LỜI NÓI ĐẦU
Cách đây 60 năm, chỉ sau mấy tháng giành được độc lập, ngày 6-1-1946, cuộc
Tổng tuyển cử đầu tiên theo nguyên tắc dân chủ, bỏ phiếu kín đã thành công rực rỡ,
bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới. Sự kiện này đã đi vào lịch sử nước
nhà như một mốc son chói lọi, đánh dấu việc khai sinh Quốc hội của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, ngày nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
Sáu mươi năm qua, Quốc hội nước ta đã trải qua những giai đoạn phát triển hào
hùng với 11 khóa hoạt động. Lịch sử phát triển của Quốc hội gắn liền với lịch sử cách
mạng Việt Nam, Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là cơ quan đại diện
dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực cao nhất của Việt Nam.
I- QUYỀN LỰC CỦA QUỐC HỘI QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT
NAM.
Trong bản Hiến pháp 1946, điều 22 quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan
có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” đã khẳng định vị trí của
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đến bản Hiến pháp 1959, điều 43
cũng khẳng định “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa”, và “là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa”- Điều 44 HP 1959. Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định
vị trí của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam như Hiến pháp năm 1959 đã quy định. Điểm mới trong bản
Hiến pháp này là mở rộng phạm vi thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước : “Quốc hội quyết định những chính sách cơ
bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, những quy
tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt
động của công dân”- Điều 82 HP 1980. Bên cạnh đó, Quốc hội còn được quy định có
quyền “giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.
1
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định vị trí của Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Điểm sửa đổi quan trọng trong Hiến pháp năm 1992 là bãi bỏ
quy định Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét
thấy cần thiết của Hiến pháp năm 1980. Đến năm 2001, Hiến pháp 1992 được sửa đổi,
bổ sung, trong đó có một số quy định mới điều chỉnh nhiệm vụ quyền hạn của Quốc
hội nhằm khẳng định vai trò của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước. Cụ thể là ở Điều 84 của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo
Nghị quyết số 51/2001/QH10 quy định Quốc hội: “phân bổ ngân sách trung ương”;
“quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước”; “phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước
về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với
những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” và “phê chuẩn hoặc
bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký”. Vai trò của Quốc hội còn được
tăng cường trong việc xem xét và quyết định các vấn đề về nhân sự cấp cao. Điều
khoản sửa đổi năm 2001 bảo đảm Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền quyết định
nhân sự cấp cao của nhà nước. Trong Báo cáo trình Quốc hội về vấn đề này, Uỷ ban
dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 cho rằng đây là vấn đề
quan trọng, phải thuộc thẩm quyền của Quốc hội, không nên giao cho cơ quan khác
thực hiện.
II- TẠI SAO QUỐC HỘI LÀ CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
CAO NHẤT?
Chủ quyền nhân dân là thống nhất và cao nhất. Quốc hội là cơ quan duy nhất do
nhân dân bầu ra và cũng là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân
dân. Quyền lực của Quốc hội bắt nguồn trực tiếp từ nhân dân, do đó, quyền lực của
Quốc hội chính là quyền lực được nhân dân ủy quyền. Quốc hội thay mặt nhân dân
quyết định và thực hiện quyền lực Nhà nước thống nhất trong của nước. Quốc hội là
cơ quan duy nhất do nhân dân bầu ra và cũng là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm
2
trực tiếp trước nhân dân. Tính đại diện tối cao của Quốc hội được biểu hiện cụ thể như
sau:
1. Thể thức thành lập.
Quốc hội do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội là
cơ quan Nhà nước duy nhất ở nước ta do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ
thông, bình đảng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ngoài Quốc hội ra thì “không có cơ quan
nhà nước nào lại được nhân dân bầu ra một cách trực tiếp”. Bầu cử đại biểu Quốc hội
là kết quả lựa chọn của nhân dân.
2. Cơ cấu thành phần.
Các đại biểu trong Quốc hội không phải là đại diện cho một đảng phái nào mà là
đại diện cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Thành phần của Quốc hội là những đại biểu
ưu tú, tiêu biểu cho những giai tầng trong xã hội, cho các vùng lãnh thổ. Theo quy
định của Hiến pháp và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, tất cả các công dân Việt Nam
từ đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và từ đủ 21 tuổi
trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội đại diện cho các
tầng lớp nhân dân, từ đại diện của nông dân đến đại diện của đội ngũ trí thức, các tổ
chức tôn giáo, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội - nghề
nghiệp, đại diện cho các giới .v.v. Tính đại diện cao nhất của Quốc hội được thể hiện
không chỉ ở thành phần, cơ cấu đại biểu Quốc hội mà còn được thể hiện ở vai trò của
đại biểu Quốc hội. Người đại biểu Quốc không chỉ đại diện cho tiếng nói của cử tri nơi
mình được bầu mà còn đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng của cử tri cả nước.
