Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.94 KB, 86 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ THU HƯỜNG




HÌNH THỨC CHÍNH THỂ VIỆT NAM
QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP


Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN QUỐC BÌNH




HÀ NỘI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN


Phạm Thị Thu Hường


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CHÍNH THỂ - MỘT TRONG NHỮNG ĐỐI TƯỢNG
ĐIỀU CHỈNH CỦA HIẾN PHÁP 6
1.1. Những lý luận cơ bản về chính thể nhà nước trên thế giới 6

1.1.1. Chính thể cộng hòa 8
1.1.2. Chính thể quân chủ 14
1.2. Việt Nam: dân chủ từ nội dung đến hình thức 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 23
Chương 2: HÌNH THỨC CHÍNH THỂ VIỆT NAM QUA CÁC BẢN
HIẾN PHÁP LỊCH SỬ 24
2.1. Hình thức chính thể nhà nước Việt Nam trong bản Hiến pháp
năm 1946 24
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp năm 1946 24
2.1.2. Hình thính chính thể nhà nƣớc 25
2.2. Hình thức chính thể nhà nước trong Hiến pháp năm 1959 33
2.2.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1959 33
2.2.2. Hình thức chính thể nhà nƣớc 34
2.3. Hình thức chính thể nhà nước trong Hiến pháp năm 1980 36
2.3.1. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp năm 1980 36
2.3.2. Hình thức chính thể nhà nƣớc 38

2.4. Hình thức chính thể nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 40
2.4.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1992 40
2.4.2. Hình thức chính thể nhà nƣớc 41
2.5. Lý do sửa đổi Hiến pháp 1992 50
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 52
Chương 3: HÌNH THỨC CHÍNH THỂ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRONG BẢN HIẾN PHÁP MỚI 2013 53
3.1. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 53
3.2. Hình thức chính thể nhà nước 54
3.2.1. Điểm kế thừa của hiến pháp 1992 54
3.2.2. Điểm mới của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992 58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 76
KẾT LUẬN 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79





DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐND: Hội đồng nhân dân
MTTQ: Mặt trận tổ quốc
QH: Quốc hội

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trƣờng Ba Đình lịch sử, Hồ Chí
Minh – vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam đã đọc bản Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra Nhà nƣớc Việt nam dân chủ cộng hoà. Trong Bản tuyên
ngôn đó Ngƣời đã trích dẫn một đoạn ngắn trong phần dƣới đây của Tuyên
ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1976 để đƣa vào Tuyên ngôn của nƣớc Việt
nam dân chủ cộng hoà còn non trẻ:
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi ngƣời
sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất
yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền đƣợc tự
do và mƣu cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi
này, các Chính phủ đƣợc lập ra trong nhân dân và có đƣợc những
quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân, rằng bất
cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu
này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và

lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc
cũng nhƣ tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có
hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ [6].
Con ngƣời chúng ta tồn tại không phải để phục vụ nhƣ trong xã hội
chuyên chế và độc tài đã tuyên bố, mà chính các Chính phủ tồn tại để bảo vệ
ngƣời dân, các quyền của họ và có tác dụng làm cho xã hội phát triển thông
qua sự phát triển của con ngƣời. Nhà nƣớc tức Chính phủ rất cần cho cuộc
sống của con ngƣời. Đúng nhƣ vị chủ tịch ngân hàng thế giới G. Wulfenson
trong lời nói đầu của bản báo cáo của cơ quan này với nhan đề “Nhà nước
trong một thế giới chuyển đổi ” đã viết “… lịch sử đã nhiều lần chứng minh,

2
một Chính phủ tốt không phải là một món xa xỉ phẩm, mà là một điều cần
thiết sống còn. Không có một Nhà nước hữu hiệu thì sẽ không có một sự phát
triển ổn định về mặt kinh tế lẫn về mặt xã hội” [5, tr.10]. Nhƣng xây dựng
một Chính phủ có cơ cấu và hình thức ra sao để đáp ứng đầy đủ, đúng đắn
nhu cầu của con ngƣời luôn là câu hỏi lớn và chƣa có câu trả lời thích đáng
của nhân loại. Nghiên cứu Nhà nƣớc cũng nhƣ nghiên cứu các sự vật hiện
tƣợng khác đòi hỏi chúng ta phải hiểu nội dung và hình thức của nó. Hình
thức Nhà nƣớc là một vấn đề quan trọng của việc tổ chức và thực hiện quyền
lực Nhà nƣớc. Việc cơ cấu tổ chức các cơ quan Nhà nƣớc, quyền, nghĩa vụ
của từng cơ quan, mối quan hệ giữa chúng với nhau, nguồn gốc quyền lực
Nhà nƣớc đều phụ thuộc vào vấn đề chính thể và cơ cấu lãnh thổ Nhà nƣớc.
Ngƣợc lại chính vấn đề chính thể, cơ cấu lãnh thổ Nhà nƣớc lại có tác động
đến cơ cấu, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nƣớc với nhau.
Với tầm quan trọng nhƣ vậy, vấn đề chính thể cũng nhƣ vấn đề cơ cấu
lãnh thổ của Nhà nƣớc bao giờ cũng đƣợc quy định trong văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp. Trong Hiến pháp bao giờ cũng có một
chƣơng riêng nói về chính thể cũng nhƣ hình thức cơ cấu lãnh thổ Nhà nƣớc.
Hoặc trong Hiến pháp không có chƣơng riêng nhƣng những quy định của

Hiến pháp toát lên cho chúng ta thấy vấn đề chính thể và cơ cấu lãnh thổ của
Nhà nƣớc. Vì vậy vấn đề chính thể và cơ cấu lãnh thổ là vấn đề thuộc nội
dung cơ bản của Hiến pháp thực định. Nghiên cứu chính thể Nhà nƣớc là một
vấn đề khó nhƣng nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Hình thức
chính thể là mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc đƣợc phân tích dƣới
giác độ tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nƣớc trung
ƣơng với nhân dân. Hay nói một cách khái quát, hình thức chính thể cho
chúng ta biết Nhà nƣớc do ai thống trị và thống trị nhƣ thế nào. Quyền lực

