Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 147 trang )



KHOA LUẬT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI




PHÍ THỊ THANH TÂM



PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH

VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



Người hướng dẫn PGS TS : THÁI VĨNH THẮNG









Hà Nội 2007

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền báo chí cách mạng nước ta đã có những đóng góp to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chủ
trương đổi mới do Đảng khởi xướng cùng với những thành tựu vĩ đại của
công nghệ thông tin đã làm cho nền báo chí nước ta trong những năm gần đây
phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Chính vì vậy, công tác quản lý
Nhà nước về báo chí cần được tăng cường trong giai đoạn hiện nay.
Ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã có Chỉ thị 22/CT-TƯ về Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Cùng với những quan điểm chỉ đạo
quan trọng về hoạt động báo chí, quan điểm "phát triển đi đôi với quản lý tốt"
là một nguyên tắc cơ bản định hướng cho nội dung quản lý nhà nước về báo
chí trong tình hình mới. Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X cũng đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí ngày 12-6-1999. Việc
thông qua Luật này tạo cơ sở hoàn chỉnh về hành lang pháp lý cho hoạt động
báo chí, đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ trong thông tin, bảo đảm quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Đây cũng là điều kiện mới
để báo chí Việt Nam phát triển, hội nhập với báo chí khu vực và trên thế giới.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới, báo chí nước ta đã chuyển hướng kịp
thời, không ngừng phát triển và đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Chưa thời điểm nào mặt trận báo chí phát triển mạnh, phong phú, đúng
hướng, tiến bộ cả về số lượng và chất lượng như hiện nay. Báo chí đã bám sát
đời sống xã hội; cung cấp thông tin đa chiều, sâu sắc; tạo dư luận xã hội rộng
lớn, đồng thuận với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hầu hết
các cơ quan báo chí đã tuyên truyền sâu rộng gương người tốt, việc tốt; sản

2

phẩm mới, công trình mới, rút ra những kinh nghiệm hay, bài học tốt, thúc
đẩy phong trào thi đua, xây dựng xã hội phát triển lành mạnh. Đặc biệt trên
lĩnh vực chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí, các cơ quan báo chí
đã dũng cảm, sáng tạo, mang lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên, trong thời gian qua báo chí cũng bộc lộ nhiều hạn chế, sai
sót, cần sớm khắc phục. Đó là: xu hướng thương mại hóa; xa rời tôn chỉ mục
đích, đối tượng phục vụ; làm lộ bí mật, an ninh quốc gia. Báo chí còn chưa
đến được đông đảo nhân dân lao động ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Nhiều tờ báo đăng bài, ảnh dung tục, thiếu văn hóa, đi ngược lại thuần
phong mỹ tục của dân tộc ta. Có nhiều phóng viên báo chí đã bộc lộ sự non
nớt về chính trị; phẩm chất đạo đức nghề nghiệp yếu kém, thiếu tính chuyên
nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín tờ báo và giới báo chí cả nước.
Những tồn tại trên một phần là do hệ thống văn bản pháp luật trong
lĩnh vực hoạt động báo chí còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa được bổ sung, sửa
đổi kịp thời phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí. Ngoài ra, nguyên tắc
"phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt" chưa được quán triệt đầy đủ. Vì vậy,
phải có sự nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện hơn nữa pháp luật về quản lý
nhà nước đối với hoạt động báo chí.
Hoạt động báo chí trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong
quá trình hội nhập quốc tế và nhất là khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang đặt ra những yêu cầu mới.
Không nắm bắt được tình hình, báo chí khó có thể đảm đương được nhiệm
vụ và giữ vững bản lĩnh của mình. Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện
nay, khi các phương tiện thông tin kỹ thuật hiện đại ngày càng chiếm vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội, hoạt động báo chí và việc xây dựng hành
lang pháp lý trong lĩnh vực báo chí cần được tăng cường và củng cố nhiều
mặt mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Bởi vậy, nghiên cứu hoàn thiện pháp
luật về quản lý nhà nước đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay là vấn đề
cấp thiết.


3
Với lý do đó, tôi lựa chọn vấn đề: "Pháp luật về quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu lý luận báo chí, đề cập tới các khía cạnh
khác nhau của đề tài đã có nhiều bài báo nghiên cứu khoa học được đăng tải
rải rác trên các tạp chí chuyên ngành như: "Phạm vi bao quát và tăng cường
hiệu lực quản lý nhà nước thi hành Luật Báo chí" (Nguyễn Văn Dững - Tạp
chí Báo chí và Tuyên truyền, số 4/1998; "Quản lý nhà nước về báo chí qua 8
năm thi hành Luật Báo chí" (Đỗ Quý Doãn - Chuyên san Nhà báo và Công
luận, số 4/1998); "Báo chí Việt Nam - nhìn lại để bước vào thế kỷ mới" (Đỗ
Quý Doãn - Tạp chí Người làm báo, số tháng 12/1999); "Vấn đề lãnh đạo
quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới" (Bùi Đình Khôi - Tạp chí Người làm
báo, số tháng 6/1997; "Về mặt tổ chức quản lý báo chí, còn nhiều vấn đề phải
bàn" (Châu Văn Thư - Tạp chí Người làm báo, số tháng 1/1999); "Một số vấn
đề về quảng cáo trên các phương tiện truyền thông" (Đinh Hường - Tạp chí
Người làm báo, số tháng 5/2000); "Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới
đất nước hiện nay" (Lê Doãn Hợp - Báo điện tử Nhân dân, ngày 18/6/2007);
"Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam (21-6): xã hội hóa hơn nữa để phát
triển" (Vũ Duy Thông - Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/6/2006);
"Một số vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trước yêu cầu
mới" (Hồng Vinh - Báo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 21/6/2006);
"Tiếp tục đổi mới và phát triển vững chắc nền báo chí cách mạng nước ta"
(Tô Huy Rứa - Báo Nhân dân, ngày 21/6/2007). Ngoài ra, vấn đề quản lý nhà
nước về báo chí luôn luôn được đề cập tới trong các cuốn sách nghiên cứu
nghiệp vụ của các cơ sở đào tạo báo chí, trong các tác phẩm của các tác giả
nghiên cứu về lý luận báo chí lâu năm như Hữu Thọ, Tạ Ngọc Tấn, Hà Minh
Đức Tuy nhiên, như trên đã trình bày, hầu hết các tác giả trên mới dừng lại
ở mức độ đề cập giải quyết một số khía cạnh của vấn đề, những hiện tượng


