Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính Lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 131 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



BÙI TIẾN ĐẠT





PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH:
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2008


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



BÙI TIẾN ĐẠT





PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH:
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Phạm Hồng Thái








HÀ NỘI - 2008


1
MỤC LỤC

Trang
Mở đầu
1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH
5
1.1. Xử phạt vi phạm hành chính và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính
5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
8
1.2. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
11
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính
11
1.2.2. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
20
1.2.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu

quả
21
1.2.4. Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt vi
phạm hành chính
24
1.2.5. Thẩm quyền quy định vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và các biện
pháp khắc phục hậu quả
25
1.2.6. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
26
1.2.7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
27
1.3. Sơ lƣợc quá trình phát triển của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
ở nƣớc ta
29
1.3.1. Giai đoạn 1945 – 1975
29
1.3.2. Giai đoạn 1975 – 1986
30
1.3.3. Giai đoạn từ 1986 đến nay
31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH
37
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
37
2.1.1. Hình thức các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
37
2.1.2. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
40

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
71
2.2.1. Áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
71
2.2.2. Chấp hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
76
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
79
2.3.1. Cấu trúc hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành
79
2.3.2. Những thành tựu
80
2.3.3. Những hạn chế
81
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế
86




2
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
89
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong giai
đoạn hiện nay
89
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
89

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính phục vụ yêu cầu hội
nhập quốc tế, bảo đảm sự tương thích của pháp luật Việt Nam và pháp luật
quốc tế
90
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nhằm bảo vệ quyền
con người
95
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở
nƣớc ta hiện nay
97
3.2.1. Xây dựng triết lý về vi phạm hành chính và pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính
97
3.2.2. Xác định lại mối quan hệ giữa pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và
pháp luật hình sự
101
3.2.3. Xây dựng lại cấu trúc hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
102
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở nƣớc ta
hiện nay
102
3.3.1. Xây dựng Luật Xử phạt vi phạm hành chính
102
3.3.2. Xác định lại thẩm quyền quy định vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và
các biện pháp khắc phục hậu quả
104
3.3.3. Xác định mối quan hệ giữa Luật Xử phạt vi phạm hành chính và các luật,
pháp lệnh chuyên ngành quy định về xử phạt vi phạm hành chính
111
3.3.4. Xác định rõ khái niệm “vi phạm hành chính”, “xử phạt vi phạm hành chính”

112
3.3.5. Bổ sung nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
113
3.3.6. Bổ sung hình thức xử phạt vi phạm hành chính, xác định lại tính chất của
các hình thức đó
114
3.3.7. Bổ sung các biện pháp khắc phục hậu quả và phân loại theo từng lĩnh vực
115
3.3.8. Quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả
115
3.3.9. Sửa đổi, bổ sung các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo
xử phạt vi phạm hành chính theo hướng bảo vệ quyền con người
116
3.3.10. Quy định thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính phù hợp với từng lĩnh vực
116
3.3.11. Hợp lý hóa thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và tăng tính hiệu lực, hiệu
quả thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
117
KẾT LUẬN
118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
122


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

VPHC Vi phạm hành chính

XLVPHC Xử lý vi phạm hành chính
XPVPHC Xử phạt vi phạm hành chính
PLXPVPHC Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính
PLXLVPHC Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
BLXPVPHC Bộ luật Xử phạt vi phạm hành chính
BLXLVPHC Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính
LXPVPHC Luật Xử phạt vi phạm hành chính
LXLVPHC Luật Xử lý vi phạm hành chính
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
TAND Tòa án nhân dân


4
LỜI NÓI ĐẦU

1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đấu tranh phòng chống các vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật
hành chính nói riêng luôn là nhiệm vụ trọng yếu của nhà nước ta. Trong bối cảnh
hiện nay, hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính chưa đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn. Tính hiểu quả của các biện pháp xử phạt chưa cao; thủ tục xử phạt
còn rườm rà; tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản… là những điều
bức xúc của người dân cũng như bộ máy hành chính.
Do đó, Nghị quyết của Quốc hội số 11/2007/NQ-QH12 ngày 21 tháng 11 năm
2007 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII
(2007-2011) và năm 2008 đã đưa dự án Luật Xử lý vi phạm hành chính vào chương
trình chính thức. Với dự án luật này, nhà nước ta mong muốn tạo một đột phá trong
lịch sử phát triển pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (trong đó có xử phạt vi
phạm hành chính) của Việt Nam.

Hiện nay, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định xử lý vi phạm
hành chính gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính
khác. Xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn, xử phạt vi phạm hành chính và các
biện pháp xử lý hành chính khác có bản chất, mục đích, đối tượng, các biện pháp áp
dụng, thủ tục áp dụng… khác nhau. Và trên thế giới có nhiều nước xây dựng một
đạo luật riêng về xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, việc nghiên cứu riêng về vấn
đề pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính được đặt ra có ý nghĩa lý luận và thực
tiến lớn. Vì vậy, học viên thực hiện Luận văn thạc sĩ với đề tài “Pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn” để góp phần vào việc nghiên cứu
đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Học viên đã tiếp cận một số công trình khoa học về vấn đề xử phạt vi phạm
hành chính được công bố trong khoảng 10 năm gần đây như:
a. Công trình khoa học nghiên cứu liên quan nhiều tới đề tài luận văn:
Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính, Luận văn thạc sĩ luật học,
Viện Nhà nước và pháp luật. Luận văn này nghiên cứu về chế định trách nhiệm
hành chính - một cách tiếp cận gần gũi nhưng vẫn có nhiều điểm khác biệt với vấn
đề pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Hơn nữa, luận văn này được nghiên
cứu hơn 10 năm trước đây nên cần có sự nghiên cứu cập nhật với hiện tại.
b. Các công trình khoa học nghiên cứu một vấn đề nhỏ trong việc xử phạt vi
phạm hành chính hoặc pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính


5
- Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Hoàng Yến (2002), “Tăng cường và đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát
trong xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (8).
- Bùi Xuân Đức (2006), “Về vi phạm hành chính và hình thức xử phạt hành
chính: những hạn chế và giải pháp đổi mới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (2).

