ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HOÀNG GIANG
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG PHÁP LUẬT
HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY SƠN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hoàng Giang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 7
1.1. Các khái niệm công cụ 7
1.1.1. Giới, giới tính 7
1.1.2. Bình đẳng giới 12
1.1.3. Khái niệm Hôn nhân và gia đình 15
1.2. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong hôn nhân và gia đình 17
1.2.1. Vai trò pháp luật trong việc thúc đẩy bình đẳng giới 17
1.2.2. Khái quát các quy định của pháp luật quốc tế về bình đẳng giới 19
1.3. Một số yếu tố tác động, ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật
HN&GĐ ở Việt Nam 25
1.3.1. Những yếu tố tích cực 25
1.3.2 Những yếu tố gây cản trở đến việc thực thi pháp luật HN&GĐ ở
Việt Nam 26
1.4. Các điều kiện cơ bản bảo đảm thực thi pháp luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam 26
1.4.1. Điều kiện về thể chế 26
1.4.2. Điều kiện tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực 27
1.4.3. Điều kiện về nguồn lực tài chính. 27
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM 28
2.1. Quá trình phát triển pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam từ lăng kính bình đẳng giới 28
2.2. Thực trạng bảo đảm bình đẳng giới trong pháp luật HN&GĐ
Việt Nam 30
2.2.1. Bình đẳng giới thể hiện trong các nguyên tắc cơ bản của chế độ
Hôn nhân và gia đình Việt Nam 30
2.2.2. Bình đẳng giới trong kết hôn 35
2.2.3. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa vợ và chồng 43
2.2.4. Bình đẳng giới trong quan hệ giữa cha mẹ và con 60
2.2.5. Bình đẳng giới trong việc xác định cha, mẹ, con 67
2.2.6. Bình đẳng giới trong chế định ly hôn 77
2.3. Những giá trị tiến bộ và những vấn đề chưa được giải quyết
(bỏ ngỏ) trong pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành 85
2.3.1. Về những giá trị tiến bộ 85
2.3.2. Một số hạn chế trong pháp luật về Hôn nhân và gia đình 87
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU LỰC THI HÀNH PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH VIỆT NAM 92
3.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật về Hôn nhân và gia đình
trong thời gian tiếp theo 92
3.1.1. Về quyền kết hôn của cộng đồng LGBT 93
3.1.2. Về độ tuổi kết hôn 93
3.1.3. Về chế độ tài sản của vợ chồng 94
3.1.4. Quy định về quyền giám hộ, đại diện của vợ chồng 95
3.1.5. Về vấn đề ly thân 96
3.1.6. Các quy định về cấp dưỡng 98
3.2. Đề xuất, kiến nghị về bảo đảm thi hành pháp luật Hôn nhân
và gia đình 101
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý về
hôn nhân và gia đình đến các tầng lớp nhân dân trong xã hội 101
3.2.2. Nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền địa phương trong
việc bảo đảm quyền của phụ nữ và trẻ em trong các quan hệ
HN&GĐ 102
3.2.3. Bảo đảm sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong các phiên tòa
giải quyết, xét xử các việc, các vụ án về hôn nhân và gia đình 103
3.2.4. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước quản lý
nhà nước về bình đẳng giới và gia đình 104
3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về bình
đẳng giới trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình 104
3.2.6. Tăng cường các dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ cho nạn nhân của bạo lực
gia đình 105
KẾT LUẬN 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
CEDAW
: Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử đối với phụ nữ
CRC
: Công ước quốc tế về quyền trẻ em
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
ICCPR
: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
ICESCR
: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
LGBT
: Nhóm những người đồng tính, song tính và chuyển giới
UDHR
: Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1.
Phân biệt giữa Giới và Giới tính
8
Bảng 2.1:
Người đứng tên giấy tờ sở hữu/quyền sử dụng một
số tài sản phân theo thành thị - nông thôn
58
Bảng 3.1.
Kết quả hoạt động của “Ngôi nhà bình yên” từ năm
2007 đến 15/8/2014
106
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền khẳng định:
Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu
trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử
nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm
chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài
sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác…[18, Điều 2].
Quy định này khẳng định tính phổ quát (universal) của quyền con
người và mọi người sinh ra đều bình đẳng về quyền mà không bị phân biệt đối
xử bởi bất cứ yếu tố nào trong đó có yếu tố về giới tính.
