ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HUY HẢI
HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI -
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ néi - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HUY HẢI
HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI -
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế
Hµ néi - 2009
1
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP
LUẬTTRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
8
1.1.
Tổng quan về hoạt động phổ biến pháp luật
8
1.1.1.
Khái niệm phổ biến pháp luật
8
1.1.2.
Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật
14
1.1.3.
Chủ thể, khách thể, đối tượng của hoạt động phổ biến pháp luật
16
1.1.3.1.
Chủ thể hoạt động phổ biến pháp luật
16
1.1.3.2.
Khách thể (đối tượng) của hoạt động phổ biến pháp luật
17
1.2.
Nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật
18
1.2.1.
Nội dung phổ biến pháp luật
18
1.2.2.
Hình thức phổ biến pháp luật
25
1.2.3.
Phương pháp phổ biến pháp luật
29
1.2.4.
Một số đặc điểm cần lưu ý trong hoạt động phổ biến
pháp luật
30
1.3
Mối quan hệ giữa hoạt động phổ biến pháp luật với các
dạng giáo dục ý thức khác
35
1.3.1.
Hệ thống những văn bản pháp quy về hoạt động phổ biến
pháp luật
35
2
1.3.2.
Mối quan hệ giữa hoạt động phổ biến pháp luật với các
dạng giáo dục ý thức khác
36
Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
39
2.1.
Vài nét khái quát về thành phố Hà Nội
39
2.2.
Hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội
42
2.2.1.
Sự cần thiết của hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn
thành phố Hà Nội
42
2.2.2.
Nội dung hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành
phố Hà Nội trong thời gian qua
45
2.2.2.1.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phổ biến pháp luật
45
2.2.2.2.
Trong kiện toàn tổ chức, bộ máy làm công tác tuyên truyền
pháp luật
49
2.2.2.3.
Trong công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên
truyền pháp luật từ thành phố đến cơ sở
51
2.2.2.4.
Hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật trong các tầng
lớp nhân dân
52
2.2.2.5.
Hoạt động phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức, chính
quyền cơ sở
54
2.2.2.6.
Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật trong lực lượng vũ trang
55
2.2.2.7
Hoạt động phổ biến pháp luật cho thanh thiếu niên
56
2.2.2.8.
Hoạt động phổ biến pháp luật cho người lao động, nhà
quản lý và cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp
57
2.2.3.
Những hình thức phổ biến pháp luật chủ yếu trên địa bàn
thành phố Hà Nội
57
2.2.3.1.
Phổ biến pháp luật thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm,
nói chuyện chuyên đề
57
3
2.2.3.2.
Phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
59
2.2.3.3.
Hoạt động phổ biến pháp luật thông qua các cuộc thi, hội
thi tìm hiểu pháp luật
62
2.2.3.4.
Hoạt động phổ biến pháp luật thông qua các tài liệu, sách
báo, khai thác tủ sách pháp luật
63
2.2.3.5.
Hoạt động phổ biến pháp luật thông qua công tác tư vấn
pháp luật, trợ giúp pháp lý
65
2.2.3.6.
Hoạt động phổ biến giáo dục thông qua công tác hòa giải ở
cơ sở
67
2.2.4.
Những ưu điểm, các mặt hạn chế, nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm trong công tác phổ biến pháp trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian qua
69
2.2.4.1.
Những ưu điểm
69
2.2.4.2.
Những hạn chế trong hoạt động phổ biến pháp luật trên địa
bàn thành phố Hà Nội
71
2.2.4.3.
Nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế và những bài học kinh
nghiệm trong hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn
thành phố Hà Nội
72
Chương 3: TĂNG CƢỜNG HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI - PHƢƠNG
HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
75
3.1.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phổ
biến pháp luật
75
3.2.
Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường hoạt động phổ biến
pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội
77
3.2.1.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật cho
chủ thể tiến hành hoạt động phổ biến pháp luật
77
4
3.2.2.
Kết hợp phổ biến pháp luật với các lĩnh vực giáo dục đào
tạo khác trên địa bàn thành phố Hà Nội
82
3.2.3.