- Đỗ Hoàng Yến (2007), “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và việc
xây dựng Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (5).
- Nguyễn Ngọc Bích (2007), “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và
những bất cập trong quy định pháp luật hiện hành”, Tạp chí luật học (8).
- Trương Khánh Hoàn (2008), “Bất cập của các quy định về biện pháp khắc
phục hậu quả trong xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
(31,32).
c. Các công trình khoa học nghiên cứu về việc xử phạt vi phạm hành chính
trong một lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể
- Đàm Đức Tuyền (2006), Vi phạm hành chính và áp dụng trách nhiệm hành
chính trong lĩnh vực hải quan tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
- Kim Long Biên (2007). Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà
nước và pháp luật phối hợp đào tạo với Đại học Luật TPHCM.
- Bùi Huy Tùng (2007), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - ĐHQGHN.
d. Các công trình khoa học nghiên cứu tổng thể về pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính (bao gồm cả pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính)
- Đỗ Hoàng Yến (2007), “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở một số
nước trên thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (10).
- Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, NXB Tư pháp, Hà Nội.
- Bộ Tư pháp (2007), Báo cáo đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính.
- Bộ Tư pháp, Cơ quan phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) - Dự án
VIE/02/015 (2008), Kỷ yếu Hội thảo Định hướng xây dựng Luật Xử lý vi phạm
hành chính, Quảng Ninh, 08-09/5/2008.
e. Các Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Khoa Luật – ĐHQGHN,
Trường Đại học Luật Hà Nội đề cập về trách nhiệm hành chính.



6
Các công trình khoa học trên hoặc đã cũ hoặc chỉ đề cập đến một tiểu vấn đề
hoặc chưa trực diện nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính. Do đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn này vừa là sự kế thừa,
phát triển các công trình trên nhưng cũng là cách tiếp cận mới về mặt khoa học và
có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Các công trình trên là tài liệu tham khảo quan trọng cho
luận văn thạc sĩ này.
3. Mục đích của đề tài
Với đề tài này, tác giả mong muốn:
- Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
- Phân tích thực trạng quy định và thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính; chỉ ra những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật này.
- Đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và nội dung
các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Vấn đề thực hiện pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính không phải là vấn đề trọng tâm nhưng cũng được
xem xét nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết quả của các công trình nghiên cứu về
xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép vì đã có sự
sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả.
2. Phương pháp so sánh
So sánh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính của nước ta trong từng giai
đoạn; So sánh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính của nước ta với các nước trên

thế giới.
3. Phương pháp lịch sử
Xem xét pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính theo từng thời kỳ. Mỗi giai
đoạn sẽ có pháp luật phù hợp. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát triển pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính.
4. Phương pháp thống kê xã hội học
Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát về thực trạng vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính để đề ra những giải pháp hợp lý.
5. Các phương pháp của xã hội học pháp luật


7
Phân tích cơ sở xã hội của việc xử phạt vi phạm hành chính.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà
nghiên cứu, giảng viên, học viên, sinh viên.
- Luận văn đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà lập
pháp.
- Những điểm mới nhất của luận văn là: đưa ra triết lý về về vi phạm hành
chính và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính; đưa ra cấu trúc mới của hệ thống
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính; đưa ra các giải pháp dựa trên yêu cầu
hoàn thiện pháp luật hiện nay cũng như kinh nghiệm trên thế giới.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi

phạm hành chính



8

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

1.1. Xử phạt vi phạm hành chính và pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính
1.1.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở
ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà
nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì
sự phát triển bền vững của xã hội [61, tr. 288]. Pháp luật có ba chức năng: điều
chỉnh, bảo vệ và giáo dục. Sở dĩ pháp luật có chức năng bảo vệ vì trong xã hội vẫn
tồn tại những “vi phạm pháp luật” – là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến
các lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích của công dân, do người có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi [61, tr. 537]. Và người vi phạm pháp luật
phải chịu trách nhiệm pháp lý – hậu quả của vi phạm pháp luật và được thể hiện
trong việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế (chế
tài xử lý) [61, tr. 550].
Vi phạm hành chính là một trong những loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ
biến và có ảnh hưởng lớn tới xã hội
1
. Vi phạm hành chính là hành vi (hành động

hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng
lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà
nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân,
xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân mà theo quy định của
pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính [81, tr. 393]. Và chủ thể thực hiện vi
phạm hành chính phải chịu trách nhiệm hành chính - là hậu quả của vi phạm hành
chính, thể hiện ở sự áp dụng bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền những chế


1
Theo báo cáo của Công an các tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm 1990 đã phát hiện 523.030 vụ vi
phạm hành chính. Vậy mà, đến 2003, chỉ tính riêng trong lĩnh vực giao thông đường bộ, theo số liệu công bố
của Bộ Công an thì trong 10 tháng đầu năm 2003 có 3.000.000 trường hợp vi phạm pháp luật về giao thông
với số tiền nộp phạt là 347 tỷ đồng, đã quyết định tạm giữ trên 20.000 ôtô, 43,4, vạn môtô, xe máy mắc lỗi
nặng, lập biên bản gần 1000 trường hợp hối lộ sau khi vi phạm (Nguồn: Báo An ninh thủ đô số 1097 ra ngày
03/11/2003 – [44, tr. 8]


9
tài pháp luật hành chính đối với chủ thể vi phạm hành chính theo thủ tục do luật
hành chính quy định. Đó là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nước đối với người thực
hiện vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể thực hiện vi phạm hành chính phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh thần so với tình trạng ban
đầu của họ [81, tr. 397]. Theo lý luận về trách nhiệm hành chính thì có hai nhóm
biện pháp trách nhiệm hành chính là các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính và
các biện pháp khôi phục các quyền và lợi ích đã bị vi phạm hành chính xâm hại [81,
tr. 402].
Tiếp nhận lý luận trên, trong thực tiễn, nhà nước ta thực hiện các hoạt động
“xử phạt vi phạm hành chính” “để đấu tranh phòng ngừa và chống vi phạm hành
chính, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước” (Phần mở đầu của Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính 2002). Và khoản 2 Điều 1 PLXLVPHC quy định “xử
phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây
gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Và Pháp lệnh cũng quy định 3 nhóm biện
pháp có thể được áp dụng đối với vi phạm hành chính: 1. Các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính; 2. Các biện pháp khắc phục hậu quả; 3. Các biện pháp ngăn chặn
vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính. Áp dụng các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả chính
là hai nhóm biện pháp trách nhiệm hành chính theo lý luận nêu trên. Còn các biện
pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính là
các biện pháp ngăn chặn hành chính, được áp dụng trong các trường hợp cần thiết
phải ngăn chặn, dập tắt những vi phạm hành chính, đảm bảo việc xử phạt hay ngăn
chặn những hậu quả thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra [81, tr. 378]. Vậy, có
thể kết luận xử phạt vi phạm hành chính là việc các cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính (gồm các hình thức
xử phạt vi phạm hành chính; các biện pháp khắc phục hậu quả; các biện pháp
ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính) đối
với những cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành chính nhằm đảm bảo trật tự
và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
nằm trong khái niệm xử lý vi phạm hành chính khi Điều 1 PLXLVPHC 2002 quy
định rằng “Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các


