Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương qua ví dụ thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 99 trang )












ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC










NGÔ THỊ LAN











HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
QUA VÍ DỤ THÀNH PHỐ HÀ NỘI









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













HÀ NỘI – 2007











ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC









NGÔ THỊ LAN






HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN DỊA PHƯƠNG

QUA VÍ DỤ THÀNH PHỐ HÀ NỘI









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HỌC

Mã số: 60 38 01




NGƢỜI HƢỚNG DẪN: THẠC SỸ TRẦN THÁI DƢƠNG









HÀ NỘI – 2007



1
MỤC LỤC



MỞ ĐẦU 3
Chương 1 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM 10
PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY
PHẠM 10
PHÁP LUẬT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, ỦY BAN NHÂN
DÂN 10
1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật 10
Theo quy định tại Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2002 (gọi tắt
là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương)
[16, tr. 40] "Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định,
trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. 10
1.2. Cơ sơ pháp lý của hoạt động ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 13
1.2.1. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật .13
1.2.2. Hình thức văn bản quy phạm pháp luật 18
1.2.3. Thể thức văn bản quy phạm pháp luật 20
1.2.4. Trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 21

1.2.5. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật 23
Chương 2 34
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC SOẠN THẢO, BAN HÀNH VĂN
BẢN 34
QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, 34
UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 34
2.1. Mục tiêu chính của công tác ban hành văn bản quy phạm
pháp luật 34


2
2.1.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật góp phần tăng
cường quản lý xã hội bằng pháp luật 34
2.1.2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật góp phần đổi mới
cơ chế quản lý 35
2.2. Thực trạng công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tại Thành
phố Hà Nội 37
2.2.1. Một số ưu điểm 37
2.2.2. Một số tồn tại 40
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác ban hành
văn bản quy phạm pháp luật ở Thành phố Hà Nội thời gian
qua 67
2.3.1. Tính lệ thuộc vào nhau của các cấp chính quyền 67
2.3.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung,
văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương nói riêng
quá phức tạp
68
2.3.3. Chưa có một khái niệm “văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân" chuẩn và mang tính

khoa học 69
2.3.4. Công tác xây dựng Chương trình và soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật chưa nhận được sự quan tâm đúng mức
của lãnh đạo Thành phố 70
2.3.5. Trình độ pháp lý của cán bộ tham gia soạn thảo văn bản
còn hạn chế 71
Chương 3 72
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG 72
SOẠN THẢO, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP
LUẬT 72
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 72
3.1. Một số giải pháp cơ bản 72
3.1.1. Thực hiện đúng trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản 72
3.1.2. Thường xuyên thực hiện rà soát, hệ thống hoá văn bản
quy phạm pháp luật đã được ban hành 76


3
3.1.3. Tổ chức tốt việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
77
3.2. Một số kiến nghị cụ thể 79
3.2.1. Đối với các cơ quan nhà nước ở Trung ương 79
3.2.2. Đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương 88
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo đã tạo ra những cơ hội phát triển nhanh chóng cho đất
nước ta và đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Cùng với những thuận lợi cơ bản đó, chúng ta cũng gặp không ít
những khó khăn, thách thức đòi hỏi phải có sự nhận thức đầy đủ và phải có
những biện pháp phát huy hơn nữa vai trò của tất cả các yếu tố bảo đảm sự
phát triển bền vững của đất nước, trong đó pháp luật được xem là một trong
những yếu tố đặc biệt quan trọng.
Xuất phát từ tình hình đó, vấn đề nâng cao chất lượng, xác lập trật tự kỷ
cương trong hoạt động lập pháp, lập quy, đưa công tác xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật nói chung và công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
của chính quyền địa phương nói riêng vào nề nếp được đặt ra như một nhu
cầu có tính thời sự, đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhiều
giới, nhất là những nhà lãnh đạo quản lý, những người làm công tác pháp luật
ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác
xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhất là ở địa phương vẫn