3
Nhà nƣớc tập trung hay phân tán cũng tạo ra nhiều dạng, hình thức tổ chức
Nhà nƣớc. Xây dựng hình thức chính thể phải phù hợp với hoàn cảnh của
từng Nhà nƣớc. Có nhƣ vậy bộ máy Nhà nƣớc mới phát huy hết hiệu quả hoạt
động của mình, đem lại những lợi ích to lớn về kinh tế, đảm bảo sự phát triển
trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội của đất nƣớc. Nhìn lại các hình
thức chính thể của các Nhà nƣớc trên thế giới, xem xét những ƣu điểm và hạn
chế của từng hình thức chính thể góp phần không nhỏ trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của đất nƣớc mình. Xuất phát từ tính
cấp thiết đó, việc nghiên cứu đề tài “Hình thức chính thể Việt Nam qua các
bản Hiến pháp” trong thời điểm hiện tại khi Việt Nam tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế, kiện toàn bộ máy nhà nƣớc, xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền là yêu cầu khách quan, cần thiết trên cả hai
phƣơng diện lý thuyết và thực tiễn nhằm có một cái nhìn tổng quát nhất hình
thức chính thể Nhà nƣớc ở các thời kỳ, mối liên hệ qua lại giữa các cơ quan
đó từ Hiến pháp 1946 đến nay. Qua đó rút ra kinh nghiệm, cách thức hoàn
thiện cơ cấu, tổ chức bộ máy sao cho phù hợp hơn nữa với điều kiện của đất
nƣớc trong thời kỳ mới với nhiều thách thức mới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát

Luận văn nghiên cứu vấn đề hình thức chính thể của nhà nƣớc qua các
bản Hiến pháp Việt Nam từ 1946 nay nhằm nhìn nhận một cách tổng quát
nhất các hình thức chính thể nhà nƣớc mà Đảng, Nhà nƣớc ta đã xây dựng,
qua đó rút ra những tồn tại và những ƣu điểm đã đạt đƣợc. Từ đó có định
hƣớng cho sự hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung cho những lần xây dựng các bản
Hiến pháp sau này.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đƣa ra lý thuyết chung nhất về chính thể, các loại hình chính thể
trên thế giới.

4
- Phân tích, làm rõ hình thức chính thể tại Việt Nam qua các bản Hiến
pháp từ 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đến Hiến
pháp 2013.
3. Tình hình nghiên cứu
Chính thể - đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội
nhƣ: triết học, luật học Mỗi ngành khoa học nghiên cứu chính thể dƣới các
góc độ khác nhau. Luật học nghiên cứu ở các khía cạnh nhƣ cách thức tổ chức
bộ máy Nhà nƣớc, cơ chế hoạt động của nó, mối quan hệ giữa các cơ quan
Nhà nƣớc với nhau… Hình thức chính thể Nhà nƣớc Việt Nam đã, đang và sẽ
là đề tài nóng hổi bởi tính thời sự của nó. Xây dựng, kiện toàn bộ máy Nhà
nƣớc nhƣ thế nào, mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau… là vấn đề
quan tâm của nhiều cấp, ngành và toàn thể nhân dân Việt Nam. Bởi lẽ bộ máy
Nhà nƣớc có hoạt động hiệu quả thì chúng ta mới thành công trên con đƣờng
Xã hội chủ nghĩa đã chọn, khẳng định mục tiêu lý tƣởng là xây dựng cho
đƣợc một đất nƣớc hoà bình, ấm no, hạnh phúc. Về vấn đề này đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu ra đời, vừa có tính chất phục vụ giảng dạy trong các
trƣờng đại học, vừa có tính chất nghiên cứu phục vụ thực tiễn, tiêu biểu nhƣ:
- PGS. TS Nguyễn Đăng Dung (2004), Hình thức của các nhà nước
đương đại, Nxb Thế giới, Hà Nội.

- Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam,
Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
- Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Hiến
pháp Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
….
Những công trình nêu trên đã đƣa ra một cách nhìn toàn diện về hình
thức chính thể Nhà nƣớc Việt Nam qua các thời kỳ, qua đó chúng ta có cái
nhìn khái quát nhất quá trình phát triển bộ máy Nhà nƣớc Việt Nam từ lịch sử

5
đến hiện tại. Bài luận văn này nghiên cứu vấn đề không phải là mới nhƣng lại
đƣa ra một vấn đề khá mới mẻ hiện nay. Đó hệ thống khái quát hình thức
chính thể Nhà nƣớc Việt Nam qua các bản Hiến pháp, đặc biệt là hình thức
chính thể nhà nƣớc trong bản Hiến pháp hiện đại vừa có hiệu lực thi hành.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Tính mới: Luận văn phân tích rõ hình thức chính thể Nhà nƣớc Việt
Nam trong bản Hiến pháp 2013, chỉ ra các điểm mới trong bản Hiến pháp của
các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp.
- Đóng góp: Hệ thống một cách khái quát nhất hình thức chính thể nhà
nƣớc Việt Nam qua các bản Hiến pháp, luận văn có thể làm tài liệu cho các
sinh viên luật hoặc những ngƣời yêu thích tìm hiểu bộ môn hiến pháp.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: hình thức chính thể Nhà nƣớc qua 5 bản Hiến pháp.
- Phạm vi nghiên cứu: Hiến pháp Việt Nam.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác-Lênin và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật; các tƣ tƣởng, quan điểm
mang tính nguyên tắc của Đảng về đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền; các tƣ tƣởng, quan điểm về luật học tiến bộ
và hiện đại trên thế giới.

Phƣơng pháp luận đƣợc sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong luận văn là: phƣơng pháp biện chứng, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng
pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh…
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chƣơng và phần kết luận.
Chương 1. Chính thể - một trong những đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp
Chương 2. Hình thức chính thể Việt Nam trong các bản Hiến pháp lịch sử
Chương 3. Hình thức chính thể Việt Nam trong bản Hiến pháp mới 2013