10
biện pháp xử lý hành chính khác”. Pháp lệnh XLVPHC 1995 và 2002 đều không
đưa ra định nghĩa mang tính lý luận về XLVPHC, XPVPHC và các biện pháp xử lý

hành chính khác mà chỉ quy định trực tiếp những hình thức, biện pháp thuộc nội
hàm của các chế định này. Chúng ta cần xem xét liệu điều đó đã đúng về mặt lý
luận hay chưa? Ở đây, cần phải thấy rằng khái niệm “xử lý vi phạm hành chính” là
khái niệm mới xuất hiện và được chính thức quy định lần đầu tiên trong
PLXLVPHC 1995. Trước đó, trong một số văn bản pháp luật có sử dụng cụm từ
“xử lý hành chính” hàm nghĩa chỉ các biện pháp phi hình sự như xử lý kỷ luật hoặc
xử phạt hành chính. PLXPVPHC 1989 có khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính”
chỉ các biện pháp xử phạt thông dụng như cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm… Việc xuất hiện khái niệm “xử lý vi phạm hành chính” trong
PLXLVPHC 1995 nhằm đưa ra một khái niệm chung bao hàm các chế tài tài xử
phạt hành chính theo Pháp lệnh 1989 và các biện pháp xử lý hành chính khác mới
được đưa vào Pháp lệnh 1995 trên cơ sở các quy định trước đây như Nghị quyết
49/NQ-TVQH ngày 20/06/1961 của UBTVQH về tập trung giáo dục cải tạo, Thông
tư số 68/TTg-VG của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/07/1964 về việc thành lập các
trường giáo dục thiếu niên hư, Quyết định số 217/TTG/CN ngày 18/12/1967 về việc
tổ chức lại các trường giáo dục thiếu niên hư…
Khi Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC 2002 quy định “Các biện pháp xử lý hành
chính khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh,
trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự được quy
định tại các điều 23, 24, 25, 26 của Pháp lệnh này” đã chứng tỏ vấn đề “các biện
pháp xử lý hành chính khác” được lồng ghép vào Pháp lệnh là một sự khiên cưỡng.
Bởi vì các biện pháp hành chính khác (hay còn gọi là các biện pháp cưỡng chế hành
chính đặc biệt) về cơ bản không phải là biện pháp xử lý vi phạm hành chính mà có
bản chất rất khác nhau, đa phần trong số đó là các biện pháp tư pháp hình sự. Trong
Bộ luật Tố tụng Hình sự đã có một số biện pháp tương tự bởi đối tượng áp dụng các
biện pháp này không chủ yếu là đối tượng VPHC [81, tr. 383]. Và chính vì “các
biện pháp xử lý hành chính khác” là một sự lồng ghép không đúng chỗ nên khái
niệm “xử lý vi phạm hành chính” cũng là một phép cộng khiên cưỡng khi Pháp lệnh
quy định một cách máy móc “Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm
hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác”. Do đó, có thể khẳng định khái

niệm xử lý vi phạm hành chính theo tinh thần Pháp lệnh không có tính khoa học.
1.1.1.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính
1. Cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính là vi phạm hành chính


11
Không có VPHC thì không có trách nhiệm hành chính, cũng như cơ sở của
trách nhiệm hình sự là tội phạm, của trách nhiệm dân sự là vi phạm quan hệ dân sự,
của trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ luật.
2. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và do đó được áp dụng theo thủ
tục hành chính do các quy phạm thủ tục hành chính quy định.
Vì VPHC là những vi phạm nhỏ và phổ biến nên việc XPVPHC không theo
thủ tục tư pháp như đối với truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, mà
theo thủ tục hành chính và chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
thực hiện.
Không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào cũng có thẩm quyền
XPVPHC mà chỉ có một số cơ quan nhất định trong số đó được nhà nước trao
quyền hạn này. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, cũng như việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế hành chính nói chung, nằm ngoài hoạt động xét xử của Tòa án.
Còn các biện pháp trách nhiệm hình sự, dân sự được thực hiện theo trình tự xét xử
của Tòa án. Tuy nhiên, Tòa án cũng có thẩm quyền XPVPHC trong trường hợp
ngoại lệ đặc biệt (đó là đối với những hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa).
Thủ tục XPVPHC đơn giản hơn so với thủ tục áp dụng cưỡng chế hình sự và
dân sự.
3. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính không chỉ nhằm đảm bảo thực hiện,
bảo vệ các quy phạm vật chất của ngành luật hành chính mà còn bảo đảm thực hiện
và bảo vệ các quy phạm vật chất của các ngành luật khác (như luật tài chính, ngân
hàng, đất đai, môi trường…)
4. Giữa cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện xử phạt vi phạm

hành chính và chủ thể bị áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính không
có quan hệ trực thuộc.
Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt việc áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính và các biện pháp cưỡng chế kỷ luật – dạng cưỡng chế mà cơ quan quản
lý nhà nước cũng có quyền áp dụng rộng rãi trong hoạt động của mình. Giữa chủ
thể có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế kỷ luật và người bị áp dụng biện pháp cưỡng
chế đó phải có quan hệ trực thuộc.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển nhanh chóng của đời sống
kinh tế xã hội thì tình trạng vi phạm hành chính cũng ngày càng diễn ra phổ biến và
đa dạng về hình thức biểu hiện, gây ảnh hướng lớn đến an ninh trật tự an toàn xã hội


12
và sự phát triển nói chung, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực. Trước thực trạng VPHC diễn ra hết sức phổ biến và đa dạng, phức tạp như vậy,
Nhà nước ta đã dần hoàn thiện thể chế pháp lý về XPVPHC, đồng thời kiện toàn bộ
máy XPVPHC bao gồm cả con người, trang thiết bị phương tiện và những vấn đề
liên quan nhằm đáp ứng hữu hiệu yêu cầu hiện nay.Từ khi thành lập nước đến nay,
hệ thống pháp luật về XPVPHC nước ta ngày càng hoàn thiện hơn. Sau cách mạng
tháng Tám, Nhà nước Việt Nam mới bên cạnh nhiệm vụ tiến hành công cuộc kháng
chiến bảo vệ nền độc lập còn non trẻ và cũng để phục vụ sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc đó đã bắt đầu thực hiện những biện pháp bảo đảm an ninh trật tự. Trong
lĩnh vực hành chính Nhà nước cũng bắt đầu thi hành các biện pháp “có tính cách
hành chính” thể hiện bằng việc ban hành văn bản quy định các hình thức xử phạt
đối với các hành vi vi phạm các chính sách của Nhà nước lúc bấy giờ. Các văn bản
của Nhà nước giai đoạn này quy định về vi phạm hành chính và chế tài hành chính
thường có trong nhiều văn bản và trực diện đưa ra các vi phạm và biện pháp chế tài
cụ thể đi liền.

