Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN VĂN LÂM





PHÁP NHÂN TRONG HỆ THỐNG
CÁC CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT








LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN VĂN LÂM




PHÁP NHÂN TRONG HỆ THỐNG
CÁC CHỦ THỂ CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế






HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC


Trang


MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỦ THỂ
QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP NHÂN
6
1.1
Khái niệm và nội dung của quan hệ pháp luật
6
1.1.1
Khái niệm
6
1.1.2
Nội dung quan hệ pháp luật
6
1.2
Các vấn đề cơ bản về chủ thể quan hệ pháp luật
6
1.2.1
Khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật
6
1.2.2

Đặc trưng của chủ thể quan hệ pháp luật
6
1.2.3
Phân loại chủ thể quan hệ pháp luật
6
1.3
Khái niệm pháp nhân và đặc trưng của pháp nhân
7
1.3.1
Khái niệm pháp nhân
7
1.3.2
Nội dung các học thuyết về pháp nhân
8
1.3.3
Đặc trưng của pháp nhân
8
1.3.4
Phân loại pháp nhân
8
1.3.5
Thành lập và chấm dứt pháp nhân
9
1.4
Nền tảng lý luận cho sự ra đời và phát triển của pháp nhân
9
1.4.1
Quyền tự do ý chí
9
1.4.2

Quyền tự do lập hội
9

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN Ở VIỆT NAM
11
2.1
Lịch sử phát triển chế định về pháp nhân trong pháp luật VN
11
2.2
Thực trạng pháp luật về chủ thể quan hệ pháp luật
11
2.2.1
Thực trạng phân loại các chủ thể quan hệ pháp luật
11
2.2.2
Thực tiễn áp dụng pháp luật về chủ thể quan hệ pháp luật
12
2.3
Thực trạng mô hình pháp nhân trong pháp luật Việt Nam
12
2.3.1
Mô hình pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự 2005
12
2.3.2
Mô hình pháp nhân theo Luật doanh nghiệp 2005
13
2.4
Thực trạng quy định pháp luật về thành lập, hoạt động và
chấm dứt pháp nhân.

14
2.4.1
Thực trạng quy định về thành lập pháp nhân
14
2.4.2
Thực trạng quy định về hoạt động của pháp nhân
14
2.4.3
Thực trạng quy định phá sản pháp nhân
14
2.5
Thực trạng áp dụng mô hình pháp nhân trong PL chuyên ngành
16
2.5.1
Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về tập đoàn
15
2.5.2
Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về công đoàn
15
2.5.3
Áp dụng mô hình pháp nhân trong lĩnh vực KD bất động sản
15
2.5.4
Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về Hội
16
2.5.5
Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về người tiêu dùng
16
2.6
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng pháp luật về pháp nhân

16
2.6.1
Mô hình pháp nhân tuy đã được du nhập vào Việt Nam từ lâu,
nhưng mới được quan tâm, và chú ý đến
16
2.6.2
Thiếu một lý thuyết lập pháp về mô hình của pháp nhân
16
2.6.3
Chưa xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về pháp nhân
16
2.6.4
Chưa quan niệm đúng đắn về thành lập pháp nhân
16
2.6.5
Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp, chưa thống nhất,
đồng bộ với nhau
16
2.6.6
Kỹ thuật lập pháp ở nước ta còn yếu
16
2.6.7
Chưa xác định được vị trí của từng đạo luật trong hệ thống các
văn bản pháp luật
16
2.6.8
Tính thiếu ổn định của hệ thống pháp luật dân sự
16
2.6.9
Quá trình tiếp thu kinh nghiệm pháp luật nước ngoài thiếu lựa

chọn và chưa phù hợp
17

Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ PHÁP
NHÂN Ở VIỆT NAM
18
3.1
Cơ sở định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân
18
3.1.1
Cơ sở về kinh tế - xã hội, văn hóa - đời sống
18
3.1.2
Đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước
18
3.1.3
Cơ sở phù hợp với xu hướng hoàn thiện, cải cách hệ thống pháp
luật ở Việt Nam hiện nay
18
3.1.4
Đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
18
3.2
Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân ở VN
19
3.2.1
Định hướng đảm bảo quyền tự do ý chí và tự do lập hội
19
3.2.2

Định hướng đảm bảo quyền sở hữu của các chủ thể quan hệ PL
19
3.2.3
Định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân- từ bản
chất của các học thuyết pháp nhân
19
3.2.4
Định hướng xây dựng một BLDS là nền tảng cho các luật chuyên ngành
19
3.2.5
Tăng cường tính công khai và minh bạch thông tin.
19
3.2.6
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân
19
3.2.7
Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước

3.2.8
Phát triển hệ thống cung cấp thông tin và phổ biến giáo dục pháp
luật cho các chủ thể quan hệ pháp luật
19
3.3
Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp
luật về pháp nhân ở nước ta hiện nay
20
3.3.1
Đổi mới các quan niệm về pháp nhân
20
3.3.2

Các giải pháp về lập pháp
20
3.3.3
Các giải pháp tổ chức thi hành quy định pháp luật về pháp nhân
21

KẾT LUẬN
22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ vào nền
kinh tế quốc tế. Chúng ta đang từng bước gỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính,
thuế quan…Các doanh nghiệp trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh
với các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trên thế giới, đặc biệt sau khi Việt
Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Hiện nay, khu vực kinh tế
dân doanh là khu vực phát triển nhanh nhất và tạo ra công ăn việc làm mới
nhiều nhất cho nền kinh tế, và sẽ là động lực chủ yếu và bền vững cho tăng
trưởng dài hạn của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Nâng cao
hiệu quả của quản lý nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh
các chủ thể kinh doanh nói riêng và chủ thể các quan hệ pháp luật nói chung
sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát triển nền kinh tế.
Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân
– con người cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân còn có các thực thể

pháp lý khác có tư cách chủ thể là pháp nhân. Pháp nhân là một khái niệm để
chỉ một loại chủ thể quan hệ pháp luật độc lập với các chủ thể khác và thành
viên của pháp nhân, pháp nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời sống xã hội
và hoạt động lập pháp. Ngày nay, các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ
thể chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên
cơ sở nhà nước tôn trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân.
Ở Việt Nam, có thể nhận định rằng trong các quy định pháp luật hiện
hành, chưa thấy một học thuyết xuyên suốt về pháp nhân, các quy định pháp
luật chưa thống nhất, thiếu lôgic, dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn, rời rạc
giữa luật chung và các luật chuyên ngành. Trong khi đó, những người thực thi
pháp luật, các nhà nghiên cứu pháp luật còn nhiều điểm chưa thống nhất về
các đặc trưng cơ bản làm tiêu chí để xác định tư cách pháp nhân của tổ chức,
2

cũng như các quyền và nghĩa vụ khi pháp nhân tham gia các quan hệ pháp
luật dân sự, kinh tế, hình sự. Chế định về đại diện pháp nhân tham gia các
giao dịch vẫn còn chưa rõ ràng. Thực tế cho thấy, việc phân định trách nhiệm
pháp lý của pháp nhân và trách nhiệm của những người đứng đầu pháp nhân
chưa rõ ràng trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Bộ luật dân sự được xây
dựng không dựa trên nền tảng lý luận khoa học pháp lý về pháp nhân một
cách vững chắc, làm cơ sở cho việc xây dựng những luật chuyên ngành trước
những đòi hỏi của thực tiễn xã hội.
Chế định pháp nhân được quy định trong nhiều lĩnh vực pháp luật của
đời sống xã hội của một quốc gia và trong quan hệ quốc tế. Trong các chủ thể
quan hệ pháp luật, pháp nhân là một thực thể pháp lý trìu tượng, được thiết
lập hay tổ chức bởi những người sáng lập theo một cách hợp pháp, hoạt động
bởi mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và dưới hình thức sở hữu tư nhân
hay nhà nước. Quá trình hoàn thiện các quy định về pháp nhân tại mỗi quốc
gia, đòi hỏi những nhà nghiên cứu luật học đưa ra các học thuyết về pháp
nhân nhằm giải thích sự hình thành, phát triển trên thế giới làm tiền đề định

hướng phát triển chế định về pháp nhân trong hệ thống pháp luật.
Tuy vậy, khi soi chiếu những vấn đề tồn tại trong pháp luật Việt Nam
hiện hành, thấy rằng, chế định pháp nhân đang nảy sinh những bất cập, mâu
thuẫn, chồng chéo giữa luật chung và luật chuyên ngành dẫn đến nhiều hệ quả
mà phải kể đến sự xa rời về mặt lý luận và thực tiễn đời sống, gây khó khăn
trong thực thi pháp luật, làm mất đi tính ổn định cần thiết của pháp luật.
Trong khi giới khoa học pháp lý vẫn còn đặt ra các câu hỏi tranh luận trên
mọi diễn đàn về các vấn đề dường như cơ bản của pháp nhân, nhưng lại chưa
được luật thực định làm sáng tỏ. Nói cho cùng, các vấn đề phát sinh chỉ có
một nguyên nhân là pháp luật chưa tiếp cận bản chất của pháp nhân đã được
hình thành trong các hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
3