4
còn tồn tại một số hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết, cụ thể
là:
- Chương trình xây dựng văn bản được xây dựng chưa căn cứ vào thứ
tự ưu tiên, vào tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, vào tính khả thi của văn
bản, dẫn đến trên thực tế, những văn bản cần thiết lại chưa được ban hành,
hoặc có những văn bản cần được ban hành trước nhưng lại ban hành sau;
- Việc định hướng chính sách của văn bản chưa được xác định trước dẫn
đến lúng túng trong quá trình soạn thảo, gây nên lãng phí nhất định, ảnh hưởng
chất lượng dự thảo và tiến độ soạn thảo; mặt khác, dẫn đến tình trạng ra đời một
số văn bản không khả thi, chưa thực sự phục vụ cho quản lý và phát triển;

- Văn bản được ban hành chất lượng chưa cao;
- Chưa có sự tham gia tích cực của người dân vào quy trình soạn thảo,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật; chưa thực sự coi trọng việc tổ chức lấy
ý kiến của tổ chức, cá nhân; không tiến hành đánh giá tác động kinh tế - xã
hội của văn bản trước và sau khi ban hành; dẫn đến tình trạng văn bản hoặc
không phù hợp với thực tế, hoặc thiếu nguồn lực (tài chính, con người) để
thực hiện, hoặc vừa mới ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung;
- Chất lượng góp ý, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
chưa cao do hình thức phối hợp, công tác tổ chức góp ý, thẩm định chưa tốt
nên ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt động góp ý, thẩm định dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật;
- Hệ thống văn bản chồng chéo, văn bản của cơ quan cấp dưới sao chép
văn bản của cơ quan cấp trên, nội dung văn bản mâu thuẫn; nhiều tầng nấc,
nhiều chủ thể ban hành, nhiều hình thức văn bản dẫn đến việc áp dụng văn
bản khó khăn


5
Tình hình thực tế cho thấy tính cấp thiết của việc phải nghiên cứu một
cách cơ bản, toàn diện về hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của chính quyền địa phương. Việc nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận về
văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, xây dựng cơ sở
khoa học cho việc đánh giá thực trạng hiệu quả pháp luật của chính quyền địa
phương và tìm ra những giải pháp đúng đắn, phù hợp để từng bước nâng cao
hiệu quả pháp luật trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể hiện nay, góp
phần vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu ổn định và phát triển đất nước mà
Đảng, nhà nước ta đã đề ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa không những có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa về
mặt thực tiễn. Vì lẽ đó, vấn đề hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của chính quyền địa phương qua ví dụ thành phố Hà Nội được chọn làm

đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sỹ luật học này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Pháp luật và hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật đã được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn trong và
ngoài nước tiếp cận nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. ở nước ta, vấn đề
pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật đã được đặt ra để nghiên cứu và
bước đầu đưa vào giảng dạy ở một số cơ sở đào tạo luật trong những năm gần
đây. Một số sách, báo pháp lý đã đề cập vấn đề này như: Kỹ thuật lập pháp,
Nhà xuất bản pháp lý năm 1985 (Phan Mạnh Hân chủ biên); Những vấn đề lý
luận cơ bản về pháp luật, Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1993 (Giáo sư
Tiến sỹ Đào Trí Úc chủ biên); Giáo trình kỹ thuật xây dựng văn bản của
Trường đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 1998;
Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2004; Sổ tay


6
hướng dẫn rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, Dự án
VIE/98/2001 của Bộ Tư pháp; Quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật, Dự án VIE/94/2003 của Bộ Tư pháp; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
tháng 9/2003 (chuyên đề về rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật); Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 5/2004 (chuyên đề về kiểm tra
và xử lý văn bản quy phạm pháp luật); Bình luận Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005; Nâng cao hiệu quả pháp
luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Luận án Tiến sỹ luật học của
Nguyễn Minh Đoan (2001); Cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam - Luận án
Tiến sỹ luật học của Nguyễn Quốc Hoàn (2002); Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay - Luận án
Tiến sỹ luật học của Đỗ Ngọc Hải (2003)
Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ nghiên cứu về hoạt động xây

dựng văn bản quy phạm pháp luật nói chung, cho dù cũng đã có sự tổng kết,
đánh giá về việc xây dựng, thực hiện các văn bản trong thực tiễn, trên cơ sở
đó đề xuất những biện pháp khắc phục, nhưng cũng mới nêu lên một số nét
lớn, mang tính định hướng ở tầm vĩ mô toàn quốc mà chưa đi sâu vào giải
quyết những vướng mắc xuất phát từ đặc thù của chính quyền địa phương,
đặc biệt là ở các đô thị lớn như Thủ đô Hà Nội.
Tiếp thu có chọn lọc, luận văn này nghiên cứu một cách có hệ thống
hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương
qua ví dụ Thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích:
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về văn
bản quy phạm pháp luật và hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm


7
pháp luật của chính quyền địa phương, từ đó xây dựng cơ sở khoa học cho
việc đánh giá thực trạng, xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của chính quyền địa phương, cụ thể là của Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
* Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xây dựng, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương từ khi Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có hiệu lực (01/4/2005);
* Nghiên cứu tổng quan về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay để khẳng định những bước phát triển, những ưu điểm
cần phát huy, đồng thời tìm ra những hạn chế, nhược điểm và nguyên nhân

dẫn đến thực trạng đó;
* Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội trong giai đoạn tới.
Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính
quyền địa phương là phạm trù có nội hàm rộng. Trong phạm vi đề tài đã chọn,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá hoạt động này qua hoạt động xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cụ thể của Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội và xác định những phương hướng, giải


8
pháp cơ bản để hoàn thiện công tác này nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý đô thị
thời kỳ hội nhập.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật nói chung và của chính quyền địa phương nói riêng.
Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng
của triết học Mác - Lênin. Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: Phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê


9
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện, có hệ thống về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp

luật của chính quyền địa phương và xác định những phương hướng, giải pháp
cơ bản để hoàn thiện công tác này ở một địa bàn cụ thể - Thành phố Hà Nội.
Từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội đối với hoạt động này, góp phần đưa
công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung và công
tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa
phương nói riêng vào nề nếp.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác chỉ đạo hoạt
động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa
phương khác có điều kiện kinh tế - xã hội tương tự như Thành phố Hà Nội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật và
hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân.
Chương 2: Thực trạng công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng soạn
thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn Thành phố Hà Nội.



10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, ỦY BAN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật

Theo quy định tại Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2002 (gọi tắt là Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Trung ương) [16, tr. 40] "Văn bản quy phạm pháp
luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình
tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua tháng
12/2004, có hiệu lực từ ngày 01/4/2005 (gọi tắt là Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của chính quyền địa phương), khái niệm văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân được hiểu như sau: “Văn
bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân là văn bản
do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành theo thẩm quyền, trình tự,
thủ tục do luật này quy định, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực
trong phạm vi địa phương, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội ở địa phương theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Từ hai định nghĩa nêu trên, có thể nêu đặc trưng về mặt pháp lý của văn
bản quy phạm pháp luật là :
- Văn bản quy phạm pháp luật phải là văn bản do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành. Điều đó có nghĩa là chỉ các văn bản do cơ quan


11
nhà nước ban hành mới là văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản không
do cơ quan nhà nước ban hành thì về nguyên tắc không phải là văn bản quy
phạm pháp luật (ví dụ: Văn bản của Mặt trận Tổ quốc, hương ước làng xã).
Ngược lại, không phải tất cả văn bản do cơ quan nhà nước ban hành đều là
văn bản quy phạm pháp luật (ví dụ: Thông cáo của Quốc Hội, Quyết định của
Sở Nội vụ). Đồng thời, cá biệt có văn bản do một hoặc nhiều bên là tổ chức
xã hội ban hành nhưng vẫn là văn bản quy phạm pháp luật (ví dụ: Văn bản

liên tịch giữa một cơ quan nhà nước với một tổ chức chính trị - xã hội, như:
Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên hoặc Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam).
Mặt khác, không phải bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng có thẩm
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ các cơ quan nhà nước
được luật quy định mới có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. ở
Việt Nam, hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật được quy định cụ thể trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Trong đó, Luật quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật và ban hành văn bản dưới tên gọi như thế
nào. ở mỗi giai đoạn khác nhau, Nhà nước có thể quy định khác nhau về các
cơ quan được phép ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật ở nước ta được ban hành lần đầu tiên vào năm 1996
và được sửa đổi, bổ sung năm 2002. Khác với Luật năm 1996, Luật năm 2002
không quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho các cơ
quan trực thuộc Chính phủ.
- Văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng các quy tắc xử sự
chung
Khác với quyết định hành chính hay bản án đơn lẻ, văn bản quy phạm
pháp luật phải là văn bản có chứa đựng các quy tắc áp dụng cho nhiều chủ


