Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.14 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................
NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật

thuế...........................................................................................................
1.

Khái niệm.......................................................................................

2.

Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

pháp luật thuế.............................................................................................
a.

Thanh tra, kiểm tra thuế...................................................................

b.

Xử lý vi phạm pháp luật thuế...........................................................

II.

Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp

luật thuế......................................................................................................


III.

Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về

thuế ở Việt Nam..........................................................................................
1.

Thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế..................................................

1.1

Thành tựu.........................................................................................

1.2

Hạn chế............................................................................................

2.

Xử lý vi phạm pháp luật thuế...........................................................

IV.

Hoàn thiện về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật

thuế.............................................................................................................
1.

Về hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế..............................................


2.

Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật thuế..........................................

KẾT LUẬN................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................


LỜI MỞ ĐẦU
Kiểm tra, thanh tra thuế là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lý
thuế theo mô hình chức năng. Bên cạnh việc tôn trọng kết quả tự tính, tự khai tự
nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện các biện pháp giám sát hiệu
quảvừa đảm bảo khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện, vừa đảm bảo phát hiện
ngăn ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Kiểm tra, thanh tra thuế là
một biện pháp hữu hiệu nhằm phát hiện ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp thuế
nhận thấy luôn có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại và kịp thời phát hiện
các hành vi vi phạm của họ. Bên cạnh đó, việc xử lý các vi phạm pháp luật thuế
một cách nhiêm túc, có hiệu quả sẽ làm tăng tính tự giác tuân thủ pháp luật của
người nộp thuế. Ngược lại, nếu hoạt động này lỏng lẻo, không được coi trọng sẽ
để lại hậu quả không chỉ thiệt hại đến ngân sách nhà nước mà còn tạo ra sự bất
công đối với người chấp hành tốt nghĩa vụ thuế.
Do đó, để có thể nhận định rõ ràng, cụ thể hơn về vấn đề này, trong phạm
vi bài tập học kỳ của mình em xin trình bày về: “Vấn đề thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt
Nam hiện nay”.


NỘI DUNG
I.


Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật

thuế.
1.

Khái niệm:
Kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với

các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực
hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế,
nhằm bảo đảm pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế
– xã hội.
Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về
thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại đến trật
tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình.
2.

Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra và xử lý vi

phạm pháp luật thuế.
a.

Thanh tra, kiểm tra thuế:
Chương X của Luật quản lý thuế quy định về kiểm tra thuế, thanh tra thuế

(từ Điều 75 tới Điều 91). Trong đó, Điều 75 quy định về nguyên tắc kiểm tra,
thanh tra thuế như sau:
“1. Thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người
nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và
thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế.

2. Không cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là
người nộp thuế.
3. Tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan”.


Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và
cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý
thu ngân sách đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành. Thông qua
công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm hướng dẫn, giúp đỡ đối tượng nộp thuế
nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện luật thuế; đồng thời
nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi hành công vụ. Thông qua
công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm đánh giá việc chấp hành các luật thuế của
các đối tượng nộp thuế và người thu thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực, đấu
tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu cực. Căn cứ vào những kiến nghị của
kết quả kiểm tra, thanh tra, cơ quan thuế các cấp có thể đề ra các giải pháp cụ thể
để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế, đảm bảo sự công bằng trong
việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các quy trình quản lý thu thuế
ngày càng hợp lý hơn.
Kiểm tra, thanh tra thuế đã góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách pháp
luật về thuế. Là phương tiện phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm
nảy sinh trong hoạt động quản lý thuế. Ngoài ra, kiểm tra, thanh tra thuế còn có
vai trò quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ
chức thực hiện.
b.

Xử lý vi phạm pháp luật thuế.
Chương XII của Luật quản lý thuế quy định về xử lý vi phạm pháp luật

thuế (từ Điều 103 tới Điều 115). Trong đó, Điều 103 quy định về các hành vi vi

phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế như sau:
“1. Vi phạm các thủ tục thuế.
2. Chậm nộp tiền thuế.
3. Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế
được hoàn.
4. Trốn thuế, gian lận thuế ”.


II.

Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp

luật thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là những hoạt động không
thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Trong hoạt động quản lý
thuế nói riêng thì công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm càng trở nên hết
sức quan trọng và cần thiết. Hoạt động quản lý Nhà nước chính là sự tác động có
định hướng của chủ thể quản lý (cơ quan thuế) tới các đối tượng quản lý (đối
tượng nộp thuế) nhằm đạt được mục tiêu động viên một phần thu nhập quốc dân
vào NSNN. Do vậy kiểm tra, thanh tra thuế chính là một công đoạn và là một
yếu tố cấu thành của hoạt động Lãnh đạo quản lý Nhà nước của cơ quan thuế.
Hoạt động quản lý của cơ quan thuế bao gồm từ việc xây dựng các mục tiêu kế
hoạch trong giai đoạn nhất định đến việc tổ chức để thực hiện các mục tiêu kế
hoạch đó và sau cùng là tiến hành kiểm tra, thanh tra thuế, việc thực hiện đó như
thế nào để từ đó tác động ngược trở lại từ khâu xác định chủ trương kế hoạch có
hợp lý hay không nhằm đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thuế đạt được hiệu
quả cao.
Công tác thanh tra nội bộ nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa
những hành vi tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế trong
sạch, vững mạnh với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi về nghiệp

vụ chuyên môn.
III.

Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật

thuế ở Việt Nam hiện nay.
1.
1.1.

Thực trạng thanh tra, kiểm tra thuế.
Thành tựu:
So với trước đây, pháp luật về thanh tra thuế, kiểm tra thuế và xử lý vi

phạm pháp luật hiện hành đã được hoàn thiện đáng kể, trên cơ sở đó đã tạo ra
những điểm mới trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Cụ thể là:


Thứ nhất, công tác thanh tra, kiểm tra trong những năm gần đây ở nước ta
đã có sự chuyển biển tích cực trên nhiều lĩnh vực. Hoạt động thanh tra chuyên đề
diện rộng về chấp hành chính sách, pháp luật của ngành thuế đạt được kết quả
tốt. Thông qua đó, không chỉ phát hiện ra những sai phạm lớn mà còn giúp cho
ngành thuế chấn chỉnh được việc quản lý thu thuế, làm tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước.
Ngoài ra, Luật quản lý thuế đã định ra những nguyên tắc cơ bản về thanh
tra, kiểm tra thuế nhằm định hướng cho việc đổi mới và nâng cao hiệu quả của
công tác thanh tra, kiểm tra thuế

(1)

. Theo tinh thần của các nguyên tắc trên, việc


lựa chọn đối tượng để kiểm tra, thanh tra dựa trên căn cứ khách quan là phân tích
nguồn cơ sở dữ liệu thông tin liên quan đến người nộp thuế, đáng giá thông tin
theo phương pháp đánh giá rủi ro, xác định, lựa chọn đúng đối tượng có mức độ
rủi ro cao nhất để tiến hành kiểm tra, thanh tra. Trên cơ sở phân tích, đánh giá
thông tin về người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế sẽ tiến hành kiểm tra hay
thanh tra, quy mô và phạm vi tiến hành. Từ phân tích thông tin về người nộp
thuế, cơ quan quản lý thuế sẽ điều chỉnh cơ cấu thuộc thanh tra, kiểm tra như:
tăng thời gian phân tích, kiểm tra hồ sơ tại cơ quan thuế, giảm thời gian trực tiếp
thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế; tránh phiền hà cho doanh nghiệp
nhưng tăng tỷ lệ số đối tượng vi phạm được phát hiện.
Thứ hai, đã có sự phân định rõ hơn giữa việc kiểm tra và thanh tra thuế.
Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên mang tính nghiệp vụ của cơ quan quản
lý thuế được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ khai thuế của
người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế chỉ được thực
hiện khi họ không tự giác sửa đổi, bổ sung những nội dung có sai sót mà cơ quan
thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu cầu. Nội dung của kiểm tra thuế là kiểm tra
tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá
1

(1) Điều 75 Luật quản lý thuế 2006


sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế. Thanh tra thuế là kiểm tra đối
tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn, toàn diện hơn. Thanh tra thuế được thực hiện
định kì đối với người nộp thuế lớn, ngành nghề kinh doanh đa dạng, quy mô lớn
và phức tạp; hoặc đối với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế và
thanh tra để giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ
trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Thứ ba, việc pháp luật quản lý thuế quy định rõ về nội dung công tác kiểm

tra, thanh tra thuế tại mục 2 và mục 3 của chương X Luật quản lý thuế năm 2006
đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, thuận lợi hơn cho hoạt động thanh tra, kiểm tra
thuế. Theo đó, căn cứ vào kết quả kiểm tra, thanh tra thuế, thủ trưởng cơ quan
quản lý thuế ra quyết định xử lý về thuế, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thuế. Trường hợp kiểm tra, thanh tra thuế mà phát hiện hành
vi trốn thuế có dấu hiệu tội phạm thì trong thời gian 10 ngày làm việc, kể từ ngày
phát hiện, cơ quan quản lý thuế chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để điều
tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Cơ quan quản lý thuế có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan điều tra trong việc thực hiện điều tra tội phạm về
thuế theo quy định của pháp luật.
1.2.

Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế

vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Cụ thể:
Thứ nhất, về chính sách thuế: Chưa bao quát hết mọi nguồn thu trong nền
kinh tế, chưa thực sự đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế. Chính sách thuế vẫn
còn phức tạp, một số sắc thuế còn nhiều mức thuế suất, lồng ghép nhiều chính
sách xã hội, nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập của thuế.
Thứ hai, về quản lý thuế: Cơ chế quản lý thuế hiện hành chưa được xây
dựng trên cơ sở đề cao tính chủ động, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá


nhân phải tự tính, tự khai, tự nộp thuế vào ngân sách nhà nước và tự chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của đối tượng nộp
thuế, cơ quan thuế, tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được
quy định đầy đủ và còn thiếu nhất quán giữa các sắc thuế với nhau. Một số quy
định còn rườm rà phức tạp, chưa minh bạch gây khóa khăn cho cả người nộp

thuế và cơ quan thuế. Do đó dễ phát sinh tiêu cực trong nghĩa vụ thuế....
Thứ ba, một số cán bộ thanh tra tiến hành thanh kiểm tra doanh nghiệp khi
chưa có quyết định, tự ý mở rộng đối tượng, phạm vi thanh tra, kiểm tra, sử dụng
các giấy tờ khống chỉ hoặc vi phạm các quy định khác về thủ tục thanh tra, kiểm
tra: sách nhiễu, phiền hà, cố tình kết luận vụ việc sai sự thật, bao che cho những
hành vi vi phạm, truy ép doanh nghiệp trong việc giải trình trả lời chất vấn.
Thứ tư, việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chỉ được thực hiện khi có
quyết định của thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải thông báo
cho doanh nghiệp trước khi công bố quyết định thanh tra ít nhất là 7 ngày. Theo
quy định, thời gian thanh tra ở một doanh nghiệp không quá 30 ngày (chỉ tính
ngày thực tế đến làm việc). Vì vậy cũng có trường hợp thanh tra viên thuế cố
tình kéo dài để nhũng nhiễu. Tuy nhiên, vấn đề thanh tra trở ngại chủ yếu là do
doanh nghiệp chậm cung cấp hóa đơn, chứng từ, đi công tác nước ngoài không
ký được hồ sơ hoặc một số vụ liên quan đến nhiều cơ quan: quản lý thị trường,
công an kinh tế... phải giải quyết từng bước.
2.

Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật thuế
Trong thực tiễn, các hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra rất đa dạng,

tinh vi và phức tạp, với nhiều dạng thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể gộp chung
thành 4 loại hành vi, đó là: Vi phạm các thủ tục thuế; Chậm nộp tiền thuế; Khai
sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn; Trốn
thuế, gian lận thuế (2)..
2

(2) Điều 103 Luật quản lý thuế 2006


Luật quản lý thuế 2006 cũng quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm pháp

luật thuế cho từng loại hành vi vi phạm. Theo đó, đối với hành vi vi phạm các
thủ tục thuế (khoản 1 Điều 103) thì thẩm quyền xử phạt được thực hiện theo quy
định của Lụât này và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Đối với các hành vi
chậm nộp tiền thuế; Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số
tiền thuế được hoàn; Trốn thuế, gian lận thuế (gồm các hành vi được quy định tại
Điều 108) thì thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục điều tra chống
buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan có
thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế (3).
Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều vụ vi phạm pháp luật thuế đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng việc điều tra, truy tố, xét xử rất
chậm. Theo số liệu thống kê từ năm 1999 đến năm 2005, tổng số các vụ vi phạm
pháp luật thuế nghiêm trọng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan
thuế đã chuyển hồ sơ sang cơ quan công an là 1616 vụ vi phạm, cơ quan công an
mới điều tra và khởi tố được 553 vụ, xét xử được 67 vụ, thu hồi được cho ngân
sách nhà nước 242,7 tỉ đồng

(4)

. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do cơ

quan tố tụng thiếu nhân lực, thiếu thông tin về quản lý thuế, không chuyên sâu
về nghiệp vụ quản lý thuế nên gặp nhiều khó khăn trong việc điều tra, truy tố,
xét xử loại tội phạm này. Nếu để tình trạng này diễn ra thì không những không
thể truy thu kịp thời số tiền thuế mà người nộp thuế đã trốn, đã chiếm đoạt mà
còn làm giảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa đối với loại tội phạm này.
Theo Tổng cục Hải quan, năm 2009 và tháng 1/2010, lực lượng kiểm soát
hải quan đã bắt giữ được hơn 13 nghìn vụ vi phạm, trị giá hàng hoá vi phạm ước
tính hơn 481 tỷ đồng. Trong đó, nhiều vụ đình đám như vụ vận chuyển ngoại tệ
số lượng lớn qua biên giới, các vụ nhập pháo lậu, thuốc lá ngoại, vận chuyển
vàng trái phép... Tuy nhiên, con số thống kê chỉ phản ánh một phần thực

3

(3) Điều 109 Luật quản lý thuế 2006
(4) Báo cáo tổng kết công tác quản lý thuế 10 năm từ 1996-2005, Bộ Tài chính.

4


tế. Trong năm 2010 lực lượng này thực hiện 783 cuộc kiểm tra, ra quyết định
truy thu 320,7 tỷ đồng, con số nghe qua có vẻ lớn nhưng kỳ thực số truy thu so
số thất thoát là quá ít. Cùng với gần 700 lượt kiểm tra các doanh nghiệp có hoạt
động xuất nhập khẩu, những sai phạm có thể đọc tên: khai sai tên hàng dẫn đến
áp sai mã số thuế, khai báo trị giá thấp hơn so với trị giá thực của hàng nhập
khẩu.
IV.

Hoàn thiện về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp

luật thuế ở nước ta hiện nay.
1.

Về công tác thanh tra, kiểm tra thuế:
Thứ nhất, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về Thanh tra để góp

phần tạo nên những cơ sở pháp lý quan trọng phục vụ cho công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Có thể thấy hiện nay
có không ít văn bản quy phạm pháp luật về công tác thanh tra còn có những bất
cập, khiếm khuyết nên đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngành. Ví
dụ như: Điều 35 Luật Thanh tra quy định về thẩm quyền phê duyệt chương trình
kế hoạch thanh tra, theo đó “Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân cấp huyện, Giám đốc sở theo quy định
của Luật này có trách nhiệm phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra của năm
sau do Tổng thanh tra, Chánh thanh tra cùng cấp trình chậm nhất vào ngày 31
tháng 12 của năm trước...”. Trong quy định này, thời điểm phê duyệt chương
trình, kế hoạch thanh tra là không hợp lý, chưa tính đến khoảng thời gian dành
cho việc triển khai, hướng dẫn thực hiện. Nên chăng cần sửa điều này theo
hướng chương trình kế hoạch của Thanh tra cấp dưới phải được Thanh tra cấp
trên và thủ trưởng cùng cấp phê duyệt. Chương trình, kế hoạch thanh tra của
Thanh tra Chính phủ phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 01
tháng 10 của năm trước để làm căn cứ hướng dẫn cho thanh tra các cấp, các


ngành xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm, như vậy sẽ tạo nên
sự thống nhất về chương trình, kế hoạch thanh tra trong phạm vi cả nước.
Thứ hai, hiện nay những quy định của Luật Thanh tra về trình tự, thủ tục
thanh tra chuyên ngành mới chỉ dừng lại ở những vấn đề có tính nguyên tắc, dẫn
chiếu theo quy định của hoạt động thanh tra hành chính. Do đó, có một số nội
dung về hoạt động thanh tra chuyên ngành cần được quy định cụ thể hơn. Đó là
các vấn đề về quy trình nghiệp vụ tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành
như chuẩn bị thanh tra, tiến hành thanh tra, kết thúc thanh tra; trách nhiệm của
người ra quyết định thanh tra trong việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra,
quyền và nghĩa vụ của Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra khi
tiến hành thanh tra..., trình tự, thủ tục xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, ra văn
bản kết luận thanh tra, thời hạn của mỗi cuộc thanh tra; thời hạn ra báo cáo kết
quả thanh tra, kết luận thanh tra, thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên
ngành và quy định về trình tự, thủ tục thanh tra của Thanh tra viên chuyên ngành
tiến hành thanh tra độc lập...
Thứ ba, cần phải đưa ra các tiêu chí cụ thế áp dụng cho từng đối tượng
nhằm đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế trước khi tiến hành thanh tra,
kiểm tra. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế, tập trung

thu thập, phân tích các thông tin để đanh giá mức độ tuân thủ củ người nộp thuế.
Tổ chức kiểm tra chuyên sâu theo từng ngành, từng lĩnh vực trọng điểm, chế độ
kế toán, hóa đơn chứng từ.
Thứ tư, dựa trên tinh thần Nghị quyết 11/NĐ – CP của Chính phủ về
những giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, chúng ta cần đào tạo, nâng cao kiến thức
cho đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế. Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác quản lý thuế, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm
pháp luật về thuế....
2.

Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật thuế:


Thứ nhất, cần hoàn thiện hơn chế tài về xử lý vi phạm pháp luật về thuế
pháp luật hiện nay, các quy định trong lĩnh vực xử lý vi phạm pháp luật đã từng
bước được hoàn thiện, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công
tác xử lý vi phạm pháp luật thuế tăng cường tính răn đe, giáo dục người vi phạm,
thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi
phạm pháp luật thuếđã bộc lộ một số điểm bất cập như: nguyên tắc xử lý vi
phạm thuế chưa đầy đủ; các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm thuế
trong nhiều lĩnh vực được bổ sung, thay thế kịp thời dẫn tới tình trạng không thể
triển khai trong thi hành.
Thứ hai, để cơ chế tự khai, tự nộp thuế phát huy hiệu quả, tránh vi phạm
cần tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ
kế toán, kê khai và tính thuế. Đồng thời cần có lộ trình triển khai thực hiện phù
hợp, từng bước từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, chia theo từng nhóm
để quản lý; nên có cơ chế khuyến khích các đối tượng nộp thuế tự nguyện áp
dụng phương pháp tự khai tự nộp thuế, chẳng hạn như cho phép được hưởng các
khoản khấu trừ đặc biệt hoặc các chế độ ưu đãi khác.
Thứ ba, cùng với việc hoàn thiện cơ chế tự khai tự nộp thuế, thì công tác

thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế cần được đẩy mạnh, đòi hỏi cơ
quan thuế phải tập trung lực lượng lớn vào việc tuyên truyền và thanh tra kiểm
tra việc chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan chức năng như cơ quan công an, cơ quan ngoại vụ, cơ quan quản lý lao
động,… để nắm bắt kịp thời thông tin về đối tượng nộp thuế, nguồn phát sinh thu
nhập, có biện pháp phân loại đối tượng nộp thuế thành các nhóm khác nhau để
thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả.
Thứ tư, nên xây dựng khung phạt theo hướng giảm nhẹ hơn mức phạt với
hành vi vi phạm thủ tục thuế và chỉ phạt nặng với hành vi trốn thuế vì nước ta là
nước có trình độ phát triển chưa cao, trình độ quản lý còn thấp và hầu hết các


doanh nghiệp nước ta là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên việc vi phạm thủ tục
thuế là điều khó tránh khỏi đối với bất cứ doanh nghiệp nào. Cần quy định các
chế tài đối với người nộp thuế thì quy định khá chi tiết ( nhất là về thời gian chấp
hành, thời hiệu…) trong khi quy định chế tài đối với cán bộ của cơ quan quản lý
thuế vi phạm thì chung chung nên tạo nên tâm lý không bình đẳng giữa người
nộp thuế và cán bộ của cơ quan quản lý thuế.
Thứ năm, để nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế cần phải tăng cường phối
hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng của các ngành, các lĩnh vực có
liên quan, trong đó, phải đề cao vai trò và thẩm quyền của cơ quan thuế trong
việc giám sát thu nhập, thanh tra kiểm tra thuế, xử lý vi phạm và cưỡng chế
thuế....

KẾT LUẬN


Thuế được xem là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước, đảm đương
nhiều nhiệm vụ quan trọng, cân đối thu chi cho ngân sách nhà nước. Tuy vậy,
hiện nay số vụ vi phạm pháp luật thuế ngày càng có chiều hướng gia tăng, khó

kiểm soát. Điều đó đòi cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm pháp luật thuế.
Do vậy, có thể khẳng định: hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
pháp luật thuế đóng vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo việc pháp luật thuế thực
thi có hiệu quả trong thực tế. Tuy vậy, quá trình thực hiện, áp dụng luật cũng như
hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong thực tế còn nảy sinh một số
bất cập, hạn chế. Trong thời gian tới, hy vọng rằng sẽ hoàn thiện hơn nữa cả về
hành lang pháp lý và công tác thực tiễn để hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý
pháp luật thuế thực sự phát huy hết vai trò to lớn của mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Giáo trình luật thuế Việt Nam – NXB Tư pháp – Trường đại học

Luật Hà Nội.
2.

Luật quản lý thuế năm 2006

3.

Báo cáo tổng kết công tác quản lý thuế 10 năm từ 1996-2005, Bộ

Tài chính.
4.

Tạp chí Luật học số 4/2009


5.

Tạp chí luật học số 5/2009

6.

http//:tailieu.vn

7.

http//: www.thuvienphapluat.com
...........



×