6
Chương 1
CHÍNH THỂ - MỘT TRONG NHỮNG ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH
CỦA HIẾN PHÁP

1.1. Những lý luận cơ bản về chính thể nhà nước trên thế giới
Nhà nƣớc, tức Chính phủ rất cần cho cuộc sống con ngƣời…
Nhƣng tạo ra một Chính phủ nhƣ thế nào và có hình thức ra sao
luôn là câu hỏi lớn của nhân loại, tạo ra một Chính phủ không đòi
hỏi nhiều sự cẩn trọng, phân chia quyền lực, dạy cách tuân phục và
công việc thế là xong. Cho quyền tự do còn dễ dàng hơn nữa.
Không cần hƣớng dẫn, nó chỉ đòi hỏi xoá bỏ sự cai trị. Nhƣng để
thành lập một Chính phủ dân chủ tự do tức là dung hoà tất cả các
yếu tố đối nghịch giữa tự do và kiềm toả trong một thể thống nhất,
thì phải đòi hỏi đến một sự suy nghĩ cẩn thận, nó đòi hỏi một sự suy
nghĩ thấu đáo, một trí tuệ minh mẫn, mạnh mẽ và tổng hợp… Nếu
quá vì quyền tự do sẽ dẫn đến tình trạng vô Chính phủ, nhƣng
ngƣợc lại nếu quá vì kìm hãm sẽ dẫn đến sự độc tài [5, tr. 10].
Nhà nƣớc là một hiện tƣợng xã hội, nó cũng có nội dung và hình thức
thể hiện của mình. Trong triết học, hình thức và nội dung là một trong sáu cặp
phạm trù của phép biện chứng duy vật. Nó phản ánh mối quan hệ qua lại giữa

hai mặt của hiện tƣợng tự nhiên và xã hội. Nếu nội dung là toàn bộ những yếu
tố và sự tƣơng tác giữa các yếu tố đó với nhau và với các sự vật và hiện tƣợng
khác, cấu thành nên sự vật và hiện tƣợng đƣợc nghiên cứu thì hình thức là
phƣơng thức tồn tại và biểu hiện của nội dung đó và biểu hiện khác nhau của
nó, là tổ chức bên trong của nó. Không có hình thức nào lại không chứa đựng
nội dung, cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức
nhất định. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung là mặt

7
chủ đạo, năng động quyết định khách thể, còn hình thức là mặt tƣơng đối ổn
định của khách thể, thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của nội dung. Nhƣng hình thức
cũng có sự tác động trở lại nội dung. “Khi hình thức thích ứng với nội dung thì
thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại khi hình thức không thích ứng
với nội dung thì nó trở thành kìm hãm sự phát triển của nội dung” [3, tr. 86].
Mỗi sự vật hiện tƣợng đều có hình thức tồn tại của nó. Nội dung và hình thức
liên quan mật thiết với nhau. Không có nội dung thì không có hình thức và
ngƣợc lại không có hình thức thì không có nội dung. Nhà nƣớc là một hiện
tƣợng xã hội nó cũng giống nhƣ các hiện tƣợng xã hội khác đều có hình thức
thể hiện. Hình thức Nhà nƣớc là thuật ngữ chuyên ngành luật Hiến pháp và
của một số ngành khoa học xã hội khác nhằm khái quát hoá mô hình Nhà
nƣớc thông qua những đặc điểm thể hiện nội dung của các yếu tố cấu thành là
các bộ phận tạo ra bộ máy nhà nƣớc và mối quan hệ tác động qua lại giữa
chúng với nhau. Hình thức nhà nƣớc đƣợc phân tích dƣới nhiều lăng kính
khác nhau, cho chúng ta các cách hiểu khác nhau về nhà nƣớc. Hình thức
chính thể là một dạng của hình thức nhà nƣớc, bên cạnh hình thức cơ cấu lãnh
thổ. Khi xác định hình thức chính thể của một quốc gia trƣớc tiên ngƣời ta xác
định cách thức thành lập nguyên thủ quốc gia, tiếp đến là cách thức thành lập,
vị trí, vai trò của các cơ quan Bộ máy nhà nƣớc mà chủ yếu là cơ quan lập
pháp và cơ quan hành pháp. Nếu nguyên thủ quốc gia hình thành bằng con
đƣờng thế tập truyền ngôi thì đó là hình thức quân chủ, nếu nguyên thủ quốc

gia hình thành bằng con đƣờng bầu cử thì đó là chế độ cộng hòa. Trong phạm
vi bài viết này tác giả chỉ đề cập đến một dạng của hình thức Nhà nƣớc đó là
hình thức chính thể nhà nƣớc.
Nhƣ đã nói ở trên, hình thức chính thể hiện nay chia làm hai dạng:
Chính thể cộng hòa và chính thể quân chủ. Trong đó mô hình chính thể cộng
hòa chia ra làm ba loại: chính thể cộng hòa đại nghị, chính thể cộng hòa tổng

8
thống, chính thể cộng hòa lƣỡng tính. Mô hình chính thể quân chủ có hai loại:
quân chủ tuyệt đối và quân chủ lập hiến.
1.1.1. Chính thể cộng hòa
Đây là mô hình phổ biến ở các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Mô hình này
đƣợc coi là mô hình tiến bộ hơn mô hình quân chủ, bởi lẽ cơ quan quyền lực
nhà nƣớc cao nhất ở chính thể này do dân bầu lên, do vậy nhân dân có những
quyền hạn nhất định trong tổ chức cũng nhƣ hoạt động của Bộ máy nhà nƣớc,
điều này không giống nhƣ chế định Nguyên thủ quốc gia và các cơ quan nhà
nƣớc ở chính thể quân chủ. Tuy nhiên sự tiến bộ này cũng phụ thuộc nhiều
vào hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội nhất định cũng nhƣ tƣơng quan trong
sự so sánh các giai cấp. Trong lịch sử cũng đã tồn tại những mô hình chính
thể mang tên “cộng hòa” nhƣ cộng hòa nô lệ, cộng hòa phong kiến nhƣng
thực chất đó là chuyên chế nô lệ, chuyên chế phong kiến, ngƣời dân không
những không đƣợc hƣởng lợi ích gì mà còn bị áp bức, bóc lột.
Thuật ngữ “cộng hoà” có nguồn gốc từ thành ngữ Hy Lạp
“Respublica est res populi”, có nghĩa là “Nhà nước là công việc của
nhân dân”. Mô hình tổ chức Nhà nƣớc này xuất hiện từ thời cổ đại La
Mã - Hy Lạp. Nhƣng sang đến chế độ chính trị phong kiến nó bị loại
dần, mãi đến chế độ chính trị tƣ bản mới trở thành mô hình phổ biến.
Chế độ chính trị cộng hoà còn đƣợc gọi là chế độ chính trị dân chủ.
Dân chủ cũng là thuật ngữ có nguồn gốc từ cổ Hy Lạp, “Democrat”
có nghĩa là “Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” [5, tr. 20].