Xây dựng hệ thống thông tin pháp luật, tạo điều kiện để
quần chúng nhân dân tiếp cận với pháp luật một cách
kịp thời, chính xác
84
3.2.4.
Tăng cường hình thức phổ biến pháp luật thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan tham gia phổ biến pháp luật
87
3.2.5.
Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất hoạt động phổ
biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội
91
3.2.6.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm
những vi phạm kỷ luật, pháp luật
95
3.2.7.
Bảo đảm kinh phí trong công tác phổ biến pháp luật cho
cán bộ, công chức trên địa bàn
96
KẾT LUẬN
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo trong hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu quan
trọng, tạo tiền đề vững chắc đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn đổi mới đất
nước đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng rằng: phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hỏi tất yếu phải xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý các lĩnh vực
của đời sống xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là phương thức không chỉ để xây dựng hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền mà còn là phương thức chủ yếu để nhà nước quản
lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một
nguyên tắc hiến định thể hiện trong Hiến pháp của Nhà nước ta. Để thiết lập
một nền pháp chế thống nhất và vững chắc trên phạm vi cả nước; để thiết lập
trật tự pháp luật, kỷ cương phép nước được nghiêm minh, dân chủ và công
bằng, có rất nhiều con đường với nhiều giải pháp phong phú. Trong đó, phải
kể đến giải pháp trước mắt và lâu dài đảm bảo việc thực hiện pháp luật trở
thành lối sống, thói quen của Nhà nước và nhân dân - đó là đẩy mạnh hoạt
động phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức về pháp luật cho nhân dân.
Chính vì vậy, Chính phủ đã ra Chỉ thị số 02/CT-TTg năm 1998 và Quyết định
số 03/QĐ-TTg ngày 7/1/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác
phổ biến phổ biến pháp luật. Thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TW ngày 9/12/2003
của Ban Bí thư, Năm 2003 Chính phủ đề ra Chương trình Phổ biến giáo dục
pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007 (ban hành kèm theo Quyết định số
13/2003/QĐ-TTg ngày 17/-1/2003 của Thủ tướng Chính phủ), Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 36/2003/QĐ-UB ngày
6
27/02/2003 về Chương trình Phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà
Nội từ năm 2003 đến năm 2007.
Theo Nghị quyết 61/2007/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày
7/12/2007, phổ biến pháp luật là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Công tác này sẽ được tiến hành thường xuyên, liên tục và ở tầm cao
hơn nhằm làm cho cán bộ, nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu rõ: "Mọi đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của
đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm
tham gia hoạch địh và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước" [20, tr. 44].
Với nhận thức trên có thể khẳng định rằng: nếu sự nghiệp giáo dục là
quốc sách hàng đầu thì hoạt động phổ biến pháp luật có vị trí đặc biệt quan
trọng ở nước ta hiện nay. Thực tiễn vừa qua, hoạt động phổ biến pháp luật
trên địa bàn thành phố Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới. Pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nói chung còn rất hạn chế nhất là
trong bối cảnh Hà Nội được mở rộng, khi xen lẫn vùng đô thị hóa vẫn còn
những vùng sâu, vùng xa, vùng có các dân tộc ít người đang sinh sống. Các
điều kiện để tiếp nhận thông tin pháp lý nhất là các văn bản pháp luật của Nhà
nước đối với đa số quần chúng nhân dân bị hạn chế. Bối cảnh đó càng cho
thấy hoạt động phổ biến pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống ở đây là vấn
đề lớn đòi hỏi cần được đáp ứng kịp thời.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: "Hoạt động phổ biến
pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn"
là rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn thiết thực.
7
2. Tình hình và phạm vi nghiên cứu của luận văn
2.1. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động phổ biến pháp luật với tư cách là một phạm trù pháp lý là
một dạng hoạt động của Nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện
pháp tăng cường pháp chế, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của
nhiều cơ quan và các nhà khoa học từ trước đến nay đặc biệt là trong thời kỳ
đổi mới đất nước, đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
+ Ở trong nước việc nghiên cứu phổ biến pháp luật được nhiều tác giả
đề cập đến những khía cạnh và mức độ khác nhau, thể hiện trong các công
trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các báo, tạp chí và phổ biến pháp luật đã
là đề tài của nhiều luận án, luận văn luật học, các công trình nghiên cứu đó có
thể kể đến như:
- "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa", Luận án tiến sĩ luật của Trần Ngọc Đường.
