Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.76 KB, 21 trang )

Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực
trạng và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt Nam hiện nay.
Lời nói đầu
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu
khách quan, gắn với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì tồn tại
đồng thời với việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật
chất để thực hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, nhà
nước thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ thu
nộp những nguồn vật chất này chính là thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân
sách nhà nước, trong quá trình thu thuế thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải tiến hành thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm nếu có những trường hợp vi
phạm. Do vậy, vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế là vấn
đề hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
I. Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế.
1. Khái niệm về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế:
1.1. Thanh tra về thuế
Thanh tra “là một chức năng thiết yếu của quản lý xã hội, là hoạt động kiểm
tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thường được thực
hiện bởi một cơ quan chuyên trách, theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định,
nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cá nhân”.
Từ cách hiểu đó, thanh tra thuế có thể hiểu là “một chức năng thiết yếu của
quản lý thuế, là hoạt động kinh tế của cơ quan quản lý thuế nhà nước đối với các
đối tượng nộp thuế và chủ thể khác có liên quan nhằm phát hiện, chấn chỉnh những
sai lầm, xử lý vi phạm trong hoạt đông chấp hành chính sách, pháp luật của nhà
nước”.
1.2. Kiểm tra thuế:
1
Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên. Do tính chất này mà chúng ta


không thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những người lãnh
đạo tổ chức và những bộ phận tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm
tra công việc. Điều quan trọng là phải thành lập được hệ thống tự kiểm tra và một
nề nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức và giữa hai nhân tố chủ quan và
khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.
Vậy, kiểm tra thuế được hiểu là việc xem xét các chủ thể chấp hành các chính
sách pháp luật về thuế đúng hay không, kiểm tra việc thực hiện các chính sách về
thuế do nhà nước ban hành ra.
Theo luật quản lý thuế hiện hành ở nước ta:
- Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên, mang tính chất nhiệm vụ của cơ
quan quản lý thuế được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ khai
thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở của người
nộp thuế, chỉ thực hiện khi họ không tự giác sửa đổi, bổ sung những nội dung sai
sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu cầu. Nội dung kiểm tra thuế là
việc kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế
nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế.
- Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn, toàn diện
hơn. Thanh tra thuế được thực hiện theo định kỳ đối với người nộp thuế lớn, ngành
nghề kinh doanh đa dạng, quy mô lớn và phức tạp hoặc với người nộp thuế có dấu
hiệu vi phạm pháp luật thuế và thanh tra để giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế
hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc bộ trưởng Bộ
tài chính.
1.3. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế:
Trước hết, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ. Còn, xử lý vi phạm pháp luật là sự bắt buộc phải gánh chịu hậu quả pháp lý
bất lợi do có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy ra do những nguyên
nhân khác được pháp luật quy định.
2
Vậy, xử lý vi phạm pháp luật về thuế có thể được hiểu là hoạt động của các

chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính hay hình sự đối với các tổ chức, cá nhân vi
phạm pháp luật về thuế.
2. Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi
phạm trong lĩnh vực thuế
2.1. Những vấn đề chung về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế:
a) Khái niệm, đặc điểm của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế
* Khái niệm pháp luật thanh tra, kiểm tra: Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là
tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thanh tra, kiểm
tra trong lĩnh vực thuế của nhà nước.
* Đặc điểm của pháp luật thanh tra, kiểm tra: Pháp luật thanh tra, kiểm tra
thuế là một bộ phận trong hệ thống pháp luật thuế nói riêng và pháp luật thanh tra,
kiểm tra thuế nói chung. Vì vậy, ngoài những đặc điểm chung của pháp luật thanh
tra, kiểm tra thì pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế còn có những đặc điểm đặc thù
như sau:
Thứ nhất, Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế chứa đựng những quy định mang
tính chất chuyên ngành. Tức là nó thực hiện một mảng riêng biệt đó là thanh tra,
kiểm tra thuế. Theo quy định của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế thì thanh tra
thuế có chức năng giúp Bộ tài chính, ngành thuế thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế. Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế chủ yếu là các quy
định về quy trình, quy phạm liên quan đến chuyên môn, kỹ thuật trong quá trình
quản lý thuế.
Thứ hai, Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là bộ phận của pháp luật thanh tra,
kiểm tra vì vậy nó được quy định trong luật thanh tra. Tuy nhiên do là pháp luật
chuyên ngành nên chủ yếu nó được quy định trong Luật quản lý thuế, ngoài ra nó
còn được quy định trong các luật khác có liên quan.
Thứ ba, Ngoài vai trò chức năng, quyền hạn được quy định trong Pháp luật
thanh tra nói chung thì pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế còn được quy định về việc
3

áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đặc điểm này cũng xuất phát từ thực tiễn
công tác thanh tra, kiểm tra thuế vì trong nhiều trường hợp cần thiết việc áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ giúp cho việc thực hiện công tác thanh tra,
kiểm tra thuế đạt được hiệu quả cao.
b) Những nội dung chủ yếu của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế
Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế có những nội sung cơ bản sau:
Những quy định về nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế: Đây là tư tưởng, quan
điểm chủ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện pháp luật
về thanh tra, kiểm tra thuế và nó có tính bắt buộc các chủ thể có liên quan phải tuân
theo trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế.
Những quy định về kiểm tra thuế: Đây là bộ phận pháp luật quy định về các
hình thức kiểm tra thuế, nội dung, mục đích, quy trình kiểm tra thuế và cách thức
xử lý trong và sau hoạt động kiểm tra thuế.
Những quy định về thanh tra thuế: Bộ phận pháp luật này quy định về các
trường hợp thanh tra thuế, thủ tục, trình tự tiến hành, quy định cơ cấu thành phần
đoàn thanh tra, điều kiện đối với trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên…
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm,
quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền khi tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế.
Những quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng
trong quá trình thanh tra kiểm tra thuế.
2.2. Những vấn đề chung của pháp luật và xử lý vi phạm trong lĩnh vực
thuế
a) Khái niệm, đặc điểm vi phạm pháp luật về thuế
* Khái niệm: Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp
luật về thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại
đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình
* Đặc điểm: Có thể nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật về thuế qua những
dấu hiệu sau:
4
Về phương diện chủ thể: Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi được thực hiện

bởi các chủ thể là tổ chức hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động hành thu thuế
như người nộp thuế, cơ quan thuế hoặc công chức ngành thuế.
Về phương diện khách quan: vi phạm pháp luật thuế là hành vi trái pháp luật.
Về phương diện chủ quan: vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng phản ánh
mức độ lỗi (cố ý hoặc vô ý) của người thực hiện.
Về phương diện khách thể: hành vi vi phạm pháp luật thuế đã phương hại đến
những lợi ích cụ thể được pháp luật bảo vệ.
b) Phân loại vi phạm pháp luật thuế
Hành vi vi phạm pháp luật thuế thuộc về một trong các hành vi chủ yếu sau:
*Vi phạm hành chính về thuế: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế là hành
vi làm trái các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá
nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật
hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử lý hình sự và phải chịu trách nhiệm
hành chính.
* Vi phạm hình sự về thuế: là hành vi trái pháp luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi ích phát sinh
từ quan hệ nộp thuế được luật hình sự bảo vệ.
* Ngoài ra còn có các vi phạm khác về thuế: Nhìn từ góc độ pháp lý thì còn có
các vi phạm khác về thuế như: quy định về hình thức tờ khai đăng ký thuế, hình
thức của văn bản đăng ký kê khai thuế và văn bản thông báo thuế, hình thức văn
bản quyết định giải quyết khiếu nại về thuế…
c) Các biện pháp chế tài xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế
* Chế tài hành chính: Theo quy định của pháp luật hiện hành, các biện pháp
chế tài hành chính bao gồm: biện pháp cảnh cáo, phạt tiền… đối với các hành vi vi
phạm khác nhau sẽ có các hình thức và mức xử phạt khác nhau. Hình thức xử phạt
và mức xử phạt vi phạm pháp luật hành chính về thuế được quy định trong Luật
quản lý thuế và Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 về xử lý vi phạm
pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế và các văn bản
khác có liên quan
5

* Chế tài hình sự: Về phương diện lý luận thì chế tài hình sự là trách nhiệm
pháp lý mà nhà nước áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự
nhưng hành vi này có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực thuế. Chế tài hình sự được
quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 và các văn bản khác có liên quan.
3. Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
trong quản lý thuế:
Công tác thanh tra, kiểm trra, xử lý vi phạm trong quản lý thuế là hoạt động
không thể thiếu được trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động
quản lý thuế nói riêng. Trong hoạt động quản lý thuế thì công tác thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm càng trở nên hết sức cần thiết. Thuế là nguồn thu chủ yếu của
ngân sách nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân, là công cụ bảo vệ
kinh tế trong nước và ngăn ngừa, răn đe các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế,
chống thất thu ngân sách nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế nước ta đang thực hiện cải cách công tác quản lý thuế theo cơ chế
tự khai, tự nộp thuế thì công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm thuế càng cần
được coi trọng để có thể mang lại hiệu quả thực hiện cao nhất.
4. Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về
thuế:
- Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đây là
mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Công tác
thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản
lý thuế nhằm đảm bảo cho các quy định về nộp thuế được chấp hành một cách đầy
đủ. Chính tính chất thường xuyên của hoạt động này đã có tính chất phòng ngừa
các vi phạm pháp luật thuế. Các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế sẽ chỉ rõ các sai
phạm của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra và có tính chất răn đe với những người
có ý định vi phạm pháp luật thuế.
- Bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của các chính sách thuế mà nhà nước ban hành.
Bảo đảm không bị thất thoát từ các khoản thu thuế của ngân sách nhà nước.
6
- Bảo đảm pháp luật thuế được thi hành nghiêm trên thực tế; bảo đảm sự cân