Mô hình chính thể cộng hòa thƣờng chia thành hai loại chính: chính thể
cộng hòa đại nghị - là chính thể, ở đó cơ quan lập pháp và hành pháp có sự
phụ thuộc vào nhau, phối kết hợp với nhau trong việc thực hiện chức năng
nhiệm vụ của cơ quan mình; còn không có sự kết hợp hay phụ thuộc vào nhau
là chính thể cộng hòa tổng thống. Ngoài ra còn có hình thức chính thể cộng

9
hòa lƣỡng tính. Đây là hình thức tổ chức nhà nƣớc vừa có điểm giống chính
thể cộng hòa đại nghị lại vừa có điểm giống chính thể cộng hòa tổng thống.
Ngoài ra việc áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực một cách mềm dẻo
giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp ở chính thể này góp phần hạn
chế sự lạm quyền một cách hiệu quả.
1.1.1.1. Chính thể cộng hòa đại nghị
Đây là mô hình tổ chức nhà nƣớc mà về nguyên tắc Nghị viện đóng
vai trò là cơ quan thực hiện quyền lực nhà nƣớc cao hơn các cơ quan khác.
Đây là cơ quan do nhân dân trực tiếp (gián tiếp) bầu ra nên có nhiều quyền
lực. Cơ quan này có chức năng lập pháp, đặt ra những quy định khuôn mẫu
cho tổ chức, hoạt động các cơ quan nhà nƣớc khác và các hành vi của công
dân, xã hội; mặt khác có chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc. Chính phủ là cơ quan hành pháp, do lập pháp thành lập ra, chịu trách
nhiệm trƣớc lập pháp. Nguyên tắc “Chính phủ chịu trách nhiệm trƣớc Nghị
viện” là cơ sở để Nghị viện giải tán Chính phủ. Chính phủ do Thủ tƣớng
đứng đầu sẽ không chịu trách nhiệm trƣớc nguyên thủ quốc gia mà chịu
trách nhiệm trƣớc Nghị viện.
Nguyên thủ quốc gia trong chính thể này không hình thành bằng con
đƣờng “cha truyền con nối” nhƣ chính thể quân chủ đại nghị mà bằng con
đƣờng bầu cử, do Nghị viện bầu lên. Do vậy Nguyên thủ quốc gia chịu trách
nhiệm trƣớc Nghị viện. Chính phủ do Thủ tƣớng đứng đầu sẽ không chịu
trách nhiệm trƣớc Nguyên thủ quốc gia mà chịu trách nhiệm trƣớc Nghị viện.
Chính xuất phát từ lý do nguyên thủ quốc gia không do nhân dân bầu lên nên

Nguyên thủ quốc gia không có thực quyền dù đƣợc Hiến pháp quy định là có
thẩm quyền rộng rãi. Ở tất cả các Bản Hiến pháp của các quốc gia theo hình
thức chính thể cộng hòa đại nghị đều ghi nhận Nguyên thủ quốc gia không
đứng đầu hành pháp và cũng không là thành viên của hành pháp. Ngoài ra ở

10
các nƣớc theo mô hình chính thể cộng hòa đại nghị hay quân chủ đại nghị đều
ghi nhận nguyên tắc “không chịu trách nhiệm” của Nguyên thủ quốc gia.
Khoản 1, Điều 90 Hiến pháp Cộng hoà Ý: “Tổng thống nước cộng hoà không
phải chịu trách nhiệm về những hành động thực hiện trong quá trình thực thi
nghĩa vụ Tổng thống, trừ trường hợp phạm tội phản quốc hoặc vi phạm Hiến
pháp” [14, tr. 367], bên cạnh đó còn có quốc gia vẫn quy định việc chịu trách
nhiệm của tổng thống khi thực hiện chức trách của mình trƣớc Quốc hội liên
bang nhƣ quy định trong Hiến pháp cộng hòa Áo.
Một số quốc gia quy định khi một cá nhân đƣợc bầu làm Tổng thống
thì ngƣời đó phải từ bỏ Đảng phái, điều này khó thực hiện bởi lẽ việc giới
thiệu ngƣời ứng cử, hay khi tranh cử thì chí ít cũng phải đƣợc sự ủng hộ của
Đảng. Mặt khác để chứng minh cho việc không trung lập của Tổng thống, đó
là trên thực tế văn bản do tổng thống ký chỉ có hiệu lực khi có chữ ký “phó
thự”của các hàm Bộ trƣởng hay trên Bộ trƣởng. Điều này thể hiện sự vô tƣ
của Tổng thống khi ngƣời trực tiếp chịu trách nhiệm về văn bản do Tổng
thống ban hành là ngƣời ký phó thự. Ngoài ra Hiến pháp của các quốc gia
theo loại hình chính thể cộng hòa đại nghị còn quy định Tổng thống là ngƣời
bổ nhiệm ngƣời đứng đầu Chính phủ nhƣng quy cách bổ nhiệm nhƣ thế nào
lại không đƣợc quy định rõ. Thay vào đó là sự bổ sung của tập tục không
thành văn, ngƣời đứng đầu cơ quan hành pháp là ngƣời đƣợc đa số sự ủng hộ
của Nghị sĩ trong Nghị viện. Vậy Tổng thống không còn sự lựa chọn nào khác
là bầu ngƣời đứng đầu của Đảng chiếm đa số ghế trong Nghị trƣờng làm Thủ
tƣớng. Tất cả các phân tích trên đều chứng tỏ rằng Nguyên thủ quốc gia ở
chính thể cộng hòa đại nghị là ngƣời không có thực quyền. Mọi quyết định

của Tổng thống đều có sự đề nghị hay yêu cầu từ phía hành pháp. Vai trò của
nguyên thủ quốc gia trong chính thể này giống nhƣ vai trò của Vua hay Nữ
hoàng trong chính thể quân chủ đại nghị chỉ phát huy khi khi đất nƣớc có