Hiện nay, các công trình nghiên cứu trong nước chưa có công trình nào
tiếp cận pháp nhân từ ý nghĩa các học thuyết pháp nhân, và mô hình pháp
nhân trong các quy phạm pháp luật. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập
trung vào một hoặc vài vấn đề thực trạng pháp luật quy định về pháp nhân,
mà chưa nhìn nhận toàn diện thực trạng của pháp nhân trong hệ thống pháp
luật để tìm ra nguyên nhân tồn tại, hạn chế và có các định hướng, giải pháp
hoàn thiện cho chế định pháp nhân hiện nay.
Với mục đích tiếp cận pháp nhân trên cơ sở nghiên cứu toàn diện các
mặt về lý luận và thực tiễn quy định của pháp luật ở Việt Nam, tác giả đã lựa
chọn nghiên cứu vấn đề“pháp nhân trong hệ thống các chủ thể quan hệ
pháp luật” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định về pháp nhân đã được hình thành từ khá sớm trong lịch sử, và
dần trở thành nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Bên cạnh chủ thể quan hệ pháp luật là cá nhân, pháp nhân là chủ thể do tạo ra
do đòi hỏi cần đáp ứng các hoạt động của con người khi nền kinh tế xã hội
phát triển. Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ pháp luật,

chủ thể quan hệ pháp luật và pháp nhân làm tiền đề lý luận cho các quy định
pháp luật phù hợp với đời sống thực tiễn hơn.
Tình hình nghiên cứu về quan hệ pháp luật và các chủ thể quan hệ pháp
luật ở nước ta cho thấy hoạt động nghiên cứu quan hệ pháp luật nói chung
chưa có nhiều và chưa mang tính chuyên sâu. Các tài liệu nghiên cứu về đề tài
này còn ít, nội dung mới chỉ xem xét, nghiên cứu ở một vài khía cạnh như:
quyền chủ thể, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, phân loại quan hệ pháp luật hoặc
nghiên cứu quan hệ pháp luật với tư cách là một yếu tố trong cơ chế điều
chỉnh pháp luật. Xét về tính chất, mức độ thì đó mới chỉ là những bài viết
đăng ở các tạp chí; trong giáo trình môn học lý luận chung về nhà nước và
4

pháp luật hoặc là một phần nhỏ liên quan đến đề tài khác. Có thể nêu lên một
số tài liệu như: Chương "Quan hệ pháp luật" trong cuốn chuyên khảo: Những
vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật của GS.TSKH Đào Trí Úc; Bài nghiên cứu
"Quan hệ pháp luật xã hội chủ nghĩa" của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí
Dân chủ pháp luật, số 12-1996, số 2-1997; Bài nghiên cứu "Một số vấn đề về
quan hệ pháp luật" của GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Khoa học - Đại
học Quốc gia Hà Nội, tháng 2-1999; Bài nghiên cứu "Sự kết hợp các lợi ích
xã hội trong việc qui định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể
quan hệ pháp luật" của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 12-2002. Năm 2010, PGS, TS Nguyễn Ngọc Điện viết cuốn sách
tham khảo về “Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự”, do Nhà xuất bản chính trị
2010 đã đưa ra các khía cạnh pháp lý của các chủ thể là cá nhân và các chủ
thể không phải là cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự.
Các công trình nghiên cứu về pháp nhân, ngay từ khi nước ta còn là
thuộc địa của thực dân Pháp, mô hình pháp nhân đã được các thương gia
người Pháp du nhập, và áp dụng trong hoạt động của mình tại các thuộc địa.
Các nhà luật học thời bấy giờ đã nghiên cứu về các học thuyết pháp nhân, tìm
ra các đặc tính của pháp nhân. Tiêu biểu là các tác giả như: Vũ Văn Mẫu