Giai đoạn tiếp theo từ năm 1954 đến năm 1989, xét về mặt kỹ thuật lập quy
cũng như hoạt động xử phạt hành chính so với giai đoạn trước đó, cũng chưa có
nhiều biến chuyển. Việc quy định hành vi vi phạm hành chính và các chế tài đối với
chúng (ngoài những quy định cũ vẫn hiện hành) vẫn do nhiều cơ quan (từ Chính
phủ đến Bộ, Uỷ ban nhân dân) quy định trong các văn bản khác nhau và vẫn theo
cách xử lý tình hưống chứ chưa thành hệ thống, chưa có tính tổng thể, toàn diện.
Điểm đặc trưng là giai đoạn này nổi lên khía cạnh quản lý nhằm xác lập và bảo vệ
các quan hệ xã hội chủ nghĩa. Chính điều này có ảnh hưởng rõ rệt đến việc quy định
các hành vi vi phạm và hệ thống chế tài đối với chúng. Thời kỳ này đã có một văn
bản quy định riêng về XPVPHC là Điều lệ xử phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị
định số 143/CP ngày 27-5-1977 của Hội đồng Chính phủ.
Năm 1989 được lấy làm mốc cho giai đoạn mới của sự phát triển của pháp luật
xử phạt hành chính. Đấy là năm nước ta ban hành một văn bản chung thống nhất có
tính pháp điển hoá cao cho lĩnh vực xử phạt hành chính – Pháp lệnh xử phạt vi
phạm hành chính - và vì cũng từ đây pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói
riêng và pháp luật nói chung song hành với công cuộc đổi mới, vừa phục vụ sự
nghiệp đổi mới, vừa tự đổi mới trong đó phản ánh tư duy mới về dân chủ hoá xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bước phát triển
(hay có thể coi là hoàn thiện) tiếp theo về quy định hành vi vi phạm hành chính và
chế tài hành chính gắn với việc ban hành Pháp lệnh mới về xử lý vi phạm hành
chính được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6-7-1995 – Pháp lệnh xử lý


13
vi phạm hành chính năm 1995.Do yêu cầu của công cuộc đổi mới, để kịp thời và đủ
hiệu lực đấu tranh với các vi phạm hành chính trong điều kiện mới nhất là các vi
phạm có liên quan đến mở cửa, hội nhập, pháp luật về xử phạt hành chính lại được
ban hành mới. Ngày 2-7-2002, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính mới – Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (đến
nay đã được sửa đổi bổ sung hai lần vào các năm 2007 và 2008).

Pháp lệnh XLVPHC 2002, các nghị định của Chính phủ, các thông tư, quyết
định, chỉ thị của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã tạo thành hệ thống
VBQPPL về XPVPHC và là cơ sở pháp lý vững chắc trong công tác đấu tranh
phòng chống vi phạm hành chính, tạo nên sự chuyển biến lớn trong thời gian qua.
Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính gồm các vấn đề quy định về
vi phạm hành chính, các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính, các hình thức xử
phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp ngăn
chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền
quy định vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu
quả, quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, quy định thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính.
Vậy, có thể định nghĩa pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính là một chế
định pháp luật trong hệ thống luật hành chính nước ta, bao gồm tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xử phạt
vi phạm hành chính (tức là trong việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính (gồm các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính; các biện pháp khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn vi
phạm hành chính và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính) đối với những cá
nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành chính nhằm đảm bảo trật tự và kỷ luật trong
quản lý nhà nước).
1.1.2.2. Đặc điểm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
1. Có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật hình sự, kế thừa nhiều chế định của
luật hình sự
Điểm khác biệt chủ yếu giữa tội phạm và VPHC là mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm cao hơn VPHC. Do đó, việc phân biệt này nhiều khi phụ thuộc
quan niệm mang tính chủ quan của nhà làm luật trong từng thời kỳ. Có nhiều hành
vi được coi là tội phạm khi đã bị xử phạt VPHC vì hành vi đó. Vì vậy, trong thực
tiễn áp dụng pháp luật, nhiều hành vi bị “nhập nhằng” giữa truy cứu trách nhiệm
hình sự và truy cứu trách nhiệm hành chính.



14
Lịch sử lập pháp ở nước ta, pháp luật về XPVHHC luôn đi sau pháp luật hình
sự và kế thừa những quan điểm lập pháp của luật hình sự. Nhiều khái niệm, chế
định của luật hình sự được tiếp nhận trong pháp luật về XPVPHC như tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, hình thức
xử phạt chính và bổ sung, các biện pháp ngăn chặn…
2. Hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính gồm nhiều văn bản quy
phạm pháp luật hợp thành
Không như hệ thống pháp luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt trong
duy nhất Bộ luật hình sự, hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính được
hợp thành bởi nhiều VBQPPL khác nhau. Pháp lệnh XLVPHC 2002 chỉ quy định
những vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc về XPVPHC. Nhiều vấn đề của Pháp
lệnh được các nghị định của Chính phủ và các thông tư, quyết định, chỉ thị của Bộ
quy định chi tiết. Đặc biệt, toàn bộ các vi phạm hành chính và các biện pháp xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể trong từng lĩnh vực được quy định rải rác
ở rất nhiều nghị định về XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
3. Vi phạm hành chính và các biện pháp chế tài đối với vi phạm hành chính
trong từng lĩnh vực thường được quy định ở nhiều văn bản dưới luật
Pháp lệnh XLVPHC đã ủy quyền cho Chính phủ quy định các vi phạm hành
chính và các biện pháp xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể trong từng lĩnh
vực quản lý nhà nước.
4. Hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính không có tính ổn định
cao
Các VBQPPL về XPVPHC không có tính ổn định cao do thường xuyên thay
đổi. Từ 1989 đến nay, chúng ta đã có 3 Pháp lệnh quy định về XPVPHC. Nhưng
đặc biệt, các nghị định quy định về XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
thì thay đổi nhiều hơn.
5. Việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện.