11
chiến tranh. Lúc này Nguyên thủ quốc gia mới có cơ hội hành động độc lập
mà không phụ thuộc vào đảng phái chính trị.
1.1.1.2. Chính thể cộng hòa tổng thống
Điển hình cho hình thức chính thể này là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Tổng thống trong chính thể này có quyền lực rất lớn, vừa là Nguyên thủ
quốc gia vừa là ngƣời đứng đầu hành pháp do nhân dân trực tiếp hoặc gián
tiếp bầu ra. Điều này hoàn toàn khác với chế định Nguyên thủ quốc gia ở
chính thể cộng hòa đại nghị và chính thể quân chủ đại nghị. Ở mô hình
chính thể đó, Nguyên thủ quốc gia chỉ thực hiện hành pháp tƣợng trƣng,
Nguyên thủ quốc gia chỉ phát huy vai trò của mình khi đất nƣớc có chiến
tranh. Mặc dù đƣợc Hiến pháp quy định có quyền hành nhƣng thực tế họ
không có chút quyền lực nào, mọi quyết định của nguyên thủ quốc gia đều
xuất phát từ hành pháp. Ngƣợc lại Nguyên thủ quốc gia trong chế độ Cộng
hòa tổng thống là ngƣời có thực quyền nắm quyền lực về hành pháp và thậm
chí còn can thiệp vào hoạt động lập pháp của Nghị viện với quyền phủ quyết
các dự án luật của Nghị viện. Nếu nhƣ ở hình thức đại nghị kể cả cộng hòa
hay hình thức quân chủ đều quy định sự tồn tại của thiết chế Chính phủ,
trong đó bao gồm Thủ tƣớng và các Bộ trƣởng và Chính phủ do Nghị viện
lập ra, chịu trách nhiệm trƣớc Nghị viện thì ở chính thể cộng hòa tổng thống
không tồn tại thiết chế này. Tổng thống vừa là ngƣời đứng đầu hành pháp
vừa là Nguyên thủ quốc gia, quyền hành pháp đƣợc giao cho Tổng thống, tại
Khoản 1, Điều 2: “Quyền hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống Hoa Kỳ”
[12, tr.532] nhằm đề cao vai trò của Tổng thống và nhấn mạnh chế độ trách
nhiệm cá nhân của Tổng thống. Chính từ lý do Nguyên thủ quốc gia và
ngƣời đứng đầu hành pháp là một nên Tổng thống có toàn quyền quyết định

nhân sự của Chính phủ. Lƣu ý chế định Chính phủ ở đây đƣợc sự dụng với
nghĩa tƣơng đƣơng khống giống chế định Chính phủ ở hình thức chính thể

12
cộng hòa đại nghị. Các Bộ trƣởng này do chính Tổng thống lựa chọn và bổ
nhiệm nên cũng có quyền cách chức bất cứ lúc nào. Mặt khác các Bộ trƣởng
là ngƣời giúp việc trực tiếp cho Tổng thống nên hoàn toàn chịu trách nhiệm
trƣớc Tổng thống, tuân theo mệnh lệnh của Tổng thống. Theo quy định Hiến
pháp Hoa kỳ, Tổng thống không có quyền sáng kiến luật nhƣng lại có quyền
phủ quyết luật và trên thực tế bằng nhiều cách thức khác nhau Tổng thống
đều có sự can thiệp sâu vào hoạt động lập pháp của Quốc hội Mỹ. Điểm 2,
Khoản 7, Điều 1, Hiến pháp Hoa kỳ quy định:
Mỗi dự luật đã đƣợc thông qua tại Hạ viện và Thƣợng viện
trƣớc khi trở thành luật đều phải đệ trình lên Tổng thống Hoa Kỳ.
Nếu tán thành, Tổng thống sẽ ký nhận, nếu không Tổng thống sẽ trả
lại Viện đƣa ra dự luật đó cùng với ý kiến không tán thành. Viện
này sẽ thông báo rộng rãi ý kiến không tán thành trong nội san và
tiến hành xem xét lại dự luật. Nếu sau khi xem xét lại và hai phần
ba thành viên của Viện đó đồng ý thông qua dự luật, thì nó sẽ đƣợc
gửi cho Viện kia, kèm theo ý kiến không tán thành. Và Viện đó
cũng sẽ xem xét. Nếu đƣợc hai phần ba thành viên của Viện đó phê
chuẩn, thì nó sẽ trở thành một đạo luật. Nhƣng trong các trƣờng hợp
này, phiếu bầu của cả hai Viện đều phải ghi rõ tán thành hay không
tán thành. Tên của những ngƣời tán thành và không tán thành dự
luật sẽ đƣợc đƣa vào nội san của mỗi Viện. Những dự luật mà Tổng
thống không gửi trả lại trong vòng 10 ngày (không kể chủ nhật) sau
khi đệ trình lên sẽ trở thành đạo luật, coi nhƣ Tổng thống đã ký phê
chuẩn, trừ trƣờng hợp Quốc hội đang không nhóm họp nên Tổng
thống không thể gửi trả lại cho Quốc hội đƣợc và trong trƣờng hợp
đó thì dự luật sẽ không trở thành luật [12, tr.528].

Ngoài ra ở Mỹ vai trò của cơ quan tƣ pháp đƣợc đề cao hơn so với thiết

13
chế này trong chính thể đại nghị kể cả quân chủ hay cộng hòa. Quyền lực tƣ
pháp của Tòa án sẽ có hiệu lực đối với tất cả các vụ việc trên phƣơng diện luật
pháp và công lý. Ở Mỹ áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực một cách cứng
rắn, lập pháp là lập pháp, hành pháp là hành pháp, tƣ pháp là tƣ pháp. Việc
phân chia này thể hiện sự độc lập của thẩm phán đối với những phán quyết của
mình mà không phụ thuộc vào quyết định của lập pháp hay hành pháp.
1.1.1.3. Chính thể cộng hòa lưỡng tính
Đây là mô hình chính thể vừa có những đặc điểm của cộng hòa đại nghị
vừa có những đặc điểm của cộng hòa tổng thống. Điển hình của mô hình này
là cộng hòa Pháp. Nếu nhƣ ở chính thể cộng hòa đại nghị Chính phủ chỉ chịu
trách nhiệm trƣớc Nghị viện và ở chính thể cộng hòa tổng thống Chính phủ
chỉ chịu trách nhiệm trƣớc Tổng thống thì ở mô hình này Chính phủ chịu
trách nhiệm trƣớc cả Nghị viện và Tổng tống.
Theo quy định của Hiến pháp Pháp năm 1958 thì Nghị viện Pháp gồm
hai viện: Thƣợng viện và Hạ nghị viện trong đó Thƣợng viện gồm 321 thành
viên, Hạ nghị viện gồm 577 thành viên. Nghị viện có chức năng xem xét
thông qua luật và biểu quyết ngân sách; thực hiện giám sát các cơ quan hành
pháp thông qua hoạt động chất vấn tại hội trƣờng hoặc thành lập các cơ quan
điều tra. Nghị viện là cơ quan hình thành do bầu cử, đại diện cho tầng lớp dân
cƣ trong xã hội.
Đứng đầu Chính phủ là Thủ tƣớng, đặc điểm này giống chính thể cộng
hòa đại nghị nhƣng Chính phủ lại đặt dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng
thống, điều này giống chính thể cộng hòa tổng thống.
Tổng thống chủ trì các phiên họp Hội đồng Bộ trƣởng
[13, Điều 9]; Tổng thống bổ nhiệm Thủ tƣớng. Tổng thống miễn
nhiệm Thủ tƣớng khi có đơn từ chức của Chính phủ do Thủ tƣớng
trình lên. Theo đề nghị của Thủ tƣớng, Tổng thống bổ nhiệm, miễn

nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Chính phủ [13, Điều 8;]