- "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân
dân lao động ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ luật của Nguyễn Đình Lộc.
- "Phổ biến pháp luật cho nhân dân", của Nguyễn Ngọc Minh, Tạp
chí Cộng sản, số 10, 1983;
- "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
và xây dựng con người mới", của Phùng Văn Tửu, Tạp chí Giáo dục lý luận,
số 4, 1985;
- "Giáo dục ý thức pháp luật", của Nguyễn Trọng Bích, (Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 4, 1989;
- "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp
luật", Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số 07-17, do Viện Nhà nước - pháp
luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì;
8
- "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong công cuộc đổi mới", đề tài
khoa học cấp Bộ, mã số 92-98, 223 ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp
lý - Bộ Tư pháp;
- "Tìm kiếm mô hình phổ biến phổ biến pháp luật có hiệu quả trong
một số dân tộc ít người", đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa
học pháp lý;
- "Phổ biến pháp luật trong các trường Đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề không chuyên luật ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến
sĩ của Đinh Xuân Thắng;
- "Phổ biến pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam", Luận án
phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai;
- "Phổ biến pháp luật cho dân tộc Khơme Nam Bộ (qua thực tiễn An
Giang)", Luận văn thạc sĩ của Lê Văn Bền;
- "Bàn về phổ biến pháp luật", của phó tiến sĩ Trần Ngọc Đường -
Dương Thị Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995;
- "Một số vấn đề về phổ biến phổ biến pháp luật trong giai đoạn hiện
nay", Luận văn thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng.
+ Một số bài viết của các tác giả đã đăng trên Tạp chí thời gian gần đây:
- "Nhìn lại một năm công tác phổ biến, phổ biến pháp luật ở Gia Lai",
của Trần Xuân Thiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2000.
- "Xã hội hóa công tác phổ biến phổ biến pháp luật trong tình hình
mới" của Hồ Viết Hiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000.
- "Bàn về ý thức pháp luật", TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Luật
Học, số 1/2003.
- "Văn hóa pháp lý - dòng riêng giữa nguồn chung của dân tộc Việt
Nam", PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2004.
9
- "Đa dạng hành vi pháp luật và xây dựng môi trường xã hội - pháp lý
cho những hành vi hợp pháp", PGS TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 8/2005 v.v
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể và cá
nhân, các bài viết từ trước đến nay về phổ biến pháp luật đã có những đóng
góp quan trọng về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay
chưa có một công trình luận án, luận văn nào nghiên cứu về hoạt động phổ
biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với vị trí là trung tâm chính trị -
hành chính và kinh tế lớn của cả nước, là thành phố vì hòa bình, Hà Nội cần
phải chú trọng đúng mức tính cấp thiết của hoạt động phổ biến pháp luật và
coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng để góp phần vào việc ổn định trật tự
an ninh và phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô.
2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Luận văn nghiên cứu hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu kể từ khi có đường lối đổi
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) mà đặc biệt là 2 nhiệm kỳ Đại hội
gần đây đến nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm
tăng cường hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là, phân tích làm rõ cơ sở lý luận của hoạt động phổ biến pháp luật.
