi người đã vô tình đồng thời đáp ứng lợi ích của xã hội, cho dù trước đó họ
không có ý định này. Vì vậy, hệ thống cạnh tranh tự do tự nó đã sản sinh những
quyền lực cần thiết để điều tiết và phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu nên các cơ
quan công quyền không cần phải can thiệp sâu vào đời sống thị trường.
Khác với cạnh tranh tự do, cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước là hình
thức cạnh tranh mà ở đó Nhà nước bằng các chính sách và công cụ pháp luật can

thiệp trực tiếp vào đời sống thị trường để điều tiết các quan hệ cạnh tranh trên thị
trường, nhằm hướng các hoạt động cạnh tranh trên thị trường vận động và phát triển
trong một trật tự, đảm bảo sự phát triển công bằng và lành mạnh. Yêu cầu về sự
điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh xuất phát chính từ nhận thức của con
người về mặt trái của cạnh tranh tự do và sự bất lực của bàn tay vô hình trong việc
điều tiết đời sống kinh tế.
Căn cứ vào tính chất mức độ biểu hiện, cạnh tranh được chia thành cạnh
tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền.
Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó người mua và người
bán đều không có khả năng tác động đến giá cả của sản phẩm trên thị trường. Trong
hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm hay dịch vụ hoàn toàn
do quan hệ cung cầu và quy luật giá trị quyết định, không có sự tồn tại của bất cứ
khả năng hay quyền lực nào có thể chi phối các quan hệ trên thị trường. Theo các
nhà kinh tế, thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi đảm bảo các yếu tố là số lượng
doanh nghiệp và khách hàng tham gia thị trường lớn, sản phẩm và dịch vụ tham gia
thị trường có sự đồng nhất hoặc ít có sự khác biệt, thông tin trên thị trường là hoàn
hảo cả từ phía người mua và người bán, không có sự tồn tại của các rào cản gia

17
nhập thị trường, tức là khả năng gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tiềm
năng là tự do, và khả năng tự do tiếp cận các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp.
Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức chiếm ưu thế trong các ngành sản
xuất mà ở đó các doanh nghiệp phân phối hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực
để có thể chi phối giá [19]. Sự khuyết đi của một trong số những yếu tố để tạo nên
thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ tạo nên thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Trong thực tế, cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức phổ biến trên thị trường, ở
nhiều lĩnh vực, nhiều ngành của nền kinh tế. Nếu trong cạnh tranh hoàn hảo không
ai có đủ khả năng chi phối thị trường, thì trong cạnh tranh không hoàn hảo, do các
điều kiện để sự hoàn hảo tồn tại không đầy đủ nên mỗi thành viên của thị trường
đều có một mức độ quyền lực nhất định đủ để tác động đến giá cả của sản phẩm.

Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thức mà ở đó mỗi doanh nghiệp
đều có mức độ độc quyền nhất định vì họ có sản phẩm của riêng mình. Mặc dù các
sản phẩm trên thị trường có thể thay thế cho nhau, song các doanh nghiệp luôn nỗ
lực thực hiện cá biệt hoá sản phẩm của mình [28]. Sự thành công trong việc dị biệt
hoá sản phẩm phù hợp với sự đa dạng và tính hay thay đổi của nhu cầu quyết định
mức độ độc quyền và thành công của doanh nghiệp. Lý thuyết cạnh tranh độc quyền
gắn liền với các nghiên cứu của nhà kinh tế học người Mỹ Edward Chamberlin
(1899-1967) và nhà kinh tế học người Anh Joan V. Robinson (1903-1983).
1.1.5. Môi trường cạnh tranh lành mạnh cần được tạo lập và bảo vệ
Như đã đề cập, cạnh tranh mang nhiều ý nghĩa và có tác động tích cực đối
với nền kinh tế của các quốc gia phát triển theo kinh tế thị trường. Cạnh tranh được
coi là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là một trong những
quy luật cơ bản, đồng thời còn là thuộc tính của nên kinh tế thị trường, do vậy, nó
hiện diện trong nền kinh tế như một yếu tố tất yếu. Nếu cạnh tranh diễn ra một cách
công bằng thì luôn có những tác động tích cực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bởi
vì, cạnh tranh là hoạt động căn bản của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, là động lực để các doanh nghiệp phải tự cải tổ và trang bị cho mình những
điều kiện tốt nhất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển. Và điều này mang lại nhiều

×