3. Mối quan hệ của Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác.
Bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức thành bốn phân hệ cơ quan: cơ quan
quyền lực nhà nước gồm cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất- Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp; hệ thống cơ quan hành chính gồm Chính phủ và Ủy ban nhân dân
các cấp; Hệ thống cơ quan xét xử gồm Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân các
cấp; hệ thống Viện kiểm sát gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Việc kiểm sát nhân
dân các cấp và viện Kiểm sát quân sự. Xem xét Quốc hội trong mối quan hệ với những
cơ quan nhà nước này sẽ thấy rõ hơn về quyền lực tối cao của Quốc hội.
3
a) Mối quan hệ của Quốc hội với Chủ tịch nước.
Đây là mối quan hệ giữa cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân với người đứng
đầu Nhà nước, thay mặt cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước là người
do Quốc hội bầu ra, trong hoạt động, Chủ tịch nước phải báo cáo công tác trước Quốc
hội và trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn
bản của Chủ tịch nước nếu thấy các văn bản trái với các quy định của Hiến pháp, luật
và nghị quyết của Quốc hội.
b) Mối quan hệ của Quốc hội với Chính phủ.
Đây là mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp với cơ quan hành pháp. Chính phủ
với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, do Quốc hội thành lập, phải chịu trách
nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội và có
nhiệm vụ đảm bảo thi hành các văn bản pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Các văn bản của Chính phủ ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội và sẽ bị đình chỉ, bãi bỏ nếu có dấu hiệu vi
phạm. Các thành viên Chính phủ có thể bị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm nếu
không hoàn thành nhiệm vụ.
c) Mối quan hệ của Quốc hội với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Đây là mối quan hệ giữa cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan do Quốc hội lập ra, vì vậy, trong
hoạt động phải báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và phải chịu sự
giám sát tối cao của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao. Các văn bản của Tòa án nhân dân tối cao ban hành phải phù hợp
với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
4
III- QUYỀN LỰC TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI ĐƯỢC THỂ HIỆN NHƯ
THẾ NÀO?
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực Nhà nước thống nhất. Tính quyền lực nhà nước của Quốc hội thể hiện ở
thẩm quyền của Quốc hội và được cụ thể hoá thành các chức năng và nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể.
1. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí Nhà
nước, thành lập các quy định của Hiến Pháp, luật, những quy định chung mang tính
bắt buộc, tính cưỡng chế Nhà nước đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
Xuất phát từ vị trí là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, chỉ Quốc hội mới có
quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các
quan hệ cơ bản của xã hội, các quy phạm pháp luật do Quốc hội thông qua được tổ
chức và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của toàn bộ máy Nhà nước và toàn xã hội.
Trước hết, cần phân biệt thế nào là hoạt động lập hiến và lập pháp trong chức
năng của Quốc hội. Hoạt động lập hiến và hoạt động lập pháp khác nhau ở đối tượng
điều chỉnh, trình tự thủ tục sửa đổi và ban hành, và kết quả tất nhiên là tạo ra những
văn bản có giá trị pháp lý khác nhau. Đối tượng mà hoạt động lập pháp hướng tới là
Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, ảnh hưởng đến toàn bộ cơ
chế phân phối quyền lực của nhà nước, qui định những vấn đề quan trọng nhất trong
cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn
hoá - xã hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước, về quan hệ giữa Nhà nước và cá
nhân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... Bất kì sự thay đổi nhỏ nào trong Hiến
pháp cũng làm ảnh hưởng đến quyền lực của cơ quan này trong mối quan hệ đối trọng
về quyền lực với các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là Quốc hội. Quyền lực Quốc
hội được quy định trong Hiến pháp. Trong khi đó, đối tượng chịu sự điều chỉnh của
hoạt động lập pháp là pháp luật, Quốc hội soạn thảo và ban hành ra luật nhằm điều
chỉnh những mối quan hệ xã hội khác nhau. Có thể nói luật là sản phẩm của Quốc hội
5