12
thể. Mặc dù, mỗi văn bản quy phạm pháp luật có giới hạn chủ thể riêng nhưng
chủ thể phải thực hiện văn bản quy phạm pháp luật là chủ thể không xác định,
không cụ thể, rõ ràng mà rất trừu tượng. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra mới
xác định chủ thể. Các văn bản áp dụng pháp luật, mặc dù cũng chứa đựng các
quy tắc xử sự nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật vì đó là các
quy tắc xử sự cá biệt cho từng chủ thể xác định (ví dụ: Bản án của Tòa án nhân
dân). Các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhưng không
chứa đựng các quy phạm pháp luật thì không phải là văn bản quy phạm pháp

luật.
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên thực tế
Nếu như một văn bản áp dụng pháp luật, ví dụ: một quyết định hành
chính, chỉ được áp dụng một lần trên thực tế cho một tình huống và điều kiện
cụ thể và sau mỗi lần áp dụng nó tự mất đi hiệu lực thì văn bản quy phạm
pháp luật được áp dụng trong mọi trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra.
Sau mỗi lần áp dụng, văn bản quy phạm pháp luật không mất đi hiệu lực. Nó
chỉ bị mất hiệu lực khi có văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế, hủy bỏ,
bãi bỏ. Rất ít trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật tự quy định trường
hợp hết hiệu lực.
- Văn bản quy phạm pháp luật được tuân thủ và được thực hiện bởi
sự cưỡng chế nhà nước
Nhà nước có thể dùng lực lượng công quyền để bảo đảm cho việc áp
dụng quy phạm pháp luật thông qua việc áp dụng các chế tài. Như vậy, bất
luận là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nào có thẩm quyền ban hành
hay bất luận là hình thức văn bản nào thì chúng đều phải được tuân thủ và
thực hiện một cách đầy đủ.


13
Như vậy, khi đánh giá một văn bản có phải là văn bản quy phạm pháp
luật hay không cũng như xem xét một văn bản có chứa “quy phạm pháp luật”
hay không cần đặc biệt chú ý đến các đặc tính của quy phạm pháp luật, gồm:
tính áp dụng chung (quy tắc ràng buộc chung và được tôn trọng chung), tính
phi cá nhân (không nhằm vào một đối tượng, một con người nào cụ thể hay
một nhóm đối tượng cụ thể), tính bắt buộc - tính cưỡng chế nhà nước (đối
tượng bắt buộc phải thực hiện, không thể thoái thác) và phải được cơ quan có
thẩm quyền ban hành (chủ thể được pháp luật trao thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật). [16, tr. 45]
1.2. Cơ sơ pháp lý của hoạt động ban hành văn bản quy phạm

pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
1.2.1. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Trong những năm gần đây, hoạt động quản lý của các cơ quan chính
quyền địa phương đã được tăng cường đáng kể và được phân định khá rõ
ràng. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (các cấp) năm
2003 quy định cụ thể về thẩm quyền quản lý của các cấp chính quyền địa
phương. Cùng với đó là xu hướng cải cách hành chính đang được thực hiện,
trong đó có nội dung phân định rõ mối quan hệ giữa Trung ương và địa
phương, tăng quyền tự chủ cho địa phương, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Nhu cầu quản lý tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu ban hành văn bản để quản
lý. Các văn bản pháp luật được ban hành nhiều hơn nhằm đạt được mục đích
mà các chủ thể quản lý đặt ra, bởi vì có nhiều lĩnh vực ở địa phương cần phải
điều chỉnh bằng văn bản pháp luật.
Theo quy định tại Điều 1 và 2 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân năm 2003 thì: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của