4
đơn lẻ của thực tiễn báo chí đất nước. Chưa có một công trình nghiên cứu sâu,
đầy đủ, có trọng tâm, trọng điểm và toàn diện về vấn đề này với tư cách là
một đề tài nghiên cứu khoa học từ góc nhìn của khoa học luật - đi tìm cơ sở
pháp lý của quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, từ đó đề
xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với
báo chí ở Việt Nam hiện nay.
Từ mục đích đặt ra như trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ sự cần thiết quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực
báo chí, vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
- Nêu thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí
ở Việt Nam hiện nay; những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những
mặt còn tồn tại và những vấn đề đang đặt ra đối với báo chí hiện nay.
- Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị, các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về pháp luật; lý thuyết về sự điều chỉnh của pháp luật về
quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động báo chí.
- Cơ sở thực tiễn: Hoạt động báo chí và pháp luật về quản lý nhà nước
đối với báo chí
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí.


5
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không nghiên cứu về báo chí nói chung
mà chỉ đi sâu nghiên cứu pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực này nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với báo chí hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng
hợp, thống kê, lôgíc, so sánh đối chiếu, khoa học dự báo để hình thành các
khái niệm khoa học, đánh giá pháp luật, thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí.
7. Đóng góp mới của luận văn
Một là, bước đầu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về quản
lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí, làm rõ vai trò của pháp luật đối với quản
lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận của công dân.
Hai là, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực báo chí từ Cách mạng tháng Tám đến nay, trong đó
làm sáng tỏ quá trình vừa kế thừa vừa phát triển liên tục của pháp luật về quản
lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
Ba là, bước đầu đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý trong lĩnh
vực báo chí và thực trạng thực hiện pháp luật báo chí; nêu ra một số xu hướng
phát triển báo chí.
Bốn là, đưa ra một số quan điểm và phương hướng tạo cơ sở cho việc
hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; đề xuất một
số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý trong lĩnh vực
báo chí trong đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
1999 (sửa đổi).
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:


6
Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực báo chí.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
báo chí ở Việt Nam hiện nay và thực trạng thực hiện.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay.









7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ

1.1. QUAN NIỆM PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH
VỰC BÁO CHÍ
Ở nước ta, pháp luật về quản nhà nước trong lĩnh vực báo chí là một
bộ phận quan trọng của pháp luật hành chính và hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua vì những lý do khách quan, chủ quan khác
nhau mà khái niệm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí chưa
được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống. Do đó, đến nay
trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, vẫn chưa đưa ra được một quan niệm
thống nhất, hoàn chỉnh về pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí.

Để làm sáng tỏ quan niệm pháp luật về quản lý trong lĩnh vực báo chí,
trước hết chúng ta cần làm rõ quan niệm "quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo
chí", các đặc điểm của quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực báo chí
Luật Báo chí năm 1999 (sửa đổi) quy định các nội dung quản lý nhà
nước về báo chí: Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí; tổ chức thông tin cho
báo chí; quản lý thông tin của báo chí; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí; tổ
chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí; cấp, thu
hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo; quản lý hợp tác quốc tế về báo
chí, quản lý hoạt động báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt
động báo chí nước ngoài tại Việt Nam; kiểm tra báo chí lưu chuyển; quản lý
kho lưu chiểu báo chí; tổ chức, chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt động
báo chí; hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, quy

8
hoạch, kế hoạch phát triển báo chí, việc chấp hành pháp luật về báo chí; thi
hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp luật; giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí.
Từ những nội dung nêu trên, có thể thấy rằng, hoạt động quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí ở nước ta xuất hiện chủ yếu là hoạt động của cơ
quan lập pháp và cơ quan hành pháp, nhưng còn thiếu vắng hoạt động của cơ
quan tư pháp (xét xử) khi có hành vi vi phạm pháp luật về báo chí.
Dưới góc độ khoa học học quản lý, "quản lý nhà nước về báo chí",
hiểu theo ý nghĩa trên là một khái niệm rộng bao hàm: Việc xây dựng và tổ
chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực báo chí, mà trọng tâm là các hoạt
động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo trật tự quản lý và quyền
công dân trong lĩnh vực báo chí, hướng tới xây dựng một nền báo chí tiến bộ,

cách mạng phục vụ sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng kịp thời thông tin phục vụ đời
sống cá nhân, xã hội.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chúng tôi thấy quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí được thể hiện trên các phương diện sau:
Một là, quản lý nhà nước về báo chí là một dạng hoạt động mang tính
quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và được điều chỉnh bằng pháp luật.
Như các hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí luôn hướng tới phục vụ mục đích xây dựng trên quan
điểm của Đảng và Nhà nước là: mọi chủ trương, đường lối, hoạt động của
Đảng và Nhà nước và toàn xã hội đều nhằm mục đích vì cuộc sống và hạnh
phúc của nhân dân, vì nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Vì vậy, hoạt động
này mang tính quyền lực đặc biệt của Nhà nước "của dân, do dân và vì dân".
Hoạt động quản lý nhà nước về báo chí thực chất là sự tác động mang
tính tổ chức cao và được điều chỉnh bằng pháp luật. Để quản lý tốt, cần biết tổ