1.2. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Cơ sở của việc XPVPHC là có VPHC được pháp luật quy định. Việc nghiên
cứu về khái niệm vi phạm hành chính vừa có ý nghĩa lý luận quan trọng vừa mang
tính thực tiễn sâu sắc, bởi lẽ, chỉ khi định nghĩa đúng về hành vi VPHC mới có thể
xác định được các VPHC cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định
được đúng hành vi VPHC (tức là xác định đúng cơ sở xử phạt) thì việc thực hiện xử
phạt hành chính mới đúng đắn, mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của


15
nhà nước, của tổ chức và cá nhân, phát huy được hiệu quả và mục đích của việc xử
phạt hành chính là nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước bị xâm hại, góp phần giáo
dục người vi phạm và cảnh báo, phòng ngừa vi phạm trong tương lai và tránh được
sự tùy tiện trong xử phạt hành chính.
Trong thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật hiện nay, VPHC thường được
hiểu một cách chung nhất là hành vi vi phạm các quy tắc quản lý của nhà nước
nhưng không phải là tội phạm và bị xử lý theo thủ tục hành chính mà không viện
đến Tòa án và các thủ tục tư pháp.
Trước đây, khi Nhà nước ta chưa ban hành Pháp lệnh XPVPHC 1989 thì các
văn bản pháp luật chỉ đề cập đến khái niệm “vi cảnh”
2
. Khái niệm “vi cảnh” theo
Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 1997, tr. 1073) được định
nghĩa là việc “vi phạm luật lệ sinh hoạt ở nơi công cộng”, chẳng hạn vi phạm quy
định về giữ gìn vệ sinh công cộng, trật tự công cộng, trật tự an toàn giao thông…
Đây là cách hiểu thông dụng nhất về khái niệm “vi cảnh”.
Sau này, trong các văn bản pháp luật, khái niệm “vi cảnh” được hiểu rộng hơn:
không chỉ là những vi phạm luật lệ sinh hoạt nơi công cộng mà được hiểu là những
vi phạm nhỏ chưa đến mức hình sự. Theo Điều 2 của Điều lệ xử phạt vi cảnh ban

hành kèm theo Nghị định số 143/CP ngày 27/05/1977 của Hội đồng Chính phủ,
được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 200-HĐBT ngày 06/07/1985 của Hội đồng
Bộ trưởng thì “vi cảnh” được định nghĩa là “những hành vi xâm phạm đến trật tự
an toàn xã hội mà có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng,
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa đến mức xử phạt bằng các
biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh”. Về cụ thể, hành vi vi phạm vi
cảnh được các văn bản pháp luật trước đây quy định rất đa dạng, có những hành vi
mang tính chất đặc trưng của thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám 1945 (thời kỳ nhà
nước ta phải đấu tranh với “giặc đói”, “giặc dốt” và giữ gìn chính quyền cách mạng
non trẻ mới được thành lập) như: “người trên 8 tuổi mà không biết đọc, viết chữ
quốc ngữ, hạn sau một năm thì bị phạt tiền” (Sắc lệnh số 20 ngày 08/09/1945 của


2
Khái niệm này chính thức được sử dụng trong “Điều lệ xử phạt vi cảnh” ban hành kèm theo Nghị định số
143/CP ngày 27/05/1977. Theo quy định của Điều lệ xử phạt vi cảnh thì tất cả những hành vi xâm hại đến
trật tự an toàn xã hội có tính chất đơn giản, rõ ràng hoặc hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh. Hình thức xử phạt vi
cảnh được chia thành 4 loại: cảnh cáo; phạt tiền từ 01 đến 10 đồng; phạt lao động công ích từ 01 đến 03
ngày; phạt giam từ 01 đến 03 ngày. Nghị định cũng quy định tịch thu phương tiện dùng vào việc vi phạm tùy
theo tính chất, mức độ của vi phạm; quy định thẩm quyền xử phạt với hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền cho
cán bộ có thẩm quyền của các ngành Kiểm lâm, Thủy sản, Thương nghiệp Y tế, Giao thông vận tải… trong
khi thừa hành công vụ ngoài lực lượng cán bộ, chiến sĩ công an là lực lượng có thẩm quyền áp dụng tất cả
các hình thức xử phạt mà Nghị định quy định.


16
Chính phủ lâm thời); vi phạm về sử dụng điện thoại như “bị bắt quả tang đã sửa
đổi hoặc đặt thêm những đường dây hay máy móc điện thoại thuê bao mà không
được Chính phủ cho phép” (Sắc lệnh số 174 ngày 06/09/1946 của Bộ nội vụ);

“thành lập, hoạt động hội trái pháp luật; không chịu nộp thuế, không chịu đi dân
công” (Nghị định số 273/TTg ngày 25/05/1953 của Thủ tướng Chính phủ); “những
hành vi đã phạm tội nhưng chưa đáng phạt tù như làm tay sai cho địch, chưa thực
sự hối cải, lưu manh chuyên nghiệp”… Một số hành vi vi cảnh được quy định trong
các văn bản pháp luật thời đó rất giống với các vi phạm hành chính thời nay như “vi
phạm quy tắc sử dụng ánh sáng trên đường giao thông và trên phương tiện vận tải”
(Nghị định số 273/TTg ngày 25/05/1953 của Thủ tướng Chính phủ); “phơi rơm rạ,
thóc lúa và các thứ khác trên đường phố, đường ôtô, đường xe lửa; buộc súc vật
vào cây cối, vào cọc tiêu, cột báo hiệu ở hai bên đường” (Nghị định số 200-HĐBT
ngày 06/07/1985 của Hội đồng Bộ trưởng)…
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên được
định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính 1989.
Khoản Điều 1 Pháp lệnh quy định “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”. Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành
pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Định nghĩa này cho
chúng ta thấy được các dấu hiệu pháp lý cơ bản của VPHC là: hành vi, tính trái
pháp luật của hành vi, có lỗi, và bị xử phạt hành chính. Ngoài mặt khách quan và
mặt chủ quan thể hiện qua các dấu hiệu trên, định nghĩa này cũng đề cập đến yếu tố
chủ thể của cấu thành pháp lý của VPHC.
Đến Pháp lệnh XLVPHC 1995 và Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì khái niệm vi
phạm hành chính không được định nghĩa riêng biệt nữa mà được suy ra từ khái
niệm “xử phạt vi phạm hành chính”. Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC 2002, khoản 1 quy
định “Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện
pháp xử lý hành chính khác” và khoản 2 quy định: “Xử phạt vi phạm hành chính
được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ
chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính”. Theo tinh thần đó, VPHC được hiểu là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá

nhân, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.