Hai là, đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
10
Ba là, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường hoạt động
phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà
nước ta về hoạt động phổ biến pháp luật nói chung và hoạt động phổ biến
pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
lịch sử - cụ thể, phân tích tổng hợp, thống kê so sánh, điều tra xã hội học v.v
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Đây là công trình chuyên khảo, nghiên cứu tương đối có hệ thống
những vấn đề lý luận về hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật, đồng
thời rút ra những kinh nghiệm về hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường hoạt
động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng
hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, nâng cao
nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan
Đảng và nhà nước trong hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Các giải pháp được đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong
việc xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến pháp luật trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
11
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các
trường, lớp, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Chương 2: Thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành
phố Hà Nội
Chương 3: Tăng cường hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn
thành phố Hà Nội - phương hướng và giải pháp cơ bản
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật
Đến nay, khái niệm về phổ biến pháp luật ở nước ta vẫn chưa được
nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau
về khái niệm phổ biến pháp luật. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:
Trước hết, quan niệm cho rằng, pháp luật là qui tắc xử sự có tính bắt
buộc chung. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó
không cần đặt vấn đề phổ biến pháp luật. Pháp luật không thể là cái thuộc tính
tuyên truyền vận động, ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức
năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài
đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi phổ biến pháp luật là một bộ
phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt
quá trình giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý
thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Quan niệm này đã
từng tồn tại trong một thời gian khá dài ở nước ta. Vì vậy, việc đào tạo
chuyên ngành luật không được Nhà nước chú ý, dẫn đến hậu quả là các cơ sở
đào tạo của ngành luật hầu như không có. Mãi đến năm 1979 mới có cơ sở
chuyên ngành đào tạo các luật gia ở bậc đại học và đến những năm 1987-
1988, việc phổ biến pháp luật mới bắt đầu đưa vào chương trình giáo dục ở
bậc phổ thông.
Quan niệm thứ ba, coi phổ biến pháp luật đồng nhất với việc giáo dục
các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này, việc phổ biến pháp luật thực chất
13
chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật quan trọng mới
ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự hoặc trước các kỳ
bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.
Các quan niệm nói trên có phần mang tính phiến diện, một chiều, chưa
thấy hết đặc thù, sự tác động của phổ biến pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố ý
hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của hoạt động phổ biến pháp luật. Bởi vì, bản
thân pháp luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng
"tiềm năng". Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều
chỉnh bao gồm các giai đoạn: Ban hành, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, tổ
chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật,
con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là
một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan. Ở giai đoạn này, qui phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức
của cá nhân như khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất
hợp pháp. Do đó, việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần
nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật.
Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó
phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân
"cho nên công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn
phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt" [37, tr. 244.
Để xác định đúng đắn khái niệm phổ biến pháp luật, trước hết cần là
rõ các khái niệm có liên quan.
- Về hoạt động tuyên truyền
Hoạt động phổ biến pháp luật có liên quan chặt chẽ tới khái niệm về
hoạt động tuyên truyền. Theo Đại từ điển Tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý
chủ biên nêu ra khái niệm tuyên truyền như sau: "Tuyên truyền là giải thích
rộng rãi để thuyết phục, vận động mọi người làm theo" [53].
14
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về tuyên truyền như sau: "Tuyên
truyền là đem một việc gì nói để cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm.
Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại" [38, tr. 162]
- Quan niệm về giáo dục:
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều kiện
khách quan như: Môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, phong tục tập quán và sự tác động của nhân tố chủ quan như: Sự
tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên
việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được
các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất,
trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (hay
đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách
quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý
luận vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm
chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì thế, khái
niệm giáo dục hiện nay thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
Từ những quan niệm trên, phổ biến pháp luật trước hết là một hoạt
động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, có nhiều nét tương đồng với
hoạt động tuyên truyền nhưng nó cũng có những nét đặc thù riêng, phạm vi
riêng để tác động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, phổ
biến pháp luật được hiểu là: Con người nói chung là khách thể (hay đối
tượng) chịu ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan để hình thành nên ý thức, tình cảm và hành vi pháp luật.
Cơ sở của việc xây dựng khái niệm phổ biến pháp luật được xác định
qua các yếu tố sau đây:
15
- Mặc dù, sự hình thành ý thức con người là quá trình ảnh hưởng tác
động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan,
những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và cả những nhà lý luận giáo
dục đều phân biệt hai mặt của quá trình ấy. Tuy vậy, trong sự tác động, nhân
tố của các điều kiện khách quan chỉ là những nhân tố ảnh hưởng còn nhân tố
chủ quan là nhân tố tích cực mang tính tác động. Nhân tố ảnh hưởng có thể
tác động theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố "tác động" bao giờ cũng
là tự giác, có ý thức, có định hướng rõ ràng, cụ thể mà hoạt động giáo dục
định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ
chức xã hội là yếu tố hàng đầu.