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (HN&GĐ), giới, giới tính là vấn
đề khá nhạy cảm, liên quan đến quyền của các chủ thể tham gia quan hệ
HN&GĐ và do đó Nhà nước với tư cách là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ và thúc
đẩy nhân quyền trên các lĩnh vực của đời sống xã hội có trách nhiệm thể chế
hóa bình đẳng giới (BĐG) trong hệ thống pháp luật. Ở Việt Nam, Đảng và
Nhà nước đã không ngừng quan tâm hoàn thiện pháp luật HN&GĐ nhằm xây
dựng gia đình - nền tảng, tế bào của xã hội “ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, thực
sự là tế bào lành mạnh của xã hội” [13] phù hợp với truyền thống văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc thực thi các quy định
của pháp luật HN&GĐ, quyền con người, quyền bình đẳng giữa nam giới và
nữ giới đã từng bước được bảo đảm thực chất hơn, phụ nữ và trẻ em ngày
càng được bảo đảm tốt hơn các quyền của mình thay vì việc bị hạn chế bởi
những định kiến giới trong xã hội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, pháp luật HN&GĐ
đang đứng trước những thách thức do sự phát triển của nền kinh tế thị trường
2
và hội nhập quốc tế, như độ tuổi kết hôn giữa nam và nữ; quyền trong hôn
nhân của nhóm những người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) -
một trong những cộng đồng đang thu hút sự quan tâm, chú ý lớn của cộng
đồng quốc tế; vấn đề mang thai hộ; quan hệ tài sản giữa vợ và chồng; vấn đề
lựa chọn giới tính trước khi sinh… Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên của
thực tiễn xã hội, ngày 19/6/2014, Quốc hội đã thông qua Luật HN&GĐ 2014
thay thế Luật HN&GĐ năm 2000. Đây là dịp quan trọng để đánh giá những
giá trị tiến bộ trong Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000
và những vấn đề chưa được giải quyết trong Luật này nhằm định hướng tiếp
tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam trong thời gian tiếp
theo cũng như kiến nghị, đề xuất trong việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành Luật HN&GĐ năm 2014.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bình đẳng giới trong pháp luật hôn
nhân - gia đình Việt Nam” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan
trọng trong thời điểm hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề hoàn thiện pháp luật HN&GĐ để bảo vệ quyền của những chủ
thể tham gia quan hệ HN&GĐ đã có không ít những công trình nghiên cứu
dưới dạng đề tài khoa học, bài viết, tham luận về vấn đề này, cụ thể như:
- Xác định cha, mẹ, con dưới góc độ BĐG – Ths. Nguyễn Thị Lan
đăng trên địa chỉ:
- Bài viết: Về quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình -
tác giả Hoa Hữu Vân đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề
sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ năm 2000;
- Bài viết: Sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình, một số vấn đề cần giải
quyết của tác giả Nguyễn Mạnh Hà, trường Đại học Luật Hà Nội đăng trên trang
web:
3
- Bài viết: Hôn nhân cùng giới - Xu hướng thế giới và kinh nghiệm
cho Việt Nam, của tác giả Nguyễn Thu Nam đăng trên tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ năm 2000;
- Bài viết: Vấn đề cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính của
tác giả Bùi Thị Mừng, đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề
sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ năm 2000;
- Bài viết: Sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ - Chú trọng quyền lợi
của phụ nữ của tác giả Phạm Mạnh Hà đăng trên địa chỉ trang web:
congly.com.vn/phap-luat/dien-dan-cong-ly;
Những công trình nghiên cứu này đã cung cấp, bổ sung, hoàn thiện
những luận cứ hết sức quan trọng và đưa ra những đề xuất, kiến nghị xác
đáng cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật HN&GĐ, bảo vệ quyền con người
của các thành viên tham gia quan hệ HN&GĐ. Tuy nhiên, do Luật HN&GĐ
mới được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2014, do đó, chưa có nhiều các các
bài nghiên cứu chuyên sâu về những giá trị tiến bộ/những vấn đề chưa được
giải quyết trong Luật này, cũng như chưa có các bài viết liên quan nhằm đề
xuất, kiến nghị xây dựng, hoàn thiện các quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật HN&GĐ năm 2014. Do đó, tác giả nghiên cứu luận văn mong
muốn nghiên cứu vấn đề BĐG trong pháp luật HN&GĐ vào thời điểm Luật
HN&GĐ vừa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thông qua với mục đích đánh giá những giá trị tiến bộ đạt được trong thúc đẩy
và bảo vệ nhân quyền mà trực tiếp là quyền BĐG giữa các cá nhân trong lĩnh
vực HN&GĐ, những vấn đề còn bị bỏ ngỏ trên cơ sở đó đề xuất những giải
pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật
HN&GĐ vào thực tiễn cuộc sống trong thời gian tới.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp
4
luật về HN&GĐ trong mối quan hệ với bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
từ góc độ BĐG, thông qua đó đánh giá những giá trị tiến bộ đạt được trong
Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ (năm 2000) và những vấn đề
chưa được giải quyết trong Luật này nhằm định hướng tiếp tục hoàn thiện
pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam, đặc biệt là kiến nghị, đề xuất trong việc quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ năm 2014.