14
Tổng thống chủ trì các phiên họp Hội đồng Bộ trƣởng [13, Điều 9];
Trong trƣờng hợp đặc biệt, Thủ tƣớng có thể thay thế Tổng thống chủ
trì cuộc họp của Hội đồng Bộ trƣởng với điều kiện có uỷ quyền của
Tổng thống và có một chƣơng trình nghị sự cụ thể [13, Điều 21].
Các chính sách sau khi đƣợc Tổng thống thông qua thì Thủ tƣớng có
trách nhiệm lãnh đạo Chính phủ thực thi chính sách của Tổng thống và chịu
trách nhiệm trƣớc Tổng thống: “Tổng thống công bố các đạo luật trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày đạo luật được chính thức thông qua và được chuyển
cho Chính phủ” [13, Điều 10]. Từ những phân tích trên cho thấy, Tổng thống
là ngƣời trực tiếp lãnh đạo hành pháp đây là đặc điểm quan trọng của chính
thể cộng hòa tổng thống.
Về Chính phủ, theo quy định tại Điều 20 của Hiến pháp 1958 của Pháp
“Chính phủ có chức năng xây dựng và thực hiện các chính sách quốc gia.
Chính phủ nắm giữ, điều hành hệ thống hành chính và các lực lượng vũ
trang” [13, tr.212]. Chính phủ chịu trách nhiệm trƣớc Nghị viện. Đứng đầu
chính phủ là Thủ tƣớng. Thủ tƣớng lãnh đạo các hoạt động của Chính phủ và
chịu trách nhiệm về quốc phòng, đảm bảo việc thực hiện các luật và có quyền
ban hành các văn bản pháp quy, bổ nhiệm các chức vụ dân sự và quân sự. Thủ
tƣớng có thẩm quyền đề nghị Tổng thống bổ nhiệm và bãi nhiệm các Bộ
trƣởng, có quyền đƣa ra các dự án luật và đề nghị phiên họp bất thƣờng, đề
nghị họp Uỷ ban hỗn hợp giữa Thƣợng nghị viện và Quốc hội để giải quyết
các bất thƣờng trong quá trình thông qua luật. Giống nhƣ chính thể cộng hoà
đại nghị, Chính phủ Pháp có Thủ tƣớng đứng đầu, nhƣng thật ra Chính phủ
đặt dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng thống.
1.1.2. Chính thể quân chủ
“Thuật ngữ quân chủ bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “Monosarchy” (đƣợc
ghép từ hai từ “monos”có nghĩa là “một” và “sarchy” có nghĩa là chính

quyền), tức là chính quyền nằm trong tay một người” [5, tr. 21]. Vua là ngƣời

15
đứng đầu nhà nƣớc, có quyền lực tối cao, đƣợc hình thành do “cha truyền con
nối”, mệnh lệnh của Vua là tối thƣợng, thần dân bắt buộc phải tuân theo trong
mọi trƣờng hợp. Thần dân trong chính thể này không đƣợc tham gia vào bất
kỳ hoạt động nào của nhà nƣớc. Mô hình này phổ biến trong thời kỳ chiến
hữu nô lệ và phong kiến.
Mô hình quân chủ thƣờng đƣợc tổ chức thành quân chủ lập hiến và
quân chủ tuyệt đối.
1.1.2.1. Quân chủ lập hiến: Ở loại hình chính thể này chia làm hai
dạng: chính thể quân chủ đại nghị và chính thể quân chủ nhị nguyên.
Quân chủ đại nghị, đây là mô hình phổ biến ở những nƣớc còn duy trì
chế đọ vƣơng quyền nhƣ: Anh, Nhật bản… Đây là loại hình tổ chức quyền
lực nhà nƣớc vừa đảm bảo quyền lợi thuộc về nhân dân vừa đảm bảo quyền
lợi cho giai cấp tƣ sản đã lỗi thời. bởi lẽ nhân dân ở các quốc gia này vẫn còn
sự tôn kính, lòng mến mộ với nhà Vua hay Nữ hoàng của đất nƣớc mình.
Mô hình quân chủ ở Anh là một ví dụ điển hình của chính thể quân chủ
đại nghị. Nguyên thủ quốc gia trong chính thể này đƣợc hình thành do thế tập
truyền ngôi, nhà vua đóng vai trò hành pháp tƣợng trƣng, trên thực tế thì Vua
không tham gia vào công việc Nhà nƣớc theo những nguyên tắc sau đã trở
thành thành ngữ dân gian:
Nhà vua trị vị nhƣng không cai trị
Nhà vua không bao giờ làm sai
Nhà vua không hại ai cả
Nhà vua không chịu trách nhiệm gì
Nhà vua không có quyền nên không gánh vác trách nhiệm [5, tr.65].
Vai trò thực sự của nhà Vua hay Nữ hoàng chỉ phát huy tác dụng khi
đất nƣớc có chiến tranh. Quyền lực của Nguyên thủ quốc gia trong chính thể
này sẽ bị tƣớc bỏ dần dần phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng tƣ sản. Ở