(1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản; Lê Tài Triển
(1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản. Gần đây,
có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cương (2001), Pháp nhân, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích- Nguyễn Đình
Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí Thức 2008; Lê
Việt Anh (2008), Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, TCNCLP số 113,
tháng 1/2008; TS Phạm Hồng Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội
phạm hay không?, tạp chí Luật học số 6 năm 1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ
(2009), vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong
5

sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày
20/03/2009. Các công trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề
cơ bản của pháp nhân, và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh
nghiệp, và những hoàn thiện trong mô hình pháp nhân của công ty hợp danh.
Tuy vậy, chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc, mang tính hệ thống liên quan đến các quy định pháp luật về pháp nhân và
mô hình pháp nhân với tư cách là một chủ thể trong hệ thống các chủ thể
tham gia các quan hệ pháp luật. Cũng chưa có một công trình nghiên cứu nào
đi từ bản chất của pháp nhân trong các học thuyết pháp nhân để soi chiếu vào
những quy định về mô hình pháp nhân trong pháp luật hiện hành, tìm ra
những bất cập, nguyên nhân và định hướng hoàn thiện. Vì thế, tác giả luận
văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất
cập trong các quy định của pháp luật về pháp nhân và định hướng, đưa ra giải
pháp toàn diện để hoàn thiện chế định này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, pháp luật Việt Nam về pháp nhân được quy định tại các
ngành luật khác nhau, bao quát các quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội.
Vì thế, khi nhắc đến pháp nhân với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật người ta
thường nhắc đến đầu tiên trong pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả

pháp luật kinh doanh, thương mại; bên cạnh đó, là những lĩnh vực luật chuyên
ngành điều chỉnh quan hệ pháp luật của chủ thể pháp nhân mang tính đặc thù
hơn. Ngoài ra, pháp nhân trong lĩnh vực công cũng chịu sự điều chỉnh của
Hiến pháp, của lĩnh vực luật hành chính.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý
của mô hình pháp nhân trong lĩnh vực tư hay còn gọi pháp nhân tư pháp, bởi
pháp nhân tư pháp tham gia vào hầu hết các quan hệ xã hội và góp phần quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội hiện đại ngày nay. Trong luận văn, tác giả
6

cũng đề cập đến vấn đề của các pháp nhân công pháp chỉ với mục đích đơn
thuần nhằm làm rõ thêm thực trạng pháp luật của Việt Nam về pháp nhân.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nước ta, dựa
trên những chủ trương, đường lối và chính sách xây dựng kinh tế - xã hội hội
nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện. Luận văn đặt mục đích nghiên cứu
các vấn đề lý luận trên cơ sở các học thuyết về pháp nhân với tư cách là chủ
thể cơ bản của quan hệ pháp luật tôn trọng quyền tự do ý chí và quyền tự do
lập hội của công dân. Nêu toàn diện thực trạng các quy định pháp luật hiện
nay về pháp nhân, và những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp
luật về vấn đề này.
Bởi mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến quan hệ
pháp luật, chủ thể quan hệ pháp luật và các loại hình chủ thể quan hệ pháp luật;
- Nêu và phân tích mô hình học thuyết về pháp nhân đã hình thành
và phát triển trên thế giới.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển pháp
nhân căn cứ vào quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của công dân;
- Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các
nước trên thế giới và quá trình du nhập vào Việt Nam.

- Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về pháp nhân và tư cách
pháp nhân của một tổ chức từ việc phân tích và đối chiếu các văn bản pháp
luật và quá trình thực thi pháp luật.
- Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về pháp nhân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp
7

luận của triết học Mác - Lênin; Lý luận chung về nhà nước - pháp luật; các
quan điểm của Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu sử
dụng: phân tích tài liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý
luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp của luật so sánh. Và
các phương pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học pháp lý: phân tích quy
phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật….
6. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn gồm có:
Một là, về lý luận: luận văn nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về
quan hệ pháp luật, chủ thể quan hệ pháp luật và phân loại các chủ thể quan hệ
pháp luật. Nêu và phân tích các học thuyết về pháp nhân làm tiền đề cho sự ra
đời và phát triển trên thế giới, qua đó, thấy được sự cần thiết của mô hình
pháp nhân trong đời sống pháp luật của mỗi quốc gia. Tác giả cũng đã phân
tích những nền tảng lý luận của việc ra đời và phát triển pháp nhân căn cứ vào
tự do ý chí và tự do lập hội của công dân.
Hai là, về thực tiễn: Thực trạng quy định pháp luật về pháp nhân trong
Bộ luật dân sự, và các luật chuyên ngành về các dấu hiệu của nhận biết pháp
nhân; quá trình thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân. Hơn hết, tác giả
tập trung phân tích tổng hợp hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để nêu

ra thực trạng trong quá trình thực thi pháp luật về pháp nhân hiện nay. Từ đó,
tìm ra các nguyên nhân dẫn của những tồn tại.
Ba là, về định hướng hoàn thiện: tác giả luận văn này nêu lên các cơ sở
hình thành các định hướng và các định hướng, giải pháp mang tính toàn diện
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chủ thể quan hệ pháp luật nói chung
và chủ thể là pháp nhân nói riêng.
8