Về phạm vi, Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật
HN&GĐ Việt Nam từ góc độ BĐG, trong đó tập trung chủ yếu vào Luật
HN&GĐ năm 2014 với những vấn đề cơ bản gồm: các nguyên tắc cơ bản của
chế độ HN&GĐ; kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; quan hệ giữa cha mẹ và
con; xác định cha, mẹ, con và về ly hôn.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp
luật và xây dựng pháp luật.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng
hợp, thống kê, so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong nhiệm vụ
của Luận văn.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên một các toàn diện về
những giá trị tiến bộ đạt được của Pháp luật HN&GĐ hiện hành mà trực tiếp
là Luật HN&GĐ năm 2014 so với các quy định của pháp luật HN&GĐ trước
đó trong mối quan hệ với bảo vệ nhân quyền, bảo đảm quyền bình đẳng thực
chất giữa nam giới và nữ giới trong quan hệ HN&GĐ.
Bên cạnh việc phân tích, chỉ ra những giá trị tiến bộ trong bảo vệ
quyền con người, quyền bình đẳng không phân biệt đối xử về giới tính, Luận
5
văn cũng đã mạnh dạn đưa ra những ý kiến, quan điểm mang tính cá nhân về
những hạn chế, những điểm cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật
về HN&GĐ, bảo đảm tính tương thích với các chuẩn mực quốc tế về nhân
quyền và đặc biệt là bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người trong lĩnh vực
HN&GĐ ở Việt Nam - một lĩnh vực vốn chịu sự chi phối nặng nề bởi những
tư tưởng, định kiến giới.
Trên cơ sở đánh giá những điểm còn hạn chế trong pháp luật
HN&GĐ, Luận văn đã đề ra những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp
luật về HN&GĐ trong thời gian tiếp theo; những đề xuất, kiến nghị mang tính
giải pháp nhằm đưa các quy định của pháp luật HN&GĐ vào thực tiễn cuộc
sống; bảo đảm một cách thực chất quyền con người, quyền bình đẳng không
bị phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào trong đó có lý do khác biệt về giới tính
trong các quan hệ HN&GĐ.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã nghiên cứu toàn diện các chế định về HN&GĐ trong
pháp luật HN&GĐ Việt Nam, mà trực tiếp là Luật HN&GĐ năm 2014 từ góc
độ BĐG, đánh giá những tiến bộ đạt được, những tác động tích cực đến bảo
vệ quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em - những đối tượng dễ bị tổn thương
trong xã hội. Cùng với đó Luận văn đã phân tích và chỉ ra những hạn chế của
pháp luật HN&GĐ trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền
BĐG của các cá nhân trong quan hệ HN&GĐ, trên cơ sở đó đưa ra những giải
pháp nhằm bảo vệ và thúc đẩy tốt hơn quyền con người, quyền bình đẳng
thực chất giữa nam giới và nữ giới trong các quan hệ HN&GĐ ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển
những vấn đề mang tính lý luận trong khoa học pháp lý BĐG trong HN&GĐ
- một trong những vấn đề hết sức được quan tâm hiện nay. Luận văn không
chỉ là tài liệu có giá trị tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa
6
học mà còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan hoạch định chính
sách về pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam, thông qua đó góp phần hoàn thiện
pháp luật HN&GĐ - công cụ hữu hiệu trong bảo đảm BĐG trong các quan hệ
HN&GĐ ở Việt Nam. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo có giá trị cho các
cá nhân có quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văn bao gồm 3 chương sau:
- Chương 1. Khái quát chung pháp luật quốc tế về bình đẳng giới
trong Hôn nhân và gia đình.
- Chương 2. Bình đẳng giới trong pháp luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam.
- Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu lực
thi hành pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Giới, giới tính
Dưới góc độ khoa học: Giới tính và giới là hai thuật ngữ đã trở nên
quen thuộc. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều người vẫn nhầm lẫn và tranh cãi
về ý nghĩa của hai khái niệm này hoặc cho rằng cả hai không có gì khác biệt
hoặc chỉ muốn nói đến hai nhóm người: phụ nữ và nam giới. Sự không rõ
ràng này thường dẫn đến những quan niệm không đúng về sự khác biệt giới
dẫn đến bỏ qua sự đa dạng của vấn đề giới trong xã hội. Do đó, phân biệt tách
bạch giữa hai khái niệm này là cần thiết, đặc biệt với những người làm công
tác liên quan đến bảo đảm bình đẳng giới hiện nay.
Theo Chương trình bình đẳng giới khu vực Đông Nam á (SEAGEP -
2001), giới và giới tính được định nghĩa như sau:
Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ
không thể thay đổi được. Chỉ có một số khác biệt nhỏ về vai trò của nam và
nữ về mặt sinh học và sinh lý trên cơ sở giới tính. Ví dụ như việc mang thai,
sinh nở và sự khác biệt về sinh lý có thể là do các đặc điểm giới tính.
Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò,
thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua quá
trình học tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do vậy giới có
thể thay đổi được. Ví dụ: nữ thường để tóc dài, nam thường để tóc ngắn.