16
thời kỳ đầu cách mạng, giai cấp tƣ sản khi chƣa đánh đổ hoàn toàn đƣợc giai
cấp phong kiến thì quyền lực của Nguyên thủ quốc gia sẽ đƣợc nhƣờng dần
cho cho cơ quan lập pháp đó chính là Quốc hội, dần dần khi theo tiến trình
lịch sử, giai cấp tƣ sản đã khẳng định đƣợc chỗ đứng cũng nhƣ vị thế của giai
cấp mình thì quyền lực của Nguyên thủ quốc gia tiếp tục nhƣờng cho cơ quan
hành pháp mà ngƣời đứng đầu là Thủ tƣớng. Tính hình thức của Nữ hoàng
Anh đẫn đến một sự kiện:
Vào những năm của thế kỷ XX, một Nghị sỹ thuộc Công
đảng, ông W.Benn trình lên Nghị viện bản dự luận xoá bỏ chế độ
quân chủ ra khỏi đời sống chính trị. Nhƣng xét thấy Nữ hoàng vẫn
còn những vai trò nhất định trong xã hội, Nghị viện Anh đã gạt bỏ
dự luật này. Với đầu óc “hoài cổ thực dụng” ngƣời Anh vẫn mến
mộ Nữ hoàng và Hoàng gia. Đây là biểu tƣợng của nƣớc Anh thống
nhất. Trong lúc Nội các tƣợng trƣng cho “uy quyền” thì Nữ hoàng
tƣợng trƣng cho “chính đáng” [5, tr.66].
Vị trí vai trò của nguyên thủ quốc gia trong chính thể này chỉ mang tính
tƣợng trƣng, vai trò thực sự của họ phát huy khi nền an ninh của quốc gia bị
xâm phạm. Khi đó với cƣơng vị là Nữ hoàng, là ngƣời đứng đầu, biểu tƣợng
cho sự bền vững của dân tộc sẽ đứng lên kêu gọi tinh thần yêu nƣớc, sự hy
sinh của thần dân để bảo vệ đất nƣớc khỏi chiến tranh. Điều này cho thấy
nhân dân của các quốc gia theo hình thức chính thể này rất mến mộ và có
niềm tin, có lòng kính trọng đối đối với Nguyên thủ của quốc gia mình đặc
biệt trong tình thế đất nƣớc nguy nan. Đây là lý do để tồn tại chế định Nguyên
thủ quốc gia ở các nƣớc theo hình thức quân chủ đại nghị. Trong Nghị viện có
hẳn một Viện của giai cấp tƣ sản đó là Thƣợng viện, điều này nhằm đảm bảo
cho quyền lợi của giai cấp tƣ sản đã lỗi thời.
Quyền lực nhà nƣớc trong Chính thể này thực sự nằm trong tay Nghị


17
viện. Nghị viện đóng vai trò là cơ quan tối cao, đƣợc quyền giải quyết tất cả
các công việc của nhà nƣớc. Ngoài thực hiện chức năng lập pháp thì Nghị
viện phải thành lập Chính phủ, trong trƣờng hợp không thành lập đƣợc Chính
phủ thì Nghị viện giải tán. Chính phủ do Nghị viện thành lập (cụ thể là do Hạ
viện – cơ quan đại diện quyền lợi cho nhân dân), chịu trách nhiệm trƣớc Hạ
Nghị viện chứ không chịu trách nhiệm trƣớc nhà Vua. Đây là đặc điểm chính
yếu của chế độ đại nghị kể cả quân chủ hay cộng hòa.
- Chính thể quân chủ nhị nguyên:
Đây là loại hình tổ chức nhà nƣớc, trong đó quyền lực nhà
nƣớc đƣợc chia đều cho hai cơ quan cơ bản của cấu trúc nhà nƣớc
là quyền lực Nghị viện và quyền lực của Vua. Các Bộ trƣởng do
Nhà vua bổ nhiệm, vừa chịu trách nhiệm trƣớc Nhà vua vừa chịu
trách nhiệm trƣớc Nghị viện. Đây là loại hình tồn tại thời kỳ đầu
của cách mạng tƣ sản. Thời kỳ quá độ chuyển chính quyền từ tay
giai cấp phong kiến sang tay giai cấp tƣ sản [5, tr.63-64].
1.1.2.2. Chính thể quân chủ tuyệt đối
Đây là mô hình tổ chức Bộ máy nhà nƣớc mà quyền lực tối cao thuộc
về Vua, ý chí của Vua là tối thƣợng, các quan lại, thần dân phải tuyệt đối
phục tùng trong mọi trƣờng hợp. Vua trong chính thể này không hình thành
thông qua con đƣờng Nghị viện hay dân cử mà bằng hình thức “cha truyền
con nối”, do vậy dù các thần dân muốn hay không muốn vị Vua này đảm
nhiệm vai trò Nguyên thủ quốc gia thì cũng không có ý nghĩa gì, bởi thần dân
trong chính thể này không có bất kỳ một quyền lực nào, không tham gia vào
công việc của Nhà nƣớc. Họ không đƣợc làm chủ bản thân, thậm chí ngay cả
ý chí của mình cũng bị phụ thuộc vào vị Vua. Thậm chí ở một số quốc gia
Vua đƣợc ví nhƣ hiện thân của Thƣợng đế, có yếu tố thần quyền. Các quan lại
trong bộ máy do Vua lập ra, giúp việc cho Vua, chịu trách nhiệm trƣớc Vua,

18

nhà vua có quyền bãi miễn bất cứ lúc nào nếu không tuân phục theo mệnh
lệnh của Vua.
Nguồn gốc hình thành nền quân chủ chuyên chế trong xã hội xuất phát
từ nhu cầu tập trung thống nhất quyền lực trong xã hội. Khi lợi ích của toàn
xã hội bị đe dọa tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu cần tập trung thống nhất quyền lực
để bảo vệ lợi ích đó. Đây cũng là tiền đề cho sự ra đời của nền quân chủ
chuyên chế. Trong lịch sử có nhiều nguyên nhân cho sự tồn tại nền quân chủ
chuyên chế. Về mặt chủ quan nhìn một cách tổng thể trình độ nhận thức của
nhân dân thời kỳ xƣa còn hạn chế hơn nữa lại bị tôn giáo chi phối. Do vậy
ngƣời dân quan niệm rằng Vua là sản phẩm của thƣợng đế, mang yếu tố thần
quyền. Nắm bắt đƣợc tâm lý đó thì những vị Vua cũng dựa vào tôn giáo để lý
giải nguồn gốc ra đời của quyền lực và cũng để nâng cao quyền năng trong
tay mình nhƣ quyền năng của chúa trời. Cùng với tiến trình của lịch sử đã có
nhiều triều đại nối nhau nhƣng không có sự thay đổi về thể chế nhà nƣớc mà
chỉ có sự thay đổi về dòng họ. Mặt khác trong xã hội xuất hiện những cá nhân
tài năng xuất sắc, có tài thao lƣợc quân sự tiến hành những cuộc chiến tranh
xâm lƣợc vùng đất mới họ trở thành Vua của vùng đất đó. Về mặt khách
quan, những mâu thuẫn về chính trị suy cho cùng cũng xuất phát từ mâu
thuẫn kinh tế trong xã hội. Với các quốc gia mà nền nông nghiệp là chủ đạo,
cây lúa đóng vai trò là cây lƣơng thực chính đòi hỏi phải có hệ thống thủy lợi
tốt. Hoạt động xây dựng các công trình thủy lợi đòi hỏi phải có sự tập trung
lƣợng lớn ngƣời và sự quản lý tập trung thống nhất. Nhu cầu tập trung thống
nhất còn thể hiện rõ vào giai đoạn cuối chế độ phong kiến và giai đoạn đầu
của quá trình hình thành chủ nghĩa tƣ bản. Mâu thuẫn giữa nông dân và quý
tộc phong kiến bị đẩy lên cao đe dọa lợi ích không chỉ của giai cấp phong
kiến mà cả tầng lớp chính trị, do vậy đòi hỏi cần có sự thống nhất quyền lực.
Thời kỳ phong kiến đất đai cũng tƣợng trƣng cho uy quyền. Các vị Vua nắm