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về chủ thể quan hệ pháp luật
và pháp nhân
Chương 2. Thực trạng hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật về
pháp nhân ở Việt Nam
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và thi hành
pháp luật về pháp nhân ở Việt Nam
9

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP NHÂN.
1.1 Khái niệm và nội dung quan hệ pháp luật
1.1.1 Khái niệm
Trong đời sống xã hội, con người tham gia vào những quan hệ rất đa
dạng và phong phú: như quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ lao động, quan
hệ tài sản, quan hệ chính trị….các quan hệ ấy phát sinh trong hoạt động lao
động, sản xuất, công tác, học tập, sinh hoạt đời thường. Người ta gọi đó là các
quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội (quy

phạm pháp luật, quy phạm đạo đức, quy phạm tập quán, quy tắc của
các tổ chức xã hội). Trong xã hội có nhà nước, các quan hệ xã hội
quan trọng nhất được quy phạm pháp luật điều chỉnh [48, tr387].
Mọi xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển được trên cơ sở của sự trật tự
và ổn định, được hình thành nên nhờ một hệ thống rất phong phú các phương
tiện điều chỉnh quan hệ xã hội. Trong hệ thống này trước hết phải nói đến các
loại phương tiện điều chỉnh mang tính quy phạm, đó là các loại quy phạm
điều chỉnh quan hệ xã hội. Hành vi và các loại quan hệ xã hội của con người
tự thân phải cần đến sự điều chỉnh bởi những phương tiện (công cụ) nhất
định. Chẳng hạn trong quản lý xã hội, pháp luật là công cụ chủ yếu, giữ vị trí,
vai trò thiết yếu. Ngoài pháp luật ra còn có nhiều công cụ, phương tiện khác.
Dưới sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật, các chủ thể tham gia
quan hệ xã hội sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý, trách nhiệm ràng
buộc các bên trong một quan hệ pháp luật.
10

Như vậy, bằng các quy phạm pháp luật làm cơ sở phát sinh các quan hệ
pháp luật trong hoạt động của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội.
Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội
xuất hiện dưới tác động điều chỉnh của các quy phạm pháp luật và
các sự kiện pháp lý tương ứng, trong đó, các bên tham gia có các
quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, được nhà nước đảm bảo và
bảo vệ [48, tr398-399].
Sự khác nhau giữa quan hệ pháp luật và quan hệ xã hội là ở chỗ “Quan hệ
pháp luật là quan hệ xã hội, là một trong những hình thức đa dạng của quan hệ
xã hội nhưng khác với các quan hệ xã hội khác là quan hệ xã hội này đã được
mang trên mình hình thức pháp lý - quan hệ pháp luật” [48, tr398].
Trong xã hội, mỗi chủ thể (cá nhân hoặc các thực thể pháp lý khác) tồn
tại dựa trên các hành vi tương tác với nhau. Mỗi hành vi tương tác trong xã
hội tạo cho mỗi chủ thể một tư cách khác nhau. Do vậy, mỗi chủ thể có thể

tham gia nhiều quan hệ pháp luật khác nhau, tạo ra những quan hệ chằng chịt
nhau. Nếu các quan hệ trong xã hội muốn ổn định, bình đẳng và phát triển
giữa các chủ thể thì phải có sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật và đó
là phương tiện để quản lý xã hội của nhà nước.
Trong đó, có những quan hệ xã hội không được pháp luật chi phối.
Những quan hệ loại này được xác lập và diễn tiến theo những lề thói được xã
hội chấp nhận.
Ví như, trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, có giao dịch hứa
hôn; trong cuộc sống hàng ngày người ta có thể đi nhờ xe, đi ăn giỗ,
mời nhau một ly cà phê mà chẳng bận tâm đến luật pháp. Con
người tham gia vào các quan hệ ấy cũng được coi là các chủ thể,
song các ứng xử của chủ thể không cần pháp luật điều chỉnh. Pháp
luật chỉ điều chỉnh một quan hệ khi được xác lập giữa các chủ thể là
11