Khác với vấn đề giới tính vốn chỉ đề cập tới sự khác biệt sinh học giữa
nam giới và phụ nữ, khái niệm giới đề cập đến những khác biệt về mặt xã hội
do các nhóm xã hội con người tạo ra. Những quan niệm về giới luôn nảy sinh
8
từ tính chất của các quan hệ xã hội và của những hình thái tổ chức xã hội khác
nhau [44]. Bản chất xã hội của giới được thể hiện rõ trong sự khác nhau giữa
các đặc tính và các hoạt động được coi là của nam giới và nữ giới khi thực
hiện so sánh trong các nền văn hoá, giữa các tầng lớp xã hội và các nhóm dân
tộc trong cùng một nền văn hoá, hoặc thay đổi theo thời gian [17].
Bảng 1.1. Phân biệt giữa Giới và Giới tính [1]
Giới
Giới tính
Giới mô tả chúng ta thể hiện nam
tính hoặc nữ tính
Giới tính mô tả
chúng ta là nam hay nữ
Giới là:
Được xây dựng nên bởi xã
hội - nó là những vai trò, trách
nhiệm và hành vi mong đợi ở
nam và nữ trong một văn hóa
hoặc xã hội cụ thể.
Văn hóa - những yếu tố
của giới khác nhau giữa các
nền văn hóa và bên trong các
nền văn hóa.
Những vai trò về giới là
được học tập - chúng phát
triển và thay đổi theo thời gian.
Giới tính là:
Sinh học - đó là những đặc
tính thể chất đã có từ khi chúng
ta sinh ra.
Phổ biến - những đặc tính
về tình dục giống nhau trên
toàn thế giới - nam giới có
dương vật và phụ nữ có âm đạo
ở tất cả các nước.
Bạn được sinh ra với giới
tính của bạn - điều này không
thể thay đổi.
Nguồn: Ban vì sự tiến bộ Phụ nữ ngành Tư pháp (2013), Tài liệu tập
huấn công ước CEDAW và các điều ước quốc tế có liên quan, Hà Nội.
Cụ thể những khác biệt về giới có thể xem xét ở các khía cạnh sau đây:
1.1.1.1. Về vai trò
Cả nam giới và nữ giới đóng nhiều vai trò trong xã hội và các vai
trò này là khác nhau theo giới. Các vai trò giới là tập hợp các hành vi ứng
9
xử mà xã hội mong đợi ở phụ nữ và nam giới liên quan đến những đặc
điểm và năng lực mà xã hội coi là thuộc về nam giới hoặc thuộc về phụ nữ
trong một xã hội hay một nền văn hóa cụ thể nào đó. Đó cũng là các mối
quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai nên làm gì, ai là người ra quyết định,
khả năng tiếp cận nguồn lực và các lợi ích [16]. Ví dụ: các nhóm dân tộc
khác nhau sẽ xác định vai trò của phụ nữ khác nhau, mặc dù chế độ gia
trưởng phụ quyền là chủ yếu ở đa số các nhóm dân tộc, thì chế độ mẫu hệ
vẫn còn tồn tại ở một số nhóm dân tộc thiểu số.
Do phụ nữ và nam giới thực hiện các vai trò giới khác nhau nên họ
cũng có những nhu cầu giới khác nhau.
1.1.1.2. Về Sự phân công lao động
Trong xã hội có một sự phân công lao động giữa nam giới và phụ nữ.
Sự phân công lao động theo giới đề cập đến công việc khác nhau của nam
giới và phụ nữ trong gia đình, trong sản xuất và trong cộng đồng. Sự khác
nhau này có liên quan đến vị trí quyền lực của mỗi giới và che giấu sự tồn tại
đáng kể của sự bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, nó ảnh hưởng và
khẳng định vị trí phụ thuộc của phụ nữ. Một số nhiệm vụ có truyền thống là
công việc của phụ nữ trong khi đó, các công việc khác có truyền thống là
công việc của nam giới. Công việc của phụ nữ thường được trả lương thấp và
bị coi thường, trong khi nam giới được giao công việc có tầm quan trọng về
mặt xã hội tương đối cao hơn [17].
Ở nông thôn, có sự khác biệt về thời gian làm việc giữa phụ nữ và
nam giới, tuy thời gian giành cho công việc tạo thu nhập là như nhau,
nhưng so với nam giới, phụ nữ phải mất thời gian gấp hai lần cho việc nhà
không được thù lao. Vì vậy phụ nữ lúc nào cũng mất thời gian làm việc
nhiều hơn đáng kể so với nam giới dù ở thời điểm nào trong cuộc đời mình
dẫn đến thời gian giành cho nghỉ ngơi của họ ít hơn khá nhiều so với nam
10
giới và cũng không có thời gian cho các hoạt động xã hội và học tập trao
đổi kinh nghiệm [27].