9
chức về mặt thực tiễn các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực báo chí. Tính tổ
chức cao thể hiện ở hai phương diện: Thứ nhất, đây là hoạt động trực tiếp của
các cơ quan nhà nước được giao chức năng nhiệm vụ trong lĩnh vực báo chí.
Thứ hai, đây là hoạt động phải được đảm bảo về tổ chức (bộ máy) chuyên
trách, mà tổ chức này được hình thành xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà nước
và đòi hỏi mang tính khoa học để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động. Thực
tiễn cho thấy, không có tổ chức, thì quản lý sẽ bị lỏng, sơ hở và kém hiệu quả,
thậm chí có thể dẫn đến tình trạng vô chính phủ.
Để quản lý nhà nước về báo chí có hiệu quả, pháp luật được nhà nước
sử dụng như một kênh để tổ chức bộ máy và định chi tiết các khuôn mẫu xử
sự của các cơ quan quản lý cũng như công dân trong mối quan hệ thể hiện
quyền và nghĩa giữa Nhà nước và công dân. Trong hoạt động quản lý nhà
nước về báo chí, các cơ quan nhà nước luôn đụng chạm tới quyền tự do báo

chí, tự do ngôn luận của công dân cho nên phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật để giải quyết. Do vậy, cũng giống như quản lý hành chính nhà nước
nói chung, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí được điều chỉnh bằng
pháp luật theo phương pháp mệnh lệnh.
Hai là, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là hình thức quản lý
nhà nước vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc thù
Điều này được thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận là một cơ bản của công dân. Các nhà nước trên thế
giới không thể không ghi nhận trong Hiến pháp và tạo ra cơ chế pháp lý để
đảm bảo thực hiện nó trong đời sống xã hội. Các nhà nước đều thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí đồng thời luôn coi việc thực
hiện chức năng quản lý trong lĩnh vực này là hoạt động có mục tiêu chiến
lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu nhằm mở rộng
dân chủ, thúc đẩy quá trình giao lưu và hội nhập, nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần cho người dân…. Đặc điểm này đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí phải có chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn và

10
hàng năm; có tiêu chí vừa mang tính định hướng vừa mang tính pháp lệnh và
có biện pháp cơ bản để tổ chức thực hiện các tiêu chí đó. Vì vậy, quản lý báo
chí là quản lý mang tính phổ quát toàn cầu. Thứ hai, do báo chí có vai trò hết
sức to lớn trong việc thông tin, tư tưởng, phát triển văn hóa và giải trí; là vũ
khí tư tưởng sắc bén nên mỗi nhà nước với các thể chế chính trị, điều kiện
kinh tế - xã hội, văn hóa khác nhau sẽ quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí
với những nét đặc thù.
Ba là, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là quản lý trên lĩnh
vực tư tưởng văn hóa
Quản lý nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa khác với quản lý nhà
nước trong hoạt động vật chất như: quản lý hoạt động xuất nhập cảnh, kinh
doanh, du lịch… Lĩnh vực báo chí liên quan trực tiếp đến con người - thực thể

xã hội cụ thể với tư tưởng, trạng thái, nhận thức cụ thể. Hơn nữa, quản lý nhà
nước trên lĩnh vực báo chí gắn liền với thể chế chính trị nhất định, thể hiện
mục tiêu, lợi ích của nhà nước nên tính định hướng chính trị của nội dung
thông tin được quan tâm đặc biệt.
1.1.2. Quan niệm pháp luật về quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực
báo chí
Để làm rõ quan niệm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
báo chí, chúng ta cần phân tích và đặt nó trong mối quan hệ với pháp luật
hành chính.
Theo giáo trình về quản lý nhà nước của Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (1996) thì: "Quản lý hành chính nhà nước là dạng quản lý xã
hội mang tính quyền lực nhà nước với chức năng chấp hành luật và tổ chức
thực hiện luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp và hành chính nhà
nước (hệ thống Chính phủ và chính quyền địa phương [41, tr. 10].
Trong sách "Luật hành chính Việt Nam (2005), PGS.TS Đinh Văn
Mậu và PGS.TS Phạm Hồng Thái cho rằng:

11
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước đối với quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của công dân do các cơ quan hành pháp từ Trung ương đến cơ
sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa
mãn những nhu cầu hàng ngày của nhân dân [51, tr. 19].
Từ các quan niệm về quản lý nhà nước nêu trên, chúng ta có thể hiểu:
quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã
hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy nhà nước - là
công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều
chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã
hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành

pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo
chí của công dân.
Với ý nghĩa hành chính là chấp hành (thực thi) pháp luật, Chính phủ
và các cơ quan hành chính trong lĩnh vực báo chí có quyền (lập quy) ban hành
các quy tắc và các quyết định hành chính cho phép hoặc cấm đoán một cách
áp đặt và buộc đối tượng có liên quan phải chấp hành; có quyền kiểm tra việc
thực hiện pháp luật về báo chí và các quyết định mà nó ban hành; có quyền xử
lý các tình huống quản lý bằng biện pháp cưỡng chế đối với các vi phạm hành
chính kể cả trường hợp các chủ thể từ chối thực hiện nghĩa vụ pháp lý nhằm
phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí.
Tuy nhiên, để thực hiện được những quyền hạn trên cần có những quy
định chung về tổ chức bộ máy và nhân sự thực hiện những hoạt động hành
chính có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời xác lập một trật tự chuẩn mực trong
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong từng quan hệ pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí. Với tính "vượt trội" của thiết