19
càng nhiều đất đai càng thể hiện tiềm lực kinh tế của mình. Lãnh thổ càng

rộng lớn lại càng đòi hỏi sự thống nhất, tập trung quyền lực càng cao. Củng
cố vị trí của các vị Vua còn phải kể đến sự ảnh hƣởng của tôn giáo đến đời
sống ngƣời dân.
Đặc biệt sự ảnh hƣởng của Nho giáo không chỉ trong việc
ủng hộ nền quân chủ chuyên chế trong nội dung giáo lý mà những
nội dung đó còn chuyển hóa thành những giá trị mang tính đạo lý,
luân lý trong xã hội. Ví dụ: Trung với Vua là giáo lý Nho giáo
nhƣng nó cũng là một trong những chuẩn mực đạo lý xã hội mà dựa
vào đó con ngƣời đánh giá, xem xét những xử sự trong xã hội. Nhƣ
vậy tƣ tƣởng chính trị và những yếu tố đạo lý có sự thống nhất cao
độ. Thần dân ủng hộ nhà vua không phải họ đƣợc giáo dục và bị ép
buộc phải làm nhƣ vậy mà họ thấy đó là một nghĩa vụ đạo lý, một
việc tự nguyện và rất cao đẹp [11].
Tóm lại nền quân chủ chuyên chế tồn tại trong những điều kiện, hoàn
cảnh nhất định xuất phát từ nhu cầu tập trung thống nhất quyền lực trong
xã hội. Theo sự phát triển của xã hội thì đến nay nền quân chủ chuyên chế
đã tiêu vong.
1.2. Việt Nam: dân chủ từ nội dung đến hình thức
Ngay tại Bản tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 năm 1945 Bác đã
khẳng định hình thức chính thể của nhà nƣớc ta là chính thể cộng hoà: “…vì
những lý lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt nam dân chủ
cộng hoà…” [16]. Sự khẳng định trên của Ngƣời còn xuyên suốt không chỉ ở
bản Hiến pháp đầu tiên 1946 mà còn trong các bản Hiến pháp sau này. Theo
định nghĩa của Hồ Chí Minh: “chính chế độ dân chủ cộng hoà là chế độ dân
chủ nhân dân” [18, tr.549]. Đây là một chế độ chính trị xã hội xuất hiện từ
những năm 40 của thế kỷ XX ở những nƣớc xã hội chủ nghĩa hoặc ở những

20
nƣớc có khuynh hƣớng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của đấu tranh giải phóng
dân tộc chống chủ nghĩa để quốc, xoá bỏ ách áp bức bóc lột của thực dân, địa

chủ phong kiến, dựa trên cơ sở liên minh công - nông - tri thức.
Từ hàng ngàn năm trƣớc, chế độ chính trị nƣớc ta là quân chủ chuyên
chế nhƣng từ khi nƣớc ta giành đƣợc độc lập, nhà nƣớc dân chủ nhân dân ra
đời, nƣớc nhà có bản Hiến pháp đầu tiên. Trong bản Hiến pháp đó đã ghi
nhận một nội dung quan trọng khẳng định Việt Nam là một nƣớc dân chủ
cộng hoà, “quốc hiệu Việt Nam đã trở về với người Việt Nam, từ đây công
dân Việt sẽ sống với chế độ cộng hoà chứ không phải chế độ quân chủ nữa”
[27, tr.378]. Đó là một chế độ chính trị lý tƣởng mà nhân dân ta đã mong mỏi
xây dựng cho đƣợc ở nƣớc ta ngay từ phong trào Đông Du, Duy Tân và các
quan điểm đấu tranh cách mạng khác. Trong chế độ chính trị ấy, quyền lực
quốc gia, quyền lực chính trị đều thuộc về nhân dân không phải “của trời trao
cho vua” nhƣ chế độ chính trị truyền thống phƣơng Đông đã vạch ra sẵn. Điều
1, Hiến pháp 1946 nêu rõ: “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo” [21, tr.8]. Ở tất cả các bản Hiến pháp Việt Nam đều khẳng định một nội
dung xuyên suốt không thay đổi về bản chất Nhà nƣớc ta là quyền lực nhà
nƣớc thuộc về nhân dân. Mong muốn xây dựng một xã hội dân chủ thực sự
của nhân dân không chỉ riêng có Bác mà rất nhiều Nguyên thủ quốc gia khác
cũng mong muốn.
Ngay tại Mỹ, nhân dịp khánh thành nghĩa trang Gettysburg, tổng thống
Abraham Lincoln đã đọc một bài diễn văn dài từ 2 đến 3 phút, bài diễn văn
đƣợc đọc vào ngày 19 tháng 11 năm 1863, giữa lúc ở Mỹ đang diễn ra cuộc
nội chiến lớn lao, đó là cuộc chiến của một nhóm các tiểu bang miền Nam
muốn tách ra khỏi liên bang quốc gia. Trong bài diễn văn của mình Tổng
thống đã nhắc lại Tuyên ngôn độc lập năm 1776 với câu nói nổi tiếng: “mọi

×