1.1.1.3. Về sức khỏe
Phụ nữ phải cáng đáng gánh nặng công việc vượt xa nam giới với thời
gian làm việc dài, ít có thời gian nghỉ ngơi dẫn đến hậu quả tiêu cực là họ
thường phải làm việc quá sức, điều này có nhiều tác động lên sức khỏe và thể
chất, đặc biệt là phụ nữ nông thôn khu vực có tỷ lệ phụ nữ ốm đau cao hơn
nhiều so với nam giới. Một khía cạnh khác về sức khỏe là phụ nữ không được
chăm sóc dinh dưỡng tốt bằng nam giới, khác biệt giới về tình trạng dinh
dưỡng của những người trưởng thành là lớn nhất ở khu vực nông thôn. Điều
này cho thấy khả năng tiếp cận của phụ nữ với các nguồn lực tương đối ít hơn
so với nam giới [27].
Sự khác biệt sức khỏe giữa nam giới và phụ nữ không chỉ do môi
trường, nuôi dưỡng và tập quán xã hội, mà còn do bẩm sinh, di truyền như:
nam giới có hệ xương lớn thích hợp cho những cộng việc nặng nhọc, nhiệm
vụ tái sản xuất xã hội bao gồm trách nhiệm sinh đẻ và chăm sóc con trẻ là
của phụ nữ.
1.1.1.4. Về tâm sinh lý
Lý thuyết cho rằng nam giới và phụ nữ có sự tiến hóa khác nhau về tác
phong và tư duy đã được chấp nhận rộng rãi [4]. Ví dụ: Nam giới có tâm lý cứng
cỏi, mạnh mẽ, hành động dựa vào lý trí… Phụ nữ thì dịu dàng, tình cảm…
1.1.1.5. Về Quan niệm xã hội
Khi sinh ra, con người không mang những đặc tính giới. Những đặc
tính giới chỉ được hình thành trong quá trình hoạt động ở gia đình và ngoài xã
hội. Bắt đầu từ khi sinh ra đứa trẻ đã được đối xử tùy theo trai hay gái. Mọi
người vẫn quen rằng, với trẻ gái thì cho chơi búp bê, dụng cụ nấu ăn. Cũng
bởi con người thường có suy nghĩ mang tính áp đặt về những gì mà nam và
11
nữ có khả năng và loại hoạt động mà họ nên làm, do đó ngay từ trong gia đình
con trai đã được học từ bố và con gái học được từ mẹ những quy tắc và kỳ
vọng về hành vi “nam” và hành vi “nữ” của mình. Chính những định kiến này
đã tác động làm ảnh hưởng đến cá nhân và những người xung quanh. Những
đặc điểm liên quan đến nam và nữ thường bị rập khuôn, mang tính cố định
(tương đối) và hầu như không có sự lựa chọn nào khác [50].
Những định kiến, quy chuẩn xã hội này đã ăn sâu vào tiềm thức của
mọi người. Do đó, làm cho định kiến giới tồn tại dai dẳng và xuất phát từ
những quan niệm xã hội tác động tới số lượng người rất lớn - đại đa số dân
cư. Ví dụ: trong xã hội còn nhiều quan niệm xã hội phân biệt giữa phụ nữ và
nam giới như: đặt phụ nữ vào vị trí của người chăm sóc, phải ở gần gia đình
và chăm sóc cho gia đình; nội trợ không phải là công việc của đàn ông; truyền
thống phụ hệ coi nam giới là trụ cột trong gia đình và là người ra quyết định.
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, Giới tính chỉ đặc điểm đực
(♂) và cái (♀) trong giới sinh vật. Ở người là toàn bộ những đặc điểm riêng
biệt tạo nên sự khác nhau giữa nam và nữ. Giới tính của con người có nguồn
gốc sinh học và nguồn gốc xã hội. Những đặc điểm giải phẫu và sinh lí của cơ
thể là tiền đề và cơ sở vật chất tạo nên sự khác biệt của giới tính. Tình cảm và
ý thức về giới chỉ được hình thành thông qua hoạt động và giao tiếp với người
khác, dưới ảnh hưởng của giáo dục và các điều kiện xã hội. Chính xã hội quy
định và đánh giá giới tính của con người về mặt xã hội, quy định sự phân
công lao động giữa nam và nữ, đòi hỏi ở mỗi giới phải có tiêu chuẩn đạo đức,
cách cư xử, tác phong, đặc điểm khác nhau [35].
Dưới góc độ pháp lý, hiện nay trong hệ thống văn bản pháp lý quốc tế
chưa có định nghĩa chính thức nào về các khái niệm giới, giới tính trong khi
bản thân các khái niệm này vẫn được sử dụng một cách phổ biến trong các
văn bản pháp lý quốc tế như Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, công ước
12
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICESCR) và công ước loại bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW).
Ở Việt Nam, Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2006 tại điều 5 quy định:
Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả
các mối quan hệ xã hội [35, Điều 5].
Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ [35, Điều 5].
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó [35, Điều 5]
Như vậy, về mặt pháp lý, định nghĩa về giới, giới tính được hiểu thống
nhất với nghĩa khoa học xã hội của nó, theo đó, giới tính là chỉ sự khác biệt về
mặt sinh học và giới là chỉ sự khác biệt về vị trí, vai trò và quan niệm của xã
hội về vị trí, vai trò của các giới trong xã hội.
1.1.2. Bình đẳng giới
Đây là khái niệm quan trọng, việc nhận thức đúng và đầy đủ về khái
niệm này là cơ sở đánh giá, xem xét một cách khách quan và đúng đắn về
mức độ BĐG trong pháp luật HN&GĐ, trên cơ sở đó có những đề xuất, kiến
nghị cụ thể về những giải pháp nhằm bảo đảm BĐG thực chất trong pháp luật
HN&GĐ Việt Nam hiện nay.
Vậy, khái niệm BĐG là gì? Hiện nay, công ước CEDAW sử dụng khái
niệm “bình đẳng giới” trong mối quan hệ chặt chẽ với nghĩa vụ quốc gia, cụ
thể như điểm a Điều 2 công ước CEDAW quy định các quốc gia thành viên
cần tiến hành: “Đưa nguyên tắc bình đẳng nam nữ vào Hiến pháp quốc gia
hoặc các văn bản pháp luật thích hợp khác nếu vấn đề này chưa được đề cập
13
tới và bảo đảm việc thực thi nguyên tắc này trong thực tế bằng pháp luật và
các biện pháp thích hợp khác” [20, Điều 2]. Thực chất khái niệm “bình đẳng
nam nữ” trong công ước CEDAW cũng có nghĩa là “bình đẳng giới” vì thực
chất xã hội chỉ có hai giới tính nam và nữ [29]. Tuy nhiên, công ước này
không đưa ra định nghĩa về “bình đẳng nam nữ” (bình đẳng giới) là gì? thay
vào đó, thuật ngữ “phân biệt đối xử với phụ nữ” được định nghĩa chi tiết ngay
tại Điều 1, theo đó:
Phân biệt đối xử đối với phụ nữ có nghĩa là bất kỳ sự phân
biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính làm ảnh
hưởng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ
nữ được công nhận, thụ hưởng, hay thực hiện các quyền con người
và những tự do cơ bản trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa, dân sự và các lĩnh vực khác trên cơ sở bình đẳng nam nữ bất kể
tình trạng hôn nhân của họ như thế nào [20, Điều 1].
Như vậy, có thể thấy, công ước CEDAW đã đề cập đến nguyên nhân
gây ra sự bất bình đẳng đối với phụ nữ và sự bất bình đẳng ở đây là tình trạng
mà ở đó các quyền con người của phụ nữ bị ảnh hưởng, tổn hại hoặc vô hiệu
hóa trong cả 03 cấp độ công nhận, thụ hưởng và thực hiện các quyền con
người trên thực tế. Từ khái niệm nêu trên về bất bình đẳng đối với phụ nữ có
thể hiểu bình đẳng nam nữ là sự bình đẳng về quyền được công nhận, thụ
hưởng và thực hiện các quyền con người trên thực tế.
Ở Việt Nam, khái niệm bình đẳng giới được Luật Bình đẳng giới định
nghĩa: “là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” [35, Điều 5].
Theo định nghĩa này, nội hàm của BĐG bao gồm: (1) nam và nữ có vị trí, vai
trò ngang nhau; (2) nam và nữ được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực
14
của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và (3) thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó. Như vậy, BĐG thực chất là bình đẳng
về vị trí, vai trò và bình đẳng về cơ hội cống hiến, cơ hội phát triển và cơ hội
thụ hưởng giữa nam giới và nữ giới trong gia đình cũng như trong xã hội.