17
Chúng ta có thể thấy định nghĩa về VPHC trong các Pháp lệnh về xử phạt/xử
lý VPHC 1989, 1995, 2002 khác nhau về ngôn ngữ thể hiện nhưng về bản chất là
giống nhau. Khái niệm VPHC cần phải được định nghĩa rõ ràng vì đây là khái niệm
cốt lõi của pháp luật về XPVPHC (giống như khái niệm tội phạm trong pháp luật
hình sự). Nó là xuất phát điểm quan trọng để xác định các hành vi vi phạm trong
từng lĩnh vực cụ thể và các chế tài áp dụng một cách đúng đắn, chính xác và hiệu
quả. Hơn nữa, nó còn thể hiện sự phân định với tội phạm – điều có ý nghĩa rất quan
trọng để áp dụng trách nhiệm hành chính với thủ tục khác hẳn khi áp dụng trách
nhiệm hình sự.
Trước tiên cần phải khẳng định VPHC là một loại vi phạm pháp luật. Nó
mang đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của vi phạm pháp luật: đó là hành vi khách
quan được thể hiện thông qua hành động (hoặc không hành động) của con người
trái với các quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra bằng các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành; hành vi đó thể hiện ý chí của chủ thể thực hiện bằng sự cố ý
hoặc vô ý đối với việc thực hiện và nó xâm hại đến lợi ích của cộng đồng, trật tự xã
hội và lợi ích của nhà nước và bị áp dụng chế tài pháp lý mang tính cưỡng chế nhà
nước. Các loại VPPL có thể là: vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, vi
phạm pháp luật về công chức, công vụ và vi phạm pháp luật hình sự. Tương ứng
với các loại VPPL nói trên có bốn loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng, tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm, đó là trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hình sự.
Các dấu hiệu pháp lý và yếu tố cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính
gồm: mặt khách quan, khách thể, chủ thể, mặt chủ quan.
1. Mặt khách quan
Mặt khách quan của VPHC bao gồm các dấu hiệu: hành vi, tính trái pháp luật

của hành vi, hậu quả gây thiệt hại mà hành vi gây ra cho xã hội, quan hệ nhân quả,
thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm…
- Bất kỳ một hiện tượng nào cũng có hình thức biểu hiện của nó. VPHC có
hình thức biểu hiện là hành vi. Không có hành vi thì không có vi phạm pháp luật nói
chung và vi phạm hành chính nói riêng. Hành vi VPHC có thể biểu hiện dưới hình
thức hành động (làm hàng giả, kinh doanh trái phép, vượt đèn đỏ…) hoặc không
hành động (không có phương tiện phòng cháy chữa cháy, điều khiển môtô không có
giấy phép lái xe ). VPHC là hành vi có tính chất trái pháp luật thể hiện ở chỗ hành
vi đó được thực hiện ngược lại với yêu cầu của quy phạm pháp luật. Nói cách khác,
đó là những hành vi xâm phạm những quy định pháp luật nói chung được chế định
trách nhiệm hành chính bảo vệ. Cụ thể hơn, đó là hành động bị pháp luật hành chính


18
cấm, hoặc không thực hiện hay thực hiện không đúng hành động mà pháp luật hành
chính buộc phải thực hiện.
- Khi VPHC đã xảy ra hậu quả, cần xem xét mối liên hệ nhân quả giữa hành vi
VPHC và hậu quả của hành vi.
- Khi xem xét mặt khách quan của VPHC trong những vụ việc cụ thể cần tính
đến một số yếu tố như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm.
2. Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là cái mà vi phạm đó xâm hại. Khách thể của
VPHC là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật hành chính bảo vệ.
Khách thể là yếu tố quan trọng quy định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
trái pháp luật. Khách thể của VPHC rất đa dạng. Đó là trật tự nhà nước và xã hội,
trật tự quản lý, quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Như vậy, khách thể của VPHC không chỉ là trật tự quản lý nếu hiểu theo nghĩa
hẹp của các khái niệm đó. Mặt khác, không phải toàn bộ các quan hệ quản lý nhà
nước là khách thể của VPHC, mà chỉ những quan hệ được bảo vệ bằng các biện
pháp trách nhiệm hành chính trong số đó mà thôi. Nếu các quan hệ quản lý nhà

nước đó không được các quy phạm pháp luật hành chính bảo vệ thì đó không phải
là khách thể của VPHC, mà có thể là khách thể của tội phạm, vi phạm kỷ luật, vi
phạm dân sự.
Đồng thời, các biện pháp trách nhiệm hành chính không chỉ được áp dụng để
bảo vệ các quan hệ xã hội do luật hành chính điều chỉnh, mà còn bảo vệ cả các quan
hệ tài chính, đất đai, lao động… do các ngành luật tương ứng điều chỉnh. Như vậy,
khách thể của VPHC còn là các quan hệ pháp luật lao động, đất đai, tài chính…
3. Chủ thể
Chủ thể của VPHC là cá nhân hay tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính
đã thực hiện hành vi VPHC.
Pháp luật hành chính quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với
những cá nhân có năng lực hành vi pháp luật hành chính. Người có năng lực hành vi
pháp luật hành chính là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hại cho
xã hội của hành vi, hậu quả của hành vi và điều khiển được hành vi đó. Những
người hành động trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng và sự kiện bất ngờ,
hoặc không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu
trách nhiệm hành chính, nghĩa là không bị xử phạt VPHC.
Các chủ thể phải chịu trách nhiệm hành chính gồm:
a. Cá nhân
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi VPHC.


19
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về
VPHC do lỗi cố ý.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi VPHC thì bị phạt cảnh cáo.
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi VPHC thì có thể bị áp dụng các hình
thức xử phạt VPHC theo quy định của pháp luật. Khi phạt tiền đối với họ thì người
có thẩm quyền áp dụng mức phạt không quá ½ mức phạt đối với người thành niên,
Nếu người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ

của người đó phải nộp phạt thay.
- Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện và
những người thuộc lực lượng công an nhân dân VPHC thì bị xử lý như đối với công
dân bình thường. Trong trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng
một số giấy phép hoạt động vì mục đích an ninh, quốc phòng thì người xử phạt
không trực tiếp xử lý mà đề nghị cơ quan, đơn vị quân đội, công an có thẩm quyền
xử lý theo điều lệnh kỷ luật.
- Cán bộ, công chức nhà nước nói chung, những người có chức vụ nói riêng
chịu trách nhiệm hành chính đối với những VPHC liên quan đến việc thi hành công
vụ nhà nước, nghĩa là liên quan đến việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ được giao.
Nếu không liên quan tới việc thực hiện công vụ thì xử lý họ như đối với công dân
bình thường. Ở đây có yếu tố liên quan tới hoạt động công vụ nên họ bị xử phạt
nặng hơn. Cũng có trường hợp tuy không có yếu tố công vụ nhưng cán bộ, công
chức vi phạm vẫn bị xử phạt nặng hơn (chẳng hạn hành vi mua, bán dâm).
b. Tổ chức
Pháp luật quy định tổ chức cũng là chủ thể VPHC. Các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, tổ chức kinh tế nếu thực hiện VPHC thì cũng bị xử phạt cảnh cáo hay
phạt tiền, bị tước quyền sử dụng giấy phép, tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để vi phạm.
Nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, pháp luật hành chính quy định khi
tổ chức bị xử phạt VPHC thì tổ chức đó phải tiến hành xác định người có lỗi trực
tiếp gây ra vi phạm để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật (K3, Đ54 PLXLVPHC).
c. Cá nhân, tổ chức nước ngoài VPHC trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa nước CHXHCN Việt Nam thì bị xử phạt theo quy định của
pháp luật Việt Nam về XPVPHC, từ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc tham gia có quy định khác.
4. Mặt chủ quan