bằng trong nghĩa vụ nộp thuế; bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp cuat công dân thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế.
- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý thuế mà cụ thể là cán bộ thực
hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân
thủ các quy định của pháp luật thuế.
II. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
thuế ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật về thuế ở
Việt Nam hiện nay
1.1 Những kết quả đạt được
Trên thực tế trong mấy năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi Luật quản lý thuế
được ban hành ngày 29/11/2006 thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã đạt được
những bước phát triển nhất định. Cụ thể là: Cơ quan thuế các cấp đã tiến hành áp
dụng rộng rãi kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế với việc tăng
cường thu thập thông tin về người nộp thuế, tiến hành phân tích, đánh giá các
thông tin từ các nguồn thông tin khác nhau về người nộp thuế để tiến hành lựa
chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra. Việc lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra có
trọng điểm tránh mất thời gian, tiết kiệm được chi phí của cơ quan thuế và người
nộp thuế đem lại số truy thu lớn.
Trong giai đoạn 2006-2010, ngành thuế đã tập trung nguồn lực cho việc xây
dựng, triển khai phương pháp thanh tra theo kỹ thuật quản lý rủi ro, tập trung vào
trọng tâm, trọng điểm, rút ngắn thời gian thanh tra, kiểm tra, tăng số lượng đơn vị
được thanh tra và mở rộng phạm vi chấn chỉnh trong công tác quản lý thuế. Ký kết
quy chế phối hợp với cơ quan Công an điều tra nhiều vụ tội phạm trốn thuế, chiếm
đoạt tiền thuế, thu hồi cho NSNN và xử lý hình sự. Tính đến tháng 11-2010, toàn
ngành đã thanh tra, kiểm tra 18.141 đơn vị, bằng hơn 95% so cùng kỳ. Tổng số
thuế truy thu, tiền phạt là 4.014 tỷ đồng. Năm 2010, quán triệt tinh thần Nghị định
số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ, toàn ngành đã tập trung thanh tra, kiểm tra giá,
kiểm soát chi phí, giá thành sản phẩm, nhất là những mặt hàng thiết yếu như: lương
7

thực, thực phẩm, thép, viễn thông... góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm
phát. Chú trọng thanh tra chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài như: thanh tra, kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô-
tô, sản xuất, kinh doanh chè tại Lâm Đồng..., truy thu thuế 133,4 tỷ đồng, điều
chỉnh giảm lỗ hơn 1.400 tỷ đồng.
Theo trang thì năm 2007 ngành thuế đã
kiểm tra được 32.304 cơ sở kinh doanh, phát hiện và truy thu 3.7776,5 tỷ đồng
trong đó số thuế trốn lậu được phát hiện truy thu qua kiểm tra là 3096 tỷ đồng, số
thuế nợ đọng là 680,4 tỷ đồng. Ngoài ra theo trang http://www,gdt.gov.vncũng
trong năm 2007 đã kiểm tra trước hoàn thuế tại 2869 đơn vị với số thuế mà doanh
nghiệp đề nghị hoàn là 1.909,5 tỷ đồng. Qua kiểm tra đã phát hiện số thuế không
đủ điều kiện hoàn thuế, loại trừ 77,3 tỷ đồng, kiểm tra sau hoàn thuế tại 4.114 đơn
vị thu hồi về cho ngân sách nhà nước 17,7 tỷ đồng. Qua những số liệu trên ta có thể
thấy cong tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thu thuế đã giảm bớt, nâng cao được
hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra. Phát hiện và xử lý các vi phạm góp phần
tránh thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước cũng như nhằm chấn chỉnh thái độ
chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, đảm bảo thực thi pháp luật thuế một
cách nghiêm túc hơn.
Công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra các đối tượng
nộp thuế mà còn được tổ chức ngay trong nội bộ cơ quan thu thuế với những nội
dung kiểm tra chủ yếu như: thực hiện nghiệp vụ phát hành, quản lý sử dụng biên
lai, hóa đơn; quy trình thanh tra, kiểm tra, quyết toán thuế tại cơ sở kinh doanh;
công tác giải quyết đơn thư khiếu tố về thuế… Kết quả mà thanh tra, kiểm tra thuế
đạt được còn thể hiện cụ thể qua công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở nhiều địa
phương trong cả nước cụ thể:
Theo website Cục thuế Thái Bình thì năm 2010, Ngành thuế Thái Bình đã thu
548.707 triệu đồng tiền thuế nợ nộp vào NSNN, trong đó thu nợ của năm 2009 về
trước là 215.920 triệu đồng, thu nợ mới phát sinh là 332.787 triệu đồng. Đơn vị có
số thu nợ lớn là: Văn phòng Cục: 485.038 triệu; Chi cục Thuế Thành phố: 19.508
triệu; Chi cục Thuế Thái Thuỵ: 15.592 triệu và Chi cục Thuế Tiền Hải 11.844 triệu

8

×