12
chế hành chính, chính phủ nắm giữ công quyền hành pháp theo nghĩa cưỡng
chế của tổ chức luôn có xu hướng tự định trong ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật - ưu tiên mở rộng và tăng cường quyền lực không hạn chế
nhằm cai quản nhiều hơn là thực hiện nghĩa vụ xã hội. Do vậy, cần đặt bộ
máy hành pháp nói chung, các cơ quan hành chính trong lĩnh vực báo chí nói
riêng trong sự kiểm soát của các quyền lập pháp, hành pháp và sự tham gia
của các tổ chức xã hội, công dân để tránh xu hướng lạm dụng quyền lực.
Những hoạt động có tính công quyền của hành chính nhà nước phải
được kiểm soát, chịu sự ràng buộc bởi pháp luật do quyền lực chung - quyền
lực nhà nước ban hành. Hành chính nói chung, hành chính trong lĩnh vực báo
chí nói riêng được toàn quyền hành động quản lý và phục vụ nhưng phải đặt
mình trong khuôn khổ pháp luật, tuân thủ pháp luật. Hành chính trong lĩnh

vực báo chí được quyền tác động quyền lực và quyền tự do báo chí - lợi ích
chính đáng của công dân nhưng phải tôn trọng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân theo pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí. Những
quyết định hành chính làm tổn hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
phải bị hủy bỏ và bị truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Hành chính nhà nước trong lĩnh vực báo chí là một bộ phận của nền
hành chính nhà nước, theo đúng nghĩa là sự quản lý nhà nước về báo chí. Nó
xuất hiện cùng với thiết chế hành chính nhà nước, quản lý công vụ quốc gia,
cụ thể là công việc của bộ máy hành pháp thực hiện chức năng đối nội và đối
ngoại của Nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
Từ lý luận và thực tiễn thực hiện, áp dụng pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí như sau: Pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực báo chí là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan
hệ xã hội giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với công dân, tổ chức trong
lĩnh vực báo chí.

13
1.2. SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC BẰNG PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC BÁO CHÍ
Ở bất kỳ một quốc gia nào cũng đều phải có những quy định quản lý
nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực báo chí. Báo chí muốn xuất bản phải
xin phép chính phủ, trên thế giới có hai cách quy định: Một là, người muốn ra
báo phải làm đơn xin phép, khi có giấy phép rồi mới được tổ chức xuất bản
báo (ví dụ ở Thụy Điển); hai là, chỉ cần khai báo theo một công thức và trong
một thời hạn nào đó, mà không cần giấy phép (ví dụ ở Pháp). Nhưng dù theo
quy định nào thì cũng phải có những ràng buộc khá ngặt nghèo kèm theo.
Những lý do để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trong lĩnh vực báo chí:
- Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Báo cáo
chính trị Đại hội X của Đảng viết: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân". Điều đó có nghĩa là, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi
công dân trong xã hội đều phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Báo chí là
một hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, không nằm ngoài xã hội nên
cũng phải đi trong hành lang pháp luật đó. Báo chí cũng phải tuân theo pháp
luật. Bên cạnh việc khẳng định việc đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận, Điều 2 Luật báo chí quy định hạn chế, ngăn ngừa sự lạm dụng về tự do
đó: "Báo chí hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được nhà nước bảo hộ;
không một tổ chức cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt
động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo
chí để xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân".
- Hoạt động báo chí cần sự định hướng của nhà nước. Báo chí là công
cụ đấu tranh chính trị sắc bén, bởi vậy, mọi nhà nước, dù có chế độ chính trị
nào đều có định hướng cho báo chí, để báo chí hoạt động đúng khuôn khổ pháp
luật đề ra, thông tin tuyên truyền có lợi cho quyền lực, địa vị của nhà nước
đương thời. Nếu thuận, báo chí sẽ là cánh tay đắc lực giúp củng cố chính phủ,
còn ngược lại nó có thể lật đổ chính phủ, xóa bỏ chế độ đương nhiệm một cách

14
phũ phàng. Với tư cách là phương tiện quan trọng bậc nhất để quản lý báo
chí, pháp luật định hướng hoạt động báo chí thể hiện ở những nội dung sau:
pháp luật tạo ra cơ sở để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận trên báo chí; pháp luật xác định nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí và
của nhà báo trong hoạt động nghiệp vụ; pháp luật định hướng hoạt động báo
chí bằng cách quy định những vấn đề không được thông tin trên báo chí.
- Báo chí có vai trò rất quan trọng trong công tác tư tưởng và ảnh
hưởng sâu rộng đối với xã hội, đặc biệt trong những bước ngoặt của cách
mạng. Nếu chúng ta không định hướng đúng đắn, không làm tốt công tác
quản lý báo chí bằng pháp luật thì rất có thể đưa đến những lệch lạc, gây ra
những tác hại khó lường. Hiện nay, có một số tờ báo và tạp chí bị khuynh