14
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”; “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng
nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân
cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm
chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp ” [2, tr. 5, 6]
Quyền lực của Hội đồng nhân dân được giới hạn trong phạm vi đơn vị
hành chính - lãnh thổ. Hội đồng nhân dân ban hành các Nghị quyết về các
biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương. Hội đồng nhân dân có quyền chủ động quyết nghị về các vấn đề trong

phạm vi địa phương vì quyền lợi và đời sống của nhân dân địa phương, không
trái với lợi ích chung của quốc gia và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Là cơ quan quản lý có thẩm quyền chung, Uỷ ban nhân dân thực hiện
chức năng quản lý toàn diện theo lãnh thổ đối với mọi ngành, lĩnh vực thuộc
địa phương, đảm bảo thi hành pháp luật, các quy định của cấp trên và của Hội
đồng nhân dân cùng cấp, giám sát việc thi hành pháp luật đối với các cơ quan
đóng tại địa bàn trong phạm vi thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân về những
vấn đề thuộc thẩm quyền quản lý theo lãnh thổ. Uỷ ban nhân dân trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, ban hành Quyết định, Chỉ thị
và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó. Khi quyết định những vấn đề
quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết
định theo đa số.
Thực hiện nhiệm vụ luật định, các cơ quan chính quyền địa phương
(Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân) thông qua các hoạt động cụ thể quản
lý, điều hành mọi mặt hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân trong


15
địa phương. Một hoạt động quan trọng nhất trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình là cơ quan chính quyền địa phương có thẩm quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân là một quyền phái sinh từ
thẩm quyền quản lý nhà nước ở địa phương - không phải tất cả các vấn đề
phát sinh trong xã hội thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền địa phương
đều được điều chỉnh, tác động bằng văn bản quy phạm pháp luật [13, tr. 15]
Theo quy định tại Điều 113 Hiến pháp năm 1992, các đơn vị hành
chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như
sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành
chính tương đương; tỉnh chia thành huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã;

thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia
thành xã và thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và
xã; quận chia thành phường. Ba cấp tỉnh, huyện, xã hoặc thành phố, quận,
phường cùng tồn tại trên cùng một địa bàn. Vấn đề đặt ra cho các nhà làm
luật, các nhà quản lý: phải quy định một cách cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ của
từng cấp địa phương để từng cấp biết cụ thể về một lĩnh vực nào đó mình
phải làm gì và được làm gì.
Cụ thể hoá Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân năm 2003 đã quy định đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở cả ba cấp; tuy nhiên, nhìn chung các quy định
này chưa phân biệt rành mạch chức năng của từng cấp địa phương trên cùng
lĩnh vực và trên từng địa bàn đặc biệt là trong lĩnh vực ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải qua nhiều
tầng nấc trung gian. Thực tế, nếu Nhà nước ban hành một văn bản quy phạm


16
pháp luật nào đó thì thông thường các văn bản đó chưa được địa phương áp
dụng nếu chưa có văn bản hướng dẫn của chính địa phương đó, hoặc cấp trên
trực tiếp. Điều này dẫn đến tâm lý chờ đợi, chậm thực hiện văn bản
[24, tr. 82]. Hơn nữa, nhiều khi cùng một vấn đề mà cả ba cấp đều cùng ban
hành văn bản để quy định sẽ dễ tạo ra mâu thuẫn, chồng chéo, gây lúng túng
cho cả cơ quan ban hành và người thực hiện.

Hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân:

Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân:






Hình thức VBQPPL của
HĐND, UBND
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân

Nghị quyết
Quyết định
Chỉ thị
Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (nội dung chung,
chưa kể đặc thù hải đảo, đô thị )
Cấp tỉnh
Cấp
huyện
Cấp xã
Nghị
quyết
của
HĐND
Quyết
định,
Chỉ thị
của
UBND
Nghị
quyết