Trên thực tế, vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến về vai trò của người phụ nữ
gắn với công việc chăm sóc gia đình và con cái. Đây được xác định là trách
nhiệm đương nhiên dựa vào yếu tố giới tính nam và giới tính nữ. Và điều này
đã tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, khi người vợ vì gắn với
chức năng chăm sóc gia đình và con cái, không ít trường hợp trong số họ phải
nghỉ làm, hệ quả tất yếu trở thành người sống phụ thuộc vào kinh tế của người
chồng; hoặc thậm chí có điều kiện đi làm thì họ vẫn không thoát khỏi trách
nhiệm đương nhiên là chăm sóc gia đình và con cái và không nhận được sự
chia sẻ, cảm thông từ phía người chồng. Điều này tạo nên sự bất bình đẳng
giữa nam và nữ vì lý do quan niệm phân biệt đối xử về vị trí, vai trò của nam
giới và nữ giới trong gia đình và trong xã hội.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra đó là khái niệm BĐG chỉ hàm ý đến sự
bình đẳng giữa nam giới và nữ giới đã toàn diện hay chưa? Trước tiên chúng ta
không thể phủ nhận quan niệm BĐG là bình đẳng giữa nam và nữ rất phổ biến
hiện nay. Tuy nhiên, ngay trong chính giới nam hoặc giới nữ lại có những bất
bình đẳng nhất định mà pháp luật Việt Nam còn đang bỏ ngỏ. Ví dụ, với một
người đàn ông dị tính (là người “bị hấp dẫn về mặt tình cảm và tình dục với
người khác giới tính, không bao giờ mong muốn mình có giới tính khác với giới
tính khi được sinh ra” [29] và một người đàn ông đồng tính (là người “bị hấp
dẫn với người cùng giới tính, không bao giờ mong muốn mình có giới tính khác
với giới tính khi được sinh ra” [29]) thực sự còn khác nhau rất nhiều ở sự kỳ
thị, phân biệt đối xử. Hiến pháp và pháp luật hiện hành không cấm nhưng cũng
không thừa nhận những người đồng tính kết hôn. Và như vậy, rõ ràng, ngay
15
trong chính một giới tính nam, người dị tính và người đồng tính đã có sự phân
biệt đối xử về quyền. Vì vậy, “Bình đẳng giới cần đề cập đến sự bình đẳng
ngay trong một giới (giữa các bản dạng giới, xu hướng tính dục” [29].
Hiện nay, ở các nước tiến bộ thường có sự ghi nhận về bình đẳng giữa
các xu hướng tính dục, bản dạng giới (ví dụ như cấm sự kỳ thị đồng tính),
nghĩa là hướng đến sự bình đẳng ngay trong cùng một giới. Như vậy, quan
niệm về BĐG phải rộng hơn, không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ bình đẳng
giữa nam và nữ. Các nước cũng thể hiện thái độ khác nhau đối với bình đẳng
về xu hướng tính dục, ví dụ như có nước cấm sự kỳ thị nhưng có nước lại cấm
hiện tượng đồng tính (44 quốc gia trên thế giới) [29], cấm tuyên truyền về
đồng tính (ví dụ như Thành phố Xanhpetecbua của Nga)… Việc ghi nhận
nguyên tắc cấm sự kỳ thị về xu hướng tính dục, bản dạng giới là điều hoàn
toàn phù hợp với xu hướng nhân quyền hiện nay. Chính điều đó sẽ làm cho
quan niệm về BĐG được toàn diện hơn nữa.
Như vậy, BĐG cần được hiểu với một nghĩa rộng hơn và toàn diện
hơn là việc chỉ hiểu là sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ hiện nay. Và
trong luận văn này, tác giả xem xét, đánh giá BĐG trong pháp luật HN&GĐ
Việt Nam ở nghĩa rộng mà nhiều quốc gia hiện nay đang ghi nhận và phù hợp
với thực tiễn xã hội hiện nay.
1.1.3. Khái niệm Hôn nhân và gia đình
HN&GĐ là hai khái niệm độc lập, thường đi liền với nhau và có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tìm hiểu về từng khái niệm thực chất là tìm hiểu
về đối tượng mà pháp luật HN&GĐ điều chỉnh - đối tượng nghiên cứu của
Luận văn này.
Về khái niệm hôn nhân, theo Từ điển Tiếng Việt, “Hôn nhân là việc
nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng” [24]. Ở các nước theo hệ thống
pháp luật Anh - Mỹ (Common law), phổ biến một khái niệm cổ điển mang
16
quan niệm truyền thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo, do Lord Penzance đưa
ra trong phán quyết về vụ án Hyde v Hyde (1866): “Hôn nhân là sự liên kết tự
nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà không vì
mục đích nào khác” [52]. Ngoài khái niệm trên, hiện nay, một số luật gia ở
Châu âu và Mỹ quan niệm: “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người
nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” [51], hoặc: “Hôn nhân là hành
vi hoặc tình trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư
cách là vợ chồng” [53].
Ở Việt Nam, các giáo trình Dân luật dưới chế độ Sài gòn cũ chưa đưa
ra khái niệm cụ thể về hôn nhân mà phần nhiều mới đưa ra khái niệm “giá
thú”: “giá thú (hay hôn thú) là sự phối hợp của một người đàn ông và một
người đàn bà theo thể thức luật định” [28] hoặc “giá thú” cũng được hiểu:
“sự trai gái lấy nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa vụ
tương hỗ cho hai bên về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ” [5].
Theo một số luật gia Sài gòn, khái niệm “giá thú” bao gồm có hai nghĩa: theo
nghĩa thứ nhất giá thú là hành vi phối hợp vợ chồng (kết hôn). Theo nghĩa thứ
hai là tình trạng của hai người đã chính thức lấy nhau làm vợ chồng và thời
gian hai người ăn ở với nhau [5]. Điều 3 Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964, Điều
99 Bộ dân luật 1972 ngày 20/12/1972 của Chính quyền Sài gòn cũ qui định:
“Không ai được phép tái hôn nếu giá thú trước chưa đoạn tiêu” [12].
Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định hôn nhân là
“quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn” [36, Điều 3].
Như vậy, dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, dưới góc độ xã hội hay
khoa học pháp lý, thì hôn nhân vẫn được hiểu theo một nghĩa chung nhất đó
là sự liên kết tự nguyện, theo qui định pháp luật giữa một người đàn ông và
một người đàn bà, nhằm chung sống suốt đời với tư cách là vợ chồng, và vì
mục đích xây dựng một gia đình. Với quan niệm chung đó, chúng ta thấy xuất
17
hiện yếu tố giới và giới tính trong quan hệ hôn nhân, đó chính là quan hệ giữa
hai cá thể ở hai giới tính khác nhau trong một quan hệ hôn nhân.
Về khái niệm gia đình, theo Từ điển Tiếng Việt, gia đình được hiểu là:
“Tập hợp người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn
bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng,
cha mẹ và con cái” [24]. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, “Gia
đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ
với nhau theo quy định của Luật này” [36, Điều 3].
Qua một số định nghĩa nêu trên về gia đình, có thể thấy gia đình là
một tế bào của xã hội, trong đó tập hợp ít nhất là hai người trở lên và các
thành viên trong một gia đình gắn bó với với nhau bằng quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Và mỗi cá nhân con người trong xã hội không
ai không có quan hệ gia đình và đây là mối quan hệ mang tính phổ biến. Gia
đình chứa đựng trong đó những sự khác biệt về giới giữa vợ và chồng, giữa
cha mẹ với con trai, con gái, giữa thành viên gia đình là nữ giới và nam giới
Như vậy, HN&GĐ là những quan hệ tất yếu trong đời sống xã hội của
loài người ở mọi thời kỳ và ở bất cứ thời kỳ nào, yếu tố khác biệt về giới luôn
tồn tại trong các quan hệ HN&GĐ.
1.2. Pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong hôn nhân và gia đình
1.2.1. Vai trò pháp luật trong việc thúc đẩy bình đẳng giới
HN&GĐ là những quan hệ phát sinh, tồn tại và phát triển gắn liền với
quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa ông bà với các cháu và
giữa các thành viên trong một gia đình với nhau. Mỗi thành viên trong xã hội
từ khi sinh ra, lớn lên và trưởng thành đều gắn liền với những quan hệ hôn
nhân, gia đình. Đây là những quan hệ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những
phong tục, tập quán, văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi vùng, mỗi
18
địa phương và nhỏ nhất đó là văn hóa, truyền thống của mỗi gia đình. Và thực
tế cho thấy quan hệ HN&GĐ là những quan hệ thể hiện rõ nét nhất sự bình
đẳng hoặc bất bình đẳng về giới. Để đạt được mục tiêu BĐG, pháp luật là một
trong những công cụ quan trọng được các quốc gia sử dụng nhằm tác động
lên các quan hệ HN&GĐ, bảo đảm cho các quan hệ này phát sinh, tồn tại và
phát triển theo trật tự phù hợp với ý chí của Nhà nước, trong đó có mục tiêu
BĐG trong HN&GĐ mà hầu hết các quốc gia đều hướng tới.
Ở góc độ quốc tế, pháp luật quốc tế là những thỏa thuận đa phương,
song phương thể hiện cam kết của các quốc gia trong việc bảo đảm BĐG
trong HN&GĐ. Thực chất đây là sự tự nguyện của các Nhà nước trong việc
cam kết thực hiện các nghĩa vụ nhằm bảo đảm BĐG trong HN&GĐ. Ở góc độ
mỗi quốc gia, các Nhà nước ban hành pháp luật về HN&GĐ để quy định
trách nhiệm của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân, công dân và của mỗi
thành viên trong gia đình trong việc thiết lập trật tự các quan hệ HN&GĐ.
Như vậy, dù ở góc độ quốc tế hay quốc gia, pháp luật luôn là một công cụ
quan trọng để các quốc gia thiết lập trật tự quan hệ HN&GĐ phù hợp với ý
chí của Nhà nước, của xã hội và là công cụ quan trọng để bảo đảm mục tiêu
BĐG và vì sự tiến bộ phụ nữ. Vai trò nêu trên của pháp luật được thể hiện qua
những khía cạnh sau:
- Là cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm của các quốc gia trong việc
bảo đảm BĐG trong lĩnh vực HN&GĐ. Trách nhiệm quốc gia được chính các
quốc gia tự nguyện cam kết thông qua việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc
tế hoặc khu vực;
- Là cơ sở pháp lý quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong lĩnh vực HN&GĐ, khía cạnh này được thực hiện chủ yếu
qua hệ thống pháp luật quốc gia và hệ thống các quy định này được Nhà nước
bảo đảm thực hiện.