- Khái niệm phổ biến pháp luật theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong
việc phân biệt phạm trù phổ biến pháp luật với phạm trù ý thức pháp luật. Hai
phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt
động phổ biến pháp luật, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà
trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ
thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của
điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng ở
chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động phổ biến
pháp luật. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc phổ biến
pháp luật thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội
chưa được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng trong đội
ngũ cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất mạnh lên
nhận thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình
thành loại ý thức pháp luật ngược với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở
cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn
các yếu tố của phổ biến pháp luật như nội dung, hình thức, phương pháp và
định hướng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp luật phù hợp
với yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ thì sẽ giảm bớt được tác động của
các tiêu cực, giúp cho đối tượng được phổ biến có ý thức pháp luật vững
16
vàng, có khả năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp
luật trong quá trình vận động của nó. Từ đó, mọi người có thái độ và hành
động phù hợp với pháp luật.
- Phổ biến pháp luật vừa mang những đặc điểm chung của hoạt động
tuyên truyền, giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của tuyên truyền,
giáo dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong
mối liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị,
đạo đức Tính đặc thù của phổ biến pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội
dung và ở cả hình thức, phương pháp.
Nét đặc thù của phổ biến pháp luật khác tương đối với các dạng giáo
dục khác ở chỗ:
+ Phổ biến pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động
nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định
của pháp luật.
+ Phổ biến pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng
với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một
nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp
luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng.
+ Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và
phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của phổ biến pháp
luật. Chẳng hạn, phổ biến pháp luật so với các dạng giáo dục khác, đó là quá
trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động
một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, phổ biến pháp luật trở
thành sợi chỉ đỏ xuyên nối qua gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các
tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành vi
hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người
giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục
là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật.
17
Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của người được giáo dục
là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người phổ biến pháp
luật cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế
nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Bởi
vì, trong phổ biến pháp luật thì nguyên tắc "làm gương", "làm mẫu", "anh hãy
làm như tôi làm" có ảnh hưởng to lớn đối với người được phổ biến.
Tóm lại, khái niệm phổ biến pháp luật được hiểu: là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể tác động lên đối tượng phổ biến
nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các
đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Với khái niệm phổ biến pháp luật như đã nêu trên, trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói
quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ thống
các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có chức
năng phổ biến pháp luật của Nhà nước nói riêng.
Phổ biến pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa
đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, phổ biến
pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi
công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: "Mọi đường
lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích
của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm
tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước" [20, tr. 44], chúng ta đang từng bước phấn đấu nhằm hoàn
thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong phương hướng đó, phổ biến
pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì đó là khâu đầu tiên để tạo ra
18
tiền đề ý thức cho phương hướng có khả năng trở thành hiện thực trong đời
sống xã hội.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động
trong hoạt động phổ biến pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn thấp, pháp
luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến. Điều đó đặt ra
cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược của
hoạt động phổ biến pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong
chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
1.1.2. Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật
Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật là một trong những yếu tố
tạo nên cấu trúc bên trong của phổ biến pháp luật. Việc xác định đúng đắn các
mục đích xã hội cần phải đạt được trong quá trình phổ biến pháp luật có vai
trò quan trọng trong lý luận và thực tiễn phổ biến pháp luật. Bởi vì, các phạm
trù, nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật phần lớn phụ thuộc
vào việc xác định những mục đích xã hội nào được đặt ra trước quá trình giáo
dục. Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật phải đáp ứng được các yêu
cầu cụ thể của xã hội đối với phổ biến pháp luật ở từng giai đoạn, trong các
điều kiện lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, hoạt
động phổ biến pháp luật bao gồm các mục đích cơ bản sau đây:
Mục đích thứ nhất: Cung cấp để hình thành, làm sâu sắc và từng bước
mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây
là mục đích hàng đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng
đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần
thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn
nữa, tri thức pháp luật còn giúp cho con người tổ chức một cách có ý thức
hoạt động của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn
19
mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện như nước ta
hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, còn chịu ảnh
hưởng tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, nhận thức về quyền và
nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, hoạt động phổ biến pháp luật
chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu
lực của pháp luật; dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước. Do đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước
ta luôn coi trọng hoạt động phổ biến pháp luật, "coi trọng công tác giáo dục,
tuyên truyền, giải thích pháp luật Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến
đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp
luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức
pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân" [11, tr. 121], "thường xuyên
phổ biến pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật" [12, tr. 92],
"phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp
chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật" [18, tr. 135].