hướng thương mại hóa và cơ chế thị trường chi phối, đăng tải những tin, bài
thiếu lành mạnh, mang tính giật gân, không chính xác gây tác động xấu trong
xã hội, nhất là đối với tuổi trẻ, thậm chí làm lội bí mật nhà nước. Một số
người làm báo còn chịu ảnh hưởng không đúng về tự do báo chí, về vị trí
chức năng của người làm báo, đã có những hành vi tiêu cực làm ảnh hưởng
xấu đến chức năng và danh dự cao quý của người làm báo, của cơ quan báo chí.
Sau khi có Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị, công tác quản lý nhà nước đối
với báo chí có những mặt tiến bộ, song vẫn nhiều yếu kém, thiếu hiệu lực,
thiếu hiệu quả, chưa kịp thời và có khi không kiên quyết. Đó là do các cơ
quan có chức năng quản lý công tác báo chí từ trung ương đến địa phương,
trước hết là Bộ Văn hóa - Thông tin, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
trong cả nước chưa làm hết trách nhiệm của mình. Ngoài ra, các cơ quan chủ
quản báo chí còn dễ dãi, lỏng lẻo trong việc chỉ đạo báo chí thực hiện đúng
tôn chỉ, mục đích, chưa kiên quyết trong việc sắp xếp lại báo chí thuộc quyền
mình quản lý. Vì những lý do trên đòi hỏi phải có sự tăng cường quản lý nhà
nước bằng pháp luật trong lĩnh vực báo chí.
Tư tưởng nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là sự kế thừa tri thức
lịch sử nhân loại được thể hiện trong đường lối đúng đắn của Đảng. Thực tiễn

15
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và thực tiễn công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước ở nước ta hiện nay đang đặt ra yêu cầu bức thiết đối
với quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về văn hóa, về báo chí nói
riêng, trong đó công cụ pháp luật - hay nói cách khác: quản lý nhà nước bằng
pháp luật - trở thành yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của đường lối đó.
1.3. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG
LĨNH VỰC BÁO CHÍ
Nhà nước quản lý các lĩnh vực trong đời sống xã hội bằng pháp luật.
Pháp luật được coi là công cụ, phương tiện quan trọng tạo ra cơ chế để Nhà
nước quản lý các quá trình xã hội hóa hướng tới mục đích xây dựng một xã

hội phát triển. Cũng như pháp luật hành chính nói chung, pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực báo chí là cơ sở pháp lý cho các hoạt động hành
chính của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực báo chí. Có thể chỉ ra vai trò
của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí sau đây.
1.3.1. Pháp luật - phƣơng tiện quan trọng đảm bảo công dân thực
hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí
Quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và quyền được
thông tin là những quyền cơ bản của công dân được quy định trong đạo luật
cơ bản của Nhà nước, được cụ thể hóa trong Luật Báo chí và các văn bản
pháp luật có liên quan. Điều 4, Luật Báo chí quy định công dân có quyền:
Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế
giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo, gửi tin, bài,
ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá
nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; Phát biểu ý
kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý
kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức
của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội

và thành viên của các tổ chức đó.

16
Như vậy, quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí có
nội dung xác định, cụ thể, chứ không phải là một thứ quyền chung chung,
trừu tượng. Thông qua báo chí, công dân thực hiện quyền được nhận tin,
quyền đưa tin, quyền được bày tỏ quan điểm, thái độ của mình về những vấn
đề đã và đang xảy ra trong đời sống xã hội. Thực hiện quyền tham gia ý kiến
với Đảng và Nhà nước. góp ý, phê bình, kiến nghị khiếu nại, tố cáo trên báo
chí là một trong những phương thức thực hiện quyền dân chủ của công dân.
Thực tiễn hoạt động báo chí cho thấy phương thức này mang lại hiệu quả xã

hội hết sức to lớn. Điều này xuất phát từ lợi thế của báo chí và vai trò định
hướng dư luận xã hội của báo chí. Ở phương diện này, báo chí có vai trò to
lớn trong việc làm lành mạnh xã hội, lên án những thói hư tật xấu, những
hành vi đi ngược đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục, phê phán những
hành vi sai trái trong xã hội, góp phần xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.

Để đảm bảo thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo
chí, Luật Báo chí còn quy định trách nhiệm của báo chí phải đăng tải, phát
sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trường hợp không đăng tải, phát sóng thì
phải trả lời công dân và nêu rõ lý do; báo chí phải trả lời hoặc yêu cầu tổ
chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trả lời trên báo chí về kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo mà công dân gửi đến (Điều 5, Luật Báo chí).
Như vậy, pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí tạo
môi trường pháp lý thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên báo chí. Chỉ trên cơ sở pháp luật, quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên báo chí của công dân mới được đảm bảo một cách đầy đủ.
1.3.2. Pháp luật - phƣơng tiện cơ bản để thực hiện chức năng quản
lý nhà nƣớc về báo chí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động báo chí, đảm
bảo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, chống xu hƣớng thƣơng mại hóa báo chí
Quản lý nhà nước bằng pháp luật là tiền đề quan trọng dẫn đến hiệu
quả chính trị, kinh tế, xã hội nói chung và trong báo chí nói riêng. Bằng hoạt
động của mình, báo chí đã góp phần đáng kể vào việc ổn định chính trị, phát

17
triển kinh tế, xã hội ổn định trật tự và chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Từ bài học xương máu ở Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu, Việt Nam
đã khai thác triệt để hoạt động báo chí, xuất bản nhằm phục vụ cho mục tiêu
xây dựng xã hội thịnh vượng, công bằng, dân chủ và văn minh.
Pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí là công cụ quan trọng
nhằm bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc, hiện đại, nhân văn; tiếp thu tinh

hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học và công nghệ của nhân loại, bảo đảm cho
quá trình hội nhập thông tin báo chí toàn cầu. Báo chí là một trong các cơ sở
của thiết chế văn hóa có địa vị pháp lý do pháp luật quy định, được đầu tư
nhằm đáp ứng nhu cầu của quần chúng. Nhà nước và dư luận xã hội đã trao
cho báo chí uy quyền cao cả mang tính nhân văn sâu sắc. Mặt khác, nhu cầu
giao lưu, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa của nhân loại là nhu cầu của bản
thân nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện đại.
Trong điều kiện đó, với tư cách là phương tiện điều chỉnh có hiệu lực, pháp
luật tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động văn hóa nói chung, hoạt
động báo chí nói riêng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở ra cơ
hội cho sự hòa nhập giữa các nền văn hóa, loại trừ khả năng hòa tan và đổi
mầu trong quá trình hòa nhập.
Pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí đã tạo lập hành lang và
cơ hội bình đẳng để báo chí hoạt động với tư cách một tiểu hệ thống xã hội
như các tiểu hệ thống xã hội khác trong hệ thống xã hội nói chung. Nhà nước
ta luôn tạo điều kiện để hoạt động báo chí đạt hiệu quả cao, đồng thời ngăn
chặn các hoạt động báo chí bất chấp hậu quả về chính trị, tư tưởng và văn
hóa, chạy theo xu hướng thương mại hóa. Lợi nhuận của hoạt động báo chí
trong cơ chế thị trường không thể tách rời mục tiêu chính trị, tư tưởng và văn
hóa, giữa chúng có quan hệ biện chứng, trong đó chính trị, văn hóa, tư tưởng
là mục tiêu hàng đầu.
Như trên đã nói, hoạt động báo chí là một loại hình hoạt động vừa
chịu sự tác động của hệ thống các quy luật phát triển văn hóa - tư tưởng, vừa

18
chịu tác động của hệ thống các quy luật kinh tế. Vì vậy, trong hoạt động báo
chí có sự đấu tranh về ý thức hệ biểu hiện cả trên phương diện văn hóa - tư
tưởng, cả trong các quan hệ kinh tế. Vì vậy, việc quy phạm hóa các quy luật
phát triển vừa phải thể hiện ở phương diện văn hóa tư tưởng, vừa phải thể hiện ở
phương diện kinh tế của hoạt động báo chí. Pháp luật phải mở đường cho tự do

sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những độc hại đối với hoạt động văn hóa - tư
tưởng; Phải định hướng cho báo chí phát triển theo quy luật, ngăn ngừa khả
năng tác hại từ mặt trái của kinh tế thị trường, làm ảnh hưởng đến định hướng
tư tưởng - văn hóa. Nếu chỉ thấy lợi ích kinh tế sẽ dẫn đến việc chạy theo lợi
nhuận, thương mại hóa hoạt động báo chí, gây hậu quả đối với xã hội. Ngược
lại, nếu chỉ đề cao vai trò báo chí ở phương diện văn hóa - tư tưởng thì sẽ dẫn
đến khả năng phát triển báo chí với bất kỳ giá nào, bất chấp quy luật
Như vậy, việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về báo chí trong cơ chế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng pháp luật để điều chỉnh
hoạt động báo chí vừa là hoạt động điều chỉnh kinh tế trong văn hóa - tư
tưởng, đồng thời điều chỉnh hoạt động văn hóa - tư tưởng trong cơ chế thị
trường. Đó là hai mặt của một vấn đề phải được thể chế hóa phù hợp, bảo
đảm cho báo chí hoạt động đúng quy luật, phát triển theo trật tự của pháp luật.
1.3.3. Pháp luật - phƣơng tiện tổ chức và hoạt động của của bộ
máy quản lý nhà nƣớc đối với báo chí
Muốn phát huy hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí, điều cần thiết là
phải thiết lập một hệ thống tổ chức quản lý báo chí rõ ràng, đồng bộ và quy
định thật cụ thể cơ chế điều hành, điều phối của hệ thống tổ chức quản lý này
từ Trung ương đến địa phương. Muốn thực hiện điều này, rõ ràng là phải dựa
vào pháp luật, phải phát huy chức năng điều chỉnh của pháp luật trong việc
hướng dẫn các hoạt động của cơ quan báo chí, tổ chức, cá nhân tuân theo quy
định của pháp luật. Pháp luật là phương tiện đảm bảo cho tổ chức và hoạt
động quản lý nhà nước đối với báo chí tiến hành thống nhất nhưng có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ, ngăn chặn sự lộng quyền, lạm quyền đảm bảo cho
quản lý nhà nước về báo chí có hiệu lực và hiệu quả.

19
Ở nước ta, "Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí".
Chính phủ có những cơ quan chuyên môn giúp việc cho Chính phủ trong từng
lĩnh vực cụ thể đó là các bộ. Giúp việc cho Chính phủ về công tác quản lý báo

chí là Bộ Thông tin và Truyền thông (Quyết định số 100 của Thủ tướng Chính
phủ ngày 8/8/2007 về chuyển chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo
chí, xuất bản từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sang Bộ Thông tin và
Truyền thông). Như vậy, Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm
trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí. Bộ Thông tin và
Truyền thông, cụ thể là Cục báo chí, cơ quan tham mưu của Bộ, trực tiếp thực
hiện mọi công việc quản lý nhà nước về báo chí.
Hiện nay, Chính phủ chưa ban hành Nghị định mới quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông tin và Truyền
thông nên cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là Luật
Báo chí (sửa đổi, bổ sung năm 1999) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Nhiệm vụ chính của Bộ Văn hóa - Thông tin là thực hiện các nội dung
về quản lý nhà nước về báo chí trong phạm vi cả nước. Ví dụ, việc sắp xếp,
quy hoạch báo chí, xây dựng chiến lược báo chí toàn quốc; xây dựng các văn
bản pháp luật về chế độ báo chí, quản lý, cấp và thu hồi giấy phép hoạt động
báo chí. Ngoài trụ sở chính ở Hà Nội, Bộ Văn hóa - Thông tin còn có Ban
thường trú đóng tại Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện quản lý nhà nước về
báo chí đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ Ninh Thuận,
Lâm Đồng trở vào.
Đối với những hoạt động báo chí liên quan đến các bộ và cơ quan
ngang bộ khác đòi hỏi có sự quản lý nhà nước thì các bộ liên quan có trách
nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về báo chí theo quy định của Chính phủ.
Chính phủ đã có quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ để thống nhất quản lý nhà nước về báo chí. Ví dụ:
Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức thông
tin thường kỳ cho báo chí; Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông

20
tin trong việc quản lý các hoạt động thông tin báo chí đối ngoại; Bộ Công an
có nhiệm vụ phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin trong việc quản lý thông

tin trên mạng Internet; Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh xã hội phối
hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công
chức ngành báo chí, chế độ tiền lương, nhuận bút đối với tác phẩm báo chí.
Ở địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thực hiện quản lý nhà nước về báo chí. Sở Văn hóa Thông tin là cơ quan
giúp Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí trên
địa bàn của mình. Sở Văn hóa Thông tin có nhiệm vụ quy hoạch báo chí địa
phương, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chế độ báo chí địa phương mình và
báo chí trung ương và địa phương khác hoạt động trên địa bàn lãnh thổ mình.
Ngoài việc tiến hành thường xuyên kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
về hoạt động báo chí trong nước cũng như nước ngoài trên địa bàn lãnh thổ
mình, Sở Văn hóa Thông tin có nhiệm vụ thực hiện các quy định và hướng
dẫn khác của Bộ Văn hóa - Thông tin khi cần thiết.
1.4. NỘI DUNG, ĐẶC TRƢNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ
1.4.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý nhà nƣớc trong
lĩnh vực báo chí
Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là công cụ quan
trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về báo chí nhằm thúc đẩy sự
phát triển lành mạnh của báo chí; tạo mọi điều kiện để các chủ thể thực hiện
quyền và nghĩa vụ theo pháp luật về báo chí, đồng thời thông qua nó nhằm
phát hiện, ngăn ngừa và xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật về báo chí xâm
hại tới an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Lịch sử phát triển của mỗi nước cho thấy, ở bất cứ một giai đoạn nào,
quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí luôn là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong hoạt động của nhà nước, hướng tới phục vụ đường lối, chính

21
sách đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Hoạt động này được thực thi bởi các
cơ quan trong bộ máy nhà nước (bao gồm cả lập pháp, hành pháp và tư pháp).

Chính hoạt động hành chính của các cơ quan này đã phản ánh rõ nét các nội dung,
đặc điểm cơ bản của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
Những quy phạm quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước (chủ thể quản lý) điều chỉnh (tác động) đến các quan hệ phát
sinh trong quản lý về báo chí (khách thể bị quản lý) cũng như biến đổi cần
thiết trong quá trình vận động của khách thể tạo thành nội dung pháp luật
(quy phạm nội dung) về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là một hệ thống -
một chỉnh thể các nhóm quy phạm có quan hệ hữu cơ với nhau. Từ khái niệm
pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí đã được trình bày ở trên
và qua nghiên cứu các tài liệu, có thể chỉ ra những nội dung cơ quan bản của
nó gồm hai phần: những quy định chung và những quy định cụ thể.
Phần những quy định chung của pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực báo chí bao gồm: các quy phạm điều chỉnh các quan hệ có tính chất
chung, phát sinh trong quản lý nhà nước về báo chí như: vai trò, chức năng
của báo chí; bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo
chí; các loại hình báo chí.
Phần những quy định cụ thể bao gồm: các nhóm quy phạm điều chỉnh
hoạt động báo chí. Cụ thể là những quy định về quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên báo chí của công dân; quy định nhiệm vụ và quyền hạn của
báo chí; quy định về tổ chức báo chí và nhà báo; quy định về quản lý nước về
báo chí; quy định về xử lý vi phạm.
Có thể trình bày khái quát nội dung pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí thành những nhóm sau: pháp luật quản lý nhà nước về
phát hành báo chí (giấy phép hoạt động, thẻ nhà báo, lưu chiểu ); pháp luật
quản lý nhà nước về nội dung, thông tin trên báo chí; pháp luật quản lý nhà
nước về báo chí trong hoạt động đối ngoại; xử lý vi phạm pháp luật về báo chí.

22
Bên cạnh những quy phạm nội dung còn có các quy phạm hình thức

(quy phạm thủ tục), quy định trình tự, thủ tục tiến hành công việc nhằm thực
hiện các quy phạm nội dung. "Thủ tục là hình thức sống của đạo luật và luật
vật chất có thủ tục riêng của nó" [50, tr. 158]. Các quy phạm thủ tục này thực
chất là các quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá
trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thủ tục hành chính
trong lĩnh vực báo chí. Thủ tục hành chính trong lĩnh vực báo chí là một loại
quy phạm hành chính mang tính công cụ để giúp cơ quan quản lý báo chí có
điều kiện thực hiện chức năng của mình. Quy phạm thủ tục trong lĩnh vực báo
chí đảm bảo cho các quy phạm vật chất của luật hành chính và của pháp luật
trong lĩnh vực báo chí được thực hiện có hiệu quả; mặt khác, nó mang tính
phương tiện giúp các chủ thể thực hiện quyền của mình, tạo điều kiện mở
rộng tính pháp chế của nền dân chủ, tính công khai của hành chính nhà nước
trong lĩnh vực báo chí.
Từ sự phân tích ở trên, có thể thấy thủ tục hành chính trong lĩnh vực
báo chí là do các cơ quan nhà nước đề ra và công bố để thực thi Hiến pháp là
pháp luật nhằm thực hiện chức năng quản lý của nền hành chính nhà nước và
hoàn thành nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định; các cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí có trách nhiệm tổ chức thực thi thủ tục đó.
Qua nghiên cứu thủ tục hành chính trong lĩnh vực báo chí, chúng tôi
thấy có một số điểm đáng chú ý như sau:
Thứ nhất, thủ tục hành chính trong lĩnh vực báo chí chủ yếu liên quan
đến lĩnh vực báo chí. Ví dụ: thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
trong lĩnh vực báo chí; thủ tục kỷ luật công chức nhà nước vi phạm quy định
về báo chí; thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí…
Thứ hai, có thể có một hay nhiều bên tham gia thủ tục hành chính
trong lĩnh vực báo chí. Trong quá trình giải quyết công việc, mỗi chủ thể có
quyền và nghĩa vụ thực hiện những hành vi nhất định, trong một phạm vi và
giai đoạn cụ thể nhất định góp phần vào quá trình giải quyết công việc. Hành