của
HĐND

Quyết
định,
Chỉ thị
của
UBND

Nghị
quyết
của
HĐND

Quyết
định,
Chỉ thị
của
UBND

7 vấn đề quy
14 vấn đề quy
7 vấn đề quy
11 vấn đề quy
6 vấn đề quy
7 vấn đề quy


17







Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, một loạt các vấn đề đang được đặt ra
từ yêu cầu quản lý xã hội trên từng địa bàn các cấp địa phương liên quan đến
tổ chức, phân cấp, phân quyền cho địa phương, đến nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể của từng cấp địa phương trong đó có việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
Theo quy định hiện nay của Chính phủ (Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP
ngày 30/6/2004 của Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý
nhà nước giữa Chính phủ và tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương), nhiệm
vụ quản lý sẽ được phân công, phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương,
xác định rành mạch cụ thể thẩm quyền quản lý của các bộ và của cấp chính
quyền địa phương phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng ngành; phân biệt
để giao hẳn một số lĩnh vực cho địa phương gắn với quyền quyết định về bộ
máy, nhân sự và kinh tế; tiến hành phân cấp mạnh hơn, rõ hơn cho các cấp
chính quyền địa phương theo hướng việc nào do cấp nào giải quyết sát với
thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó, nhằm tạo điều kiện
và thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác mọi
tiềm năng tại chỗ để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, là những công
việc cần được tiến hành để bảo đảm tính hiệu quả của sự điều hành của cả ba
cấp. Như vậy, nhiệm vụ đặt ra là phải giải quyết được vấn đề: Cấp tỉnh, cấp


18
huyện trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ nào là hiệu quả nhất. Cấp xã, nơi
trực tiếp liên quan đến sinh hoạt thường nhật của người dân, cũng là nơi
người dân có điều kiện để trực tiếp bày tỏ sự quan tâm của mình đến việc giải

quyết các vấn đề thường gặp trong cuộc sống, thì những nhiệm vụ nào giao
cho cấp này là phù hợp và hiệu quả nhất? Và phương thức nào để các địa
phương hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo nhất?
Thực tế, việc phân công, phân cấp cho chính quyền địa phương đã được
quy định trong một số luật, pháp lệnh chuyên ngành. Tuy nhiên, đây là cách
quy định còn mang tính phân tán, thiếu đồng bộ, do các cơ quan khác nhau chuẩn
bị cho nên thường không có sự nhất quán, nhiều khi còn mâu thuẫn với nhau.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp được
trao cho cả ba cấp tỉnh, huyện và xã theo nguyên tắc tập thể ban hành.
1.2.2. Hình thức văn bản quy phạm pháp luật
Hình thức văn bản quy phạm pháp luật là sự thể hiện bên ngoài nội
dung của văn bản quy phạm pháp luật đó. Trong khái niệm văn bản quy phạm
pháp luật, hình thức văn bản được xem như một yếu tố, một dấu hiệu và đặc
trưng không thể thiếu của loại văn bản này. Khi điều chỉnh một vấn đề pháp
lý, cơ quan có thẩm quyền phải sử dụng đúng hình thức văn bản mà mình
được phép ban hành. Nếu không, văn bản đó bị coi là vi phạm thẩm quyền về
mặt hình thức và sẽ bị xử lý theo quy định về xử lý văn bản quy phạm pháp
luật. Như vậy, việc tuân thủ quy định về hình thức là một điều kiện khẳng
định tính chất của văn bản quy phạm pháp luật, là một yếu tố chứng minh tính
hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật. Việc tuân thủ hình thức văn bản
còn là minh chứng cho kỷ luật và kỷ cương hành chính, thể hiện tính pháp chế
trong hoạt động quản lý nhà nước [13, tr. 19]


19
Mỗi cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền luật định được ban
hành một số hình thức văn bản nhất định. Các văn bản đó có tên gọi và được
trình bày theo một cơ cấu do pháp luật quy định. Nếu cần đặt ra các quy phạm
pháp luật để thực hiện chức năng quản lý nhà nước mà pháp luật giao, cơ