Mục đích thứ hai: Hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật
(mục đích cảm xúc). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức pháp luật
mà không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ
quan bảo vệ pháp luật thì con người rất dễ có hành động chệch khỏi các chuẩn
mực pháp luật vì lợi ích riêng tư (các vụ án gần đây cho ta thấy rõ điều đó,
điển hình là vụ án Mai Văn Huy, vụ án Năm Cam). Nội hàm của mục đích
cảm xúc đạt được thông qua việc: Một là, phổ biến, giáo dục tình cảm công
bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật, biết
đối xử với người khác và với chính mình bằng các tiêu chuẩn công bằng thể
hiện qua các qui phạm pháp luật. Hai là, phổ biến, giáo dục tình cảm trách
nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi mọi lúc. Phê phán, lên án những
biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng thời ủng hộ và
tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có được tình cảm
20
trên, con người sẽ có được lòng tin vững chắc vào sự cần thiết tuân theo
những qui phạm pháp luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật, con người sẽ có
những hành vi hợp pháp.
Mục đích thứ ba: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo
pháp luật (mục đích hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả cuối cùng
của cả quá trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dưới tác động của những
yếu tố tâm lý, tình cảm, lòng tin Thói quen xử sự hợp pháp được hiểu là thói
quen tuân thủ các quy phạm hướng dẫn của pháp luật, thói quen thực hiện đúng
đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lý, thói quen sử dụng và áp dụng các
tri thức pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ các quyền và
nghĩa vụ hợp pháp của mình, của người khác, của Nhà nước và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật trên
đây chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại
trong mối liên hệ hữu cơ thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ
tính tự giác đến tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp
luật. Ngược lại, khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm
pháp luật lại được củng cố. Do đó, khi tiến hành phổ biến pháp luật đều phải
hướng hoạt động vào cả ba mục đích của phổ biến pháp luật.
Việc xác định mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật có ý nghĩa
hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn thực tiễn hoạt động phổ biến pháp luật.
Việc xác định đúng hay không đúng mục đích của phổ biến pháp luật sẽ dẫn
đến chất lượng tốt hay không tốt tới hoạt động phổ biến pháp luật.
1.1.3. Chủ thể, khách thể, đối tƣợng của hoạt động phổ biến pháp luật
1.1.3.1. Chủ thể hoạt động phổ biến pháp luật
Trên thực tế, chủ thể của hoạt động phổ biến pháp luật khá phong phú,
đa dạng nhưng tựu trung lại có thể hiểu: Chủ thể hoạt động phổ biến pháp
luật là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã
hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích phổ biến pháp luật. Các
21
nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể
phổ biến pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp
với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu trình độ và kỹ năng phổ biến pháp luật khác
nhau. Từ đó, có các hình thức, phương thức và phương pháp tiến hành hoạt
động phổ biến pháp luật khác nhau.
Chủ thể chuyên nghiệp phổ biến pháp luật là những người mà chức
năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung
phổ biến pháp luật (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về
pháp luật ).
Chủ thể không chuyên nghiệp phổ biến pháp luật là những người mà
chức năng chính không phải là phổ biến pháp luật, nhưng một trong các
nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện
mục đích phổ biến pháp luật (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân,
cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp ).
Tóm lại, chủ thể của hoạt động phổ biến pháp luật được hiểu là tất cả
những người mà theo chức năng hay theo trách nhiệm xã hội, đã tham gia góp
phần vào việc thực hiện mục tiêu phổ biến pháp luật.