20
Mặt chủ quan của VPHC thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu
hiệu pháp lý bắt buộc của VPHC. Cần phân biệt hành vi trái pháp luật với vi phạm
pháp luật, nếu chưa xác định yếu tố chủ quan: thái độ, động cơ, ý chí của người vi
phạm đối với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành vi.
Có hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở việc người có hành vi
VPHC nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi nhưng vẫn thực
hiện hoặc để mặc cho hậu quả hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở việc người có
hành vi VPHC không biết hoặc không nhận thức được hành vi trái pháp luật mặc dù
cần phải biết và nhận thức được, hoặc nhận thức được nhưng cho rằng có thể ngăn
ngừa được hậu quả.
Trong mặt chủ quan của nhiều VPHC, yếu tố động cơ, mục đích vi phạm cũng
được tính đến khi xem xét để quyết định các hình thức và mức xử phạt cụ thể.
Khi xem xét, đánh giá một hành vi trái pháp luật có phải là VPHC hay không,
cần xem xét đầy đủ các dấu hiệu, yếu tố cấu thành pháp lý của vi phạm; từ đó có thể
xác định là vi phạm gì để chọn chế tài đúng.
Việc so sánh vi phạm hành chính và tội phạm có nhiều ý nghĩa lý luận và
thực tiễn.
Nhìn chung, VPHC và tội phạm đều là hành vi vi phạm, xâm hại trật tự pháp
luật được nhà nước đặt ra. Vi phạm hay phạm pháp (offence/violation) là những
hành vi vi phạm pháp luật nói chung và phải bị xử lý theo quy định của hệ thống
chế tài tương ứng. VPHC (administrative offence/violation) bị xử lý bằng các chế
tài hành chính, còn tội phạm (criminal offence/crime) bị xử lý bằng các chế tài hình
sự.
Căn cứ vào các dấu hiệu nhận biết VPHC nêu trên, về mặt lý thuyết, chúng ta
có thể phân biệt VPHC với tội phạm. Trong khi khái niệm “vi phạm hành chính”
thường gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là trong những trường hợp cụ thể thì khái niệm
tội phạm dường như được hiểu và định nghĩa khá thống nhất. Nói một cách đơn
giản, tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.

VPHC và tội phạm có những điểm rất giống nhau thể hiện ở chỗ chúng đều là
những VPPL, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân, gây ảnh
hưởng xấu đến đời sống xã hội; là biểu hiện tiêu cực cần phải loại trừ. Điều đáng
lưu ý nữa là VPHC và tội phạm rất gần nhau. Trong nhiều trường hợp giữa VPHC
và tội phạm chỉ là một ranh giới mỏng manh mà vượt qua nó là VPHC có thể
chuyển hóa thành tội phạm trong những điều kiện nhất định. Cùng một hành vi,
nhưng nếu vi phạm với số lượng không lớn hoặc không gây hậu quả nghiêm trọng,


21
hoặc không có khả năng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hoặc không có hậu quả,
hoặc chưa bị XPVPHC hoặc xử lý kỷ luật… thì không phải là tội phạm mà sẽ là
VPHC hoặc vi phạm kỷ luật
3
. Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi VPHC đều
có thể chuyển hóa thành tội phạm. Có loại VPHC không thể và không bao giờ có
thể chuyển hóa thành tội phạm trong bất cứ điều kiện nào. Đây là những hành vi vi
phạm nhỏ nhặt, mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao hoặc không đáng kể (hành
vi đổ rác bừa bãi làm mất vệ sinh chung; khạc nhổ nơi công cộng, tiểu tiện, đại tiện
trên đường phố, nơi công cộng…
Tuy nhiên, trong thực tiễn có những trường hợp rất khó phân biệt hành vi
VPHC và tội phạm. Rất nhiều trường hợp cụ thể cần có sự phân tích hành vi vi
phạm đó một cách toàn diện, thận trọng và khách quan, phân tích điều kiện xảy ra vi
phạm, nhân thân người vi phạm, xác định hình thức và mức độ lỗi để có thể tìm ra
điểm khác biệt trong hành vi VPHC và tội phạm. Chỉ khi đó, đối chiếu với các quy
định tương ứng của pháp luật mới có thể giải quyết được vấn đề tính chất của VPPL
và áp dụng hình thức trách nhiệm pháp lý phù hợp.
VPHC và tội phạm khác biệt ở những điểm:
- VPHC có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội phạm và do đó
các hình thức xử phạt hành chính cũng ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt áp dụng

đối với tội phạm. Như vậy, giữa tội phạm và VPHC luôn có một ranh giới - đó
chính là mức độ nguy hiểm cho xã hội. Đây có thể coi là điểm cơ bản để phân biệt
VPHC và tội phạm. Thông thường, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được
biểu hiện thông qua một loạt các chỉ số nhất định như: mức độ hậu quả, tái phạm, vi
phạm nhiều lần hoặc có tính chất chuyên nghiệp, vi phạm với số lượng lớn… Nhiều
hành vi luôn là tội phạm bởi mức độ nguy hiểm cao cho xã hội. Nhưng trong nhiều
trường hợp, hành vi vi phạm lần đầu là VPHC nhưng nếu tái phạm hoặc có tính chất
chuyên nghiệp thì là tội phạm hoặc một hành vi VPHC nếu gây hậu quả nghiêm
trọng thi có thể chuyển hóa thành tội phạm… Chính vì vậy mà khi xử lý các VPHC,


3
Bộ luật Hình sự 1999 có tổng cộng 123 tội có đan xen giữa VPHC, vi phạm kỷ luật và tội phạm. Cụ thể là:
- 46 tội bao gồm các tội có dấu hiệu: chỉ cần có hậu quả, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc chỉ có khả
năng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm
nhiều lần;
- 56 tội bao gồm các tội có dấu hiệu: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị XPVPHC, gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị XPVPHC hoặc kỷ luật, đã bị xử lý kỷ luật hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật, đã bị XPHC mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị XPHC
hoặc xử lý kỷ luật mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng;
- 6 tội bao gồm các tội có dấu hiệu: vi phạm với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
XPHC, vi phạm với số lượng lớn (hoặc quy mô lớn) hoặc đã bị XPHC;
- 15 tội bao gồm các tội có dấu hiệu:: đã bị XPHC hoặc xử lý kỷ luật, hoặc đã XPHC, đã xử lý kỷ luật, hoặc
đã giáo dục, tạo điều kiện và đã XPHC, hoặc đã giáo dục và đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc.