quan có thẩm quyền phải sử dụng các hình thức văn bản quy phạm pháp luật
do luật định mà không được sử dụng một cách tuỳ tiện những hình thức văn
bản không do pháp luật quy định có chứa đựng quy phạm pháp luật [16, tr.
59]. Mặt khác, các cơ quan không được pháp luật cho phép không được ban
hành văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật dưới bất kỳ hình thức nào.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Hội đồng nhân dân được ban
hành văn bản quy phạm pháp luật dưới một hình thức duy nhất là Nghị quyết;
Uỷ ban nhân dân được ban hành Quyết định, Chỉ thị. Điều đó có nghĩa là,
ngoài những hình thức nêu trên, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân về
nguyên tắc, không được ban hành văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật
dưới bất kỳ một hình thức nào khác.
Về mặt lý luận, vị trí, tính chất Nghị quyết của Hội đồng nhân dân,
Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân có thể được xem xét dựa trên vị trí,
tính chất của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân là những chủ thể ban
hành chúng. Tuy nhiên, xét từ góc độ văn bản nói chung, có thể xác định vị
trí, tính chất Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Quyết định, Chỉ thị của Uỷ
ban nhân dân dựa trên hai tiêu chí cơ bản: Chúng là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chúng là một loại trong các
quyết định quản lý do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Quyết định quản lý nhà nước là công cụ cơ bản nhất để các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và được phân loại dựa


20
trên những tiêu chuẩn khác nhau như: Theo tính chất pháp lý, cơ quan ban
hành, trình tự ban hành và hình thức thể hiện.
1.2.3. Thể thức văn bản quy phạm pháp luật
Thể thức của một văn bản là tập hợp các thành phần cấu thành văn bản,
bao gồm những thành phần chung áp dụng đối với các loại văn bản và các
thành phần bổ sung trong những trường hợp cụ thể, hoặc đối với một số loại

văn bản nhất định theo quy định tại Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày
08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư và Thông tư liên tịch số
55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5/2005 của liên bộ: Bộ Nội vụ và Văn
phòng Chính phủ. Một văn bản quy phạm pháp luật được trình bày đúng thể
thức phải có đủ các thành phần sau [7]:
+ Quốc hiệu: Quốc hiệu (tên nước và chế độ chính trị) gồm 2 dòng chữ:
"Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" và "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc"
phải được viết trên cùng, bên góc phải văn bản;
+ Tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản (tác giả văn bản): Bao gồm
tên của cơ quan, tổ chức ban hành văn bản và phải được ghi đầy đủ theo tên
gọi chính thức và được viết ngang hàng với quốc hiệu, bên góc trái văn bản;
+ Số, ký hiệu của văn bản: Số, ký hiệu của văn bản bao gồm số thứ tự
được đánh theo từng loại văn bản do cơ quan ban hành trong một năm; năm
ban hành văn bản đó; chữ viết tắt của mỗi loại văn bản và tên cơ quan ban
hành văn bản đó; được ghi ngay dưới tên cơ quan ban hành văn bản;
+ Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành văn bản: Được ghi ngay
dưới quốc hiệu, hơi lệch về phía bên phải văn bản;


21
+ Tên loại văn bản: Tên loại văn bản là tên của từng loại văn bản do cơ
quan, tổ chức ban hành. Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
hành chính đều phải ghi tên loại, trừ công văn;
+ Nội dung văn bản: Nội dung văn bản là thành phần chủ yếu của một
văn bản, được trình bày tuỳ thuộc vào từng loại văn bản và từng nội dung cụ
thể. Trong kết cấu và bố cục của nội dung, tuỳ theo đối tượng điều chỉnh,
phạm vi điều chỉnh và giá trị pháp lý của văn bản có thể chia ra thành thứ tự
như sau: Chương - mục - điều - khoản - điểm - tiết;
+ Chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền: Được trình bày
dưới phần nội dung, phía bên phải văn bản. Người có thẩm quyền ký không

được ký bằng bút mực đỏ hay bằng mực dễ phai;
+ Dấu của cơ quan, tổ chức: Dấu được đóng trùm lên 1/3 chữ ký về
phía bên trái, không được đóng dấu trước, ký sau;
+ Nơi nhận: Nơi nhận xác định những cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân nhận văn bản với mục đích và trách nhiệm cụ thể, như: để kiểm tra, giám
sát; để xem xét, giải quyết; để thi hành; để trao đổi công việc; để biết hoặc để lưu.
1.2.4. Trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân được quy định khá rõ ràng trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm
2004. Luật này quy định đầy đủ trình tự, thủ tục ban hành văn bản của từng
cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Theo quy định, việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân bao
gồm các bước cơ bản sau đây:


22
Tổ chức soạn thảo văn bản: Pháp luật là để áp dụng cho dân nên phải
soạn thảo sao cho dân dễ hiểu. Pháp luật phải rõ ràng, mạch lạc để người dân
dễ hiểu, dễ biết mà thực hiện [24, tr. 127]. Chính vì vậy, ngay từ khâu soạn
thảo cần phải khảo sát thực tế, nghiên cứu soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến. Đây
được coi là giai đoạn quan trọng vì liên quan rất nhiều đến chất lượng của văn
bản. Thông tin thu được để chuẩn bị cho việc soạn thảo văn bản phải bảo đảm
nhiều chiều, phải bám sát với thực tế khảo sát, bảo đảm hiệu quả điều chỉnh
về sau. Việc tổ chức lấy ý kiến là rất cần thiết, vì nó đảm bảo sự đa dạng, tính
toán được hết khả năng có thể xẩy ra.
Giai đoạn kiểm tra trước khi ban hành: Kiểm tra trước văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân với mục đích chính
là tìm ra các khiếm khuyết của dự thảo và phương án loại trừ các khiếm
khuyết đó. Việc kiểm tra trước sẽ góp phần bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp,

tính đúng đắn cũng như hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật; góp phần
làm nhẹ đi rất nhiều việc kiểm tra sau đối với văn bản quy phạm pháp luật mà
hậu quả của nó là văn bản bị ngưng hiệu lực, đình chỉ việc thi hành hoặc bị
bãi bỏ, huỷ bỏ bởi cơ quan có thẩm quyền.
Việc kiểm tra trước phải trở thành một công đoạn cần thiết của quá
trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân. Điều này xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của quy
trình soạn thảo văn bản, có thể là do người soạn thảo khó có thể đảm đương
được một lúc nhiều công việc: Kỹ thuật, cách thức trình bày và đề xuất các
chính sách pháp lý. Hơn nữa, cũng cần chú ý tới xu hướng cục bộ ngành, lĩnh
vực không đáp ứng được nhu cầu đối với chất lượng của văn bản quy phạm
pháp luật.


23
Giai đoạn trình văn bản lên cơ quan có thẩm quyền: Đây là giai đoạn
chuyển tiếp trước khi thảo luận, thông qua. Hồ sơ và thủ tục trình bảo đảm
đúng yêu cầu sẽ quyết định tới tiến độ, chất lượng của văn bản. Trong giai
đoạn này, cơ quan chủ trì soạn thảo hoàn thiện dự thảo và các tài liệu liên
quan lập thành hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền. Hồ sơ trình phải đảm bảo
đầy đủ ý kiến của các cơ quan có liên quan, ý kiến của cơ quan tư pháp, tờ
trình, các tài liệu cần thiết khác và phải trình đúng thời hạn trình. Thông
thường đây là giai đoạn chuyển tiếp diễn ra rất nhanh trong giai đoạn chuẩn bị
dự thảo, nhưng thời hạn trình phải bảo đảm để cơ quan có thẩm quyền ban
hành có đủ thời gian đọc và thảo luận các khía cạnh của chính sách và ảnh
hưởng đa chiều của chúng trước khi thông qua tại phiên họp của Uỷ ban
nhân dân.
Giai đoạn thảo luận, thông qua dự thảo văn bản: Hồ sơ sau khi trình
sẽ được chuyển đến các bộ phận chuyên môn có liên quan xem xét và quyết
định trình cơ quan có thẩm quyền thông qua. Văn bản của Hội đồng nhân dân,

Uỷ ban nhân dân được thảo luận tập thể, quyết định theo đa số tại phiên họp.
Giai đoạn tổ chức thực hiện văn bản: Các văn bản sau khi ban hành sẽ
được phổ biến rộng rãi, có thể được đăng trên công báo, bằng các phương tiện
thông tin đại chúng hoặc yết thị tại trụ sở của cơ quan ban hành và những địa
điểm khác do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định.
Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành là một
nhiệm vụ rất khó khăn, tuy nhiên góp phần không nhỏ vào việc đưa pháp luật
vào cuộc sống, kiểm tra được tính khả thi của văn bản. Làm tốt công tác giám
sát văn bản sẽ giúp chúng ta có được một hệ thống văn bản phù hợp thực tế,
người dân sẽ tự nguyện tuân theo pháp luật.
1.2.5. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

×