1.1.3.2. Khách thể (đối tượng) của hoạt động phổ biến pháp luật
Khách thể theo quan niệm chung nhất là "đối tượng chịu sự tác động,
chi phối của hành động trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động
gọi là chủ thể" [49, tr. 487]. Từ quan niệm chung đó có thể đồng nhất khách
thể với đối tượng chịu sự tác động.
Quá trình phổ biến pháp luật thực chất là quan hệ xã hội giữa một bên
là người phổ biến (chủ thể) và một bên là người được phổ biến (khách thể hay
đối tượng). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên
tham gia trong mối quan hệ. Song chiều tác động chủ yếu vẫn là sự tác động,
chi phối của người phổ biến (chủ thể). Sự tác động là những hoạt động có ý
thức, có định hướng, có kế hoạch, nhằm đạt tới những mục tiêu, mục đích
22
nhất định (bao gồm mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành
vi, thói quen xử sự theo pháp luật). Nói cách khác, chủ thể phổ biến pháp luật
tác động lên khách thể (đối tượng) được phổ biến với những mong muốn cụ
thể là xây dựng được ý thức và những hành vi hợp pháp cho khách thể (đối
tượng) phổ biến pháp luật.
Như vậy, khách thể (đối tượng) phổ biến pháp luật ở đây không chỉ là
cá nhân, những nhóm cộng đồng xã hội mà còn bào hàm cả những yếu tố bên
trong của họ như: nhận thức, tình cảm, cảm xúc, hành vi cụ thể của họ phù
hợp với pháp luật.
Từ phân tích trên cho thấy, khách thể của phổ biến pháp luật mang
tính đồng nhất với đối tượng phổ biến pháp luật. Vậy khách thể của hoạt động
phổ biến pháp luật được hiểu là những cá nhân, nhóm cộng đồng xã hội cùng
với ý thức và hành vi pháp luật của họ.
Việc xác định chủ thể, khách thể (đối tượng) của hoạt động phổ biến
pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn của hoạt động phổ
biến pháp luật trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ
thể và khách thể trong quá trình phổ biến pháp luật. Trong đó, chủ yếu là sự
tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người phổ biến pháp luật
lên người được phổ biến pháp luật. Điều đó tạo cho chủ thể xác định các nội
dung, hình thức, phương tiện, biện pháp phù hợp để tiếp cận với khách thể
(đối tượng) phổ biến pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
1.2. NỘI DUNG, HÌNH THỨC, PHƢƠNG PHÁP PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
1.2.1. Nội dung phổ biến pháp luật
Nội dung của hoạt động phổ biến pháp luật được xác định trên cơ sở
mục đích của phổ biến pháp luật, là sự hình thành ở đối tượng giáo dục hệ
thống tri thức pháp luật. Tình cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp
với yêu cầu của pháp luật. Nội dung phổ biến pháp luật là một thành tố quan
23
trọng của hoạt động phổ biến pháp luật, nó được xác định trên cơ sở mục
đích, nhiệm vụ và đồng thời xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tượng
được hoạt động phổ biến pháp luật hướng tới. Xác định đúng nội dung của
hoạt động phổ biến pháp luật sẽ bảo đảm cho chất lượng của hoạt động phổ
biến pháp luật có hiệu quả cụ thể, thiết thực.
Trong lý luận về phổ biến pháp luật cần làm rõ một số vấn đề liên
quan tới nội dung hoạt động phổ biến pháp luật như: phạm vi, đặc điểm,
những yếu tố chủ yếu của nội dung phổ biến pháp luật.
Phạm vi của nội dung phổ biến pháp luật theo quan điểm chung hiện
nay bao gồm:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp
luật thực định.
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện
áp dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tượng, các
tầng lớp dân cư. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề
xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật.
- Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân (như
các quyền, các nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các quyền
hợp pháp).
Từ phạm vi nội dung phổ biến pháp luật nêu trên, trong thực tiễn pháp
luật ở nước ta hiện nay cũng cần lưu ý tới những đặc điểm của nội dung phổ
biến pháp luật. Đó là trạng thái động của các thông tin trong nội dung phổ
biến pháp luật. Những đặc điểm này cần được nhận thức đầy đủ đối với
những người làm công tác phổ biến pháp luật. Trên cơ sở đó họ lựa chọn