23

vi của chủ thể ở giai đoạn trước sẽ là tiền đề cho hành vi ở giai đoạn sau. Từ
đó, để giải quyết một công việc cụ thể nào đó trong lĩnh vực báo chí trong
nhiều trường hợp cần thiết phải thiết lập các quan hệ pháp luật về thủ tục.
Ví dụ: Do tính chất của một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực báo chí mà cơ quan quản lý báo chí cấp dưới cần lập biên bản để trình lên
cấp trên xử phạt hành chính chứ không tự mình ra quyết định xử phạt, vì sẽ vi
phạm thẩm quyền hành chính. Trong trường hợp này, thẩm quyền của cơ
quan quản lý báo chí cấp dưới chỉ là lập biên bản và đề nghị cơ quan quản lý
báo chí cấp trên xử phạt. Việc xử phạt theo mức độ, hình thức nào là thuộc
thẩm quyền của cơ quan cấp trên và cơ quan này cũng chỉ có thể xem xét việc
xử phạt hành chính khi đã có hành vi lập biên bản của cơ quan cấp dưới.
Những quy định có tính ràng buộc như vậy đều được thực hiện theo trình tự
mà pháp luật quy định.
Thứ ba, thủ tục hành chính trong lĩnh vực báo chí là thủ tục hành
chính thuộc về thể chế hành chính nhưng nó liên quan trực tiếp đến bản thân
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về báo chí (phương diện chủ thể quản lý
trong quan hệ thủ tục hành chính). Ví dụ, quy định của Chính phủ về phân cấp
quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí từ chỗ tập trung cao ở một số cơ quan
đã được phân cấp thẩm quyền cho cấp quản lý thấp hơn, góp phần làm giảm
đi nhiều phức tạp trong thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý hơn.
Vì vậy, quan niệm đầy đủ và chính xác hơn về thủ tục hành chính nói chung,
thủ tục hành chính trong lĩnh vực báo chí nói riêng là vấn đề vừa thuộc về thể
chế, vừa thuộc về tổ chức thực thi pháp luật về báo chí.
1.4.2. Đặc trƣng của pháp luật về quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực
báo chí
Để chỉ ra những đặc trưng của pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực báo chí chúng ta cần xem xét các phương diện mà nó thể hiện như:
các quan hệ xã hội được điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều
chỉnh và các quy phạm riêng của nó. Xuất phát từ quan niệm pháp luật về


24
quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí đã được trình bày ở trên và qua
nghiên cứu các văn bản pháp luật về báo chí hiện hành, có thể rút ra những
đặc trưng cơ bản của nó như sau:
* Đặc trưng thứ nhất, pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo
chí thể hiện các yêu cầu đòi hỏi của quyền con người và xác định trách nhiệm
của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực báo chí
Quyền con người trước hết là những quyền do tự nhiên con người vốn
có (và chỉ có con người mới có). Đó là những khả năng hành động một cách
có ý thức, tránh, từ chối hoặc yêu cầu, giành lấy những cái gì đó, nhất là tự bảo
vệ. Nhưng bản thân chúng, quyền tự nhiên chưa phải là quyền trong xã hội.
Để đạt được cái gọi là quyền, cần yếu tố thứ hai nhất định, đó là các
quy định pháp luật. Các quyền tự nhiên của con người khi trở thành đối tượng
điều chỉnh của pháp luật, nói cách khác được pháp luật ghi nhận, tổ chức, bắt
buộc hoặc ngăn cấm thì mới trở thành các quyền trong xã hội. Từ cách quan
niệm trên, quyền con người được hiểu là những quyền tự nhiên của con người
được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh; do con người nắm giữa trong mối quan
hệ với Nhà nước và với những cá nhân con người khác.
Như vậy, một mặt con người sinh ra tự nhiên đã có quyền, Nhà nước
không thể không ghi nhận. Mặt khác, khi chưa được Nhà nước ghi nhận thì
quyền tự nhiên chưa trở thành quyền mà con người giành được với tư cách là
một thành viên của xã hội. Điều đó xuất phát từ tính chất phức tạp của sự
thống nhất lợi ích của mỗi cá nhân với lợi ích chung của cộng đồng.
Chúng ta cần nhận thức rằng, quyền con người là một giá trị chung
của nhân loại. Nó vừa mang thuộc tính tự nhiên của con người, vừa mang tính
xã hội. Có nghĩa là: quyền con người vừa là một giá trị được xã hội hóa, pháp
điển hóa. Nhà nước nơi mà con người đang sống phải có trách nhiệm ghi nhận
và đảm bảo quyền con người bằng các quy phạm pháp luật. Mức độ ghi nhận
và bảo đảm quyền con người phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ
thể mà con người đang sống.

×