22
cơ quan, người có thẩm quyền không chỉ phải xác định các yếu tố cấu thành VPHC
mà còn phải xem xét các yếu tố có thể làm chuyển hóa VPHC thành tội phạm hay
không.

- Tội phạm chỉ được quy định trong Bộ luật Hình sự do Quốc hội - cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất ban hành, còn đối với các hành vi VPHC do tính đa
dạng và tính đa lĩnh vực của vi phạm mà được quy định ở nhiều loại VBQPPL như
luật, pháp lệnh, nghị định (trong đó nghị định là chủ yếu khi Điều 2 PLXLVPHC đã
giao cho Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất quyền quy định các
hành vi VPHC cụ thể trong các lĩnh vực quản lý nhà nước). Tuy nhiên, điểm phân
biệt này giữa VPHC và tội phạm chỉ có ý nghĩa tương đối vì việc quy định tội phạm
hay VPHC trong loại văn bản quy phạm pháp luật nào (Bộ luật, Luật, Pháp lệnh hay
Nghị đinh…) có thể thay đổi tùy thuộc quan điểm và trình độ lập pháp từng thời kỳ.
- Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chủ thể thực hiện hành vi VPHC
bị xử phạt không chỉ là cá nhân mà cả tổ chức, còn chủ thể thực hiện tội phạm bị xử
lý về hình sự chỉ có thể là cá nhân.
- Việc xử lý người phạm tội được giao cho một cơ quan duy nhất là Tòa án,
còn việc xử lý đối tượng VPHC được giao cho rất nhiều cơ quan và người có thẩm
quyền, trong đó chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước.
- Thủ tục xử lý vi phạm hành chính và tội phạm hoàn toàn khác nhau. Toà án
xét xử vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng hình sự, có sự tham gia của người bào
chữa. Còn thủ tục xử phạt VPHC phần nhiều mang tính quyền lực đơn phương từ
phía cơ quan nhà nước, dù pháp luật có quy định quyền khiếu nại, tố cáo của đối
tượng bị xử lý VPHC. Điều này xuất phát từ chỗ các chế tài xử phạt VPHC có mức
độ nhẹ hơn nhiều so với các chế tài hình sự. Chế tài hành chính chủ yếu tác động
vào yếu tố vật chất, tinh thần của người vi phạm (cảnh cáo, phạt tiền…), còn chế tài
hình sự chủ yếu là những hình phạt tước đoạt quyền tự do của người phạm tội.
Như trên đã đề cập, vi phạm hành chính và tội phạm rất gần nhau. Trong
những điều kiện nhất định thì VPHC có thể chuyển hóa thành tội phạm. Vậy dựa
trên cơ sở nào mà sự chuyển hóa đó có thể diễn ra?
Trước hết và chủ yếu, sự chuyên hóa VPHC thành tội phạm được thực hiện
dựa trên cơ sở có sự biến đổi tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
VPHC theo hướng cao hơn, nghiêm trọng hơn. Sự chuyển hóa VPHC thành tội
phạm cũng phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm và tầm quan trọng của nhóm quan hệ

xã hội cũng như yêu cầu cần bảo vệ các quan hệ xã hội đó. Do phạm vi nghiên cứu
của đề tài, không đề cập sâu đến việc chuyển hóa VPHC thành tội phạm dưới giác


23
độ hình sự hóa
4
, tức là quy định là tội phạm những hành vi trước đây được coi là
VPHC do trong điều kiện mới cần thay đổi cách thức bảo vệ đối với các quan hệ xã
hội nhất định. Tại đây, chủ yếu phân tích các dạng thức thể hiện sự chuyển hóa
VPHC thành tội phạm đã được ghi nhận trong các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành.
Một trong những điểm sửa đổi, đổi mới cơ bản liên quan đến việc xác định các
tội danh của BLHS 1999 so với BLHS 1985 là việc quy định tình tiết định tội “đã bị
xử phạt hành chính mà còn vi phạm” ở khá nhiều tội danh. Hay nói cách khác, một
hành vi VPHC sẽ chuyển hóa thành tội phạm trong trường hợp người thực hiện
hành vi VPHC đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hành chính mà còn vi phạm.
BLHS có 64 tội danh mà trong cấu thành cơ bản có quy định việc “đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này” mà còn vi phạm và 01 tội danh quy định việc “đã được
giáo dục nhiều lần và đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa
bệnh mà còn vi phạm” như một yếu tố cấu thành tội phạm thuộc 8 nhóm tội thuộc
các lĩnh vực: bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân; sở hữu; hôn nhân và gia
đình; quản lý kinh tế; bảo vệ môi trường; trật tự an toàn công cộng; trật tự quản lý
hành chính; phòng chống ma túy. Trong các trường hợp này, một hành vi vi phạm
lần đầu được coi là VPHC, nhưng nếu tái phạm (đã bị xử phạt hành chính về hành
vi này mà còn vi phạm) thì trở thành tội phạm. Ví dụ, hành vi gây rối trật tự công
cộng không gây hậu quả nghiêm trọng là VPHC, nhưng nếu đã bị xử phạt hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm thì chuyển thành tội gây rối trật tự công cộng
được quy định tại điều 245 BLHS.
Như vậy, hành vi VPHC và tội phạm rất gần nhau trong một số trường hợp cụ

thể. Vì thế việc nghiên cứu để phân biệt VPHC và tội phạm có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn lớn nhằm hoàn thiện pháp luật về XPVPHC.
1.2.2. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những tư tưởng chỉ đạo, định
hướng cho toàn bộ quá trình xử phạt vi phạm hành chính. Có những nguyên tắc cơ
bản sau:
1.2.2.1. Các nguyên tắc chung
1. Nguyên tắc pháp chế


4
Khái niệm “hình sự hóa” ở đây được hiểu theo nghĩa hình sự hóa trong hoạt động lập pháp, không đề cập
đến hình sự hóa trong thực tiễn áp dụng pháp luật (hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế - một hành vi về
mặt pháp lý vi phạm pháp luật dân sự hoặc kinh tế nhưng trên thực tiễn đã bị các cơ quan thi hành pháp luật
tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự.

×