quan hệ có tính pháp lý, nghĩa là được pháp luật đề cập, một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp [50, tr. 8].
“Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý cần thiết cho tất cả những quan
hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Quan hệ pháp luật thể hiện mối liên hệ
đặc biệt giữa các chủ thể, mối liên hệ thông qua các quyền và nghĩa vụ pháp
lý” [49, tr398]. Trong quan hệ pháp luật dân sự, giao dịch dân sự là hành vi
pháp lý có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự
nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân
sự là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan
hệ pháp luật dân sự.
Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, quan hệ pháp luật là một thành tố
quan trọng thể hiện đời sống pháp lý hiện thực trên tất cả các lĩnh vực của đất
nước qua mỗi chặng đường xây dựng và phát triển và là cơ sở thực tế để đánh
giá hiệu quả pháp luật, giá trị xã hội của pháp luật. Trong quá trình áp dụng
pháp luật để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, sẽ trả lời các câu hỏi tại

sao pháp luật ít đi vào cuộc sống, hiệu quả pháp luật không cao, trật tự pháp
luật còn hạn chế và lỏng lẻo.
1.1.2 Nội dung quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ của chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được Hiến
pháp và các văn bản quy phạm pháp luật quy định.
1.1.2.1 Quyền pháp lý
Quyền pháp lý chủ thể là khả năng xử sự của các chủ thể tham gia quan
hệ được quy phạm pháp luật quy định và được bảo vệ bởi sự cưỡng chế của
quyền lực nhà nước. Đặc điểm quyền chủ thể quan hệ pháp luật:
Thứ nhất, khả năng được hoạt động trong khuôn khổ theo quy phạm
pháp luật xác định trước.
12

Thứ hai, khả năng yêu cầu chủ thể cùng tham gia quan hệ pháp luật thực
hiện nghĩa vụ của họ bằng việc thực hiện có thể bằng hành động hoặc không
hành động.
Thứ ba, khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện
pháp cưỡng chế cần thiết đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong
trường hợp quyền chủ thể của mình bị bên kia vi phạm.
Quyền là khả năng của chủ thể có thể được lợi ích nhất định hay
được tiến hành những hành vi nhất định, có quyền yêu cầu chủ thể
khác của quan hệ pháp luật thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải có những hành vi nhất định nhằm
thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay xã hội [49, tr419].
1.1.2.2 Nghĩa vụ pháp lý
Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự bắt
buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành
nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền chủ thể của bên kia. Nghĩa vụ pháp lý của
chủ thể có các đặc điểm như:

Thứ nhất, là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm
pháp luật xác định trước.
Thứ hai, các xử sự này nhằm thực hiện quyền chủ thể của bên kia.
Thứ ba, trong trường hợp cần thiết, nghĩa vụ pháp lý sẽ được thực hiện
bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
Nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật quy định
nghĩa vụ cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ cụ thể bắt buộc phải tuân
theo. Sự xuất hiện nghĩa vụ thụ động, tức bên có nghĩa vụ phải kìm chế mình
không thực hiện những hành vi bị ngăn cấm.
“Quan hệ pháp luật sẽ không tồn tại nếu không có quyền chủ thể và
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia” [49, tr421].
13

Ví dụ: Trong quan hệ hợp đồng, các chủ thể tham gia hợp đồng theo tự
nguyện, bình đẳng trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí. Những thỏa thuận trong
hợp đồng sẽ rằng buộc các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia (nếu như
thỏa thuận đó không trái luật). Nếu các bên không thỏa thuận hoặc thỏa thuận
không đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hợp
đồng, thì các bên có thể dẫn chiếu các quy định của pháp luật về những vấn
đề cụ thể gặp phải. Như vậy, bằng ý chí của mình, các chủ thể quan hệ pháp
luật đã tạo lập cho mình những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở thỏa
thuận và các quy định của pháp luật.
Quan hệ pháp luật có thể xuất hiện, thay đổi, chấm dứt theo những điều
kiện nhất định, cụ thể là: quy phạm pháp luật điều chỉnh, chủ thể tham gia
quan hệ và sự kiện pháp lý phát sinh. Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên
thì không phát sinh quan hệ pháp luật. Nếu chỉ có quy phạm pháp luật thì
chưa đủ, phải có chủ thể có đầy đủ năng lực chủ thể tham gia và đồng thời
phải có những hoàn cảnh, điều kiện của đời sống thực tế đã được các nhà làm
luật ghi nhận trong phần giả định của quy phạm pháp luật, đó là sự phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật khi xảy ra.

1.2 Các vấn đề cơ bản về chủ thể quan hệ pháp luật
1.2.1 Khái niệm chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể quan hệ pháp luật là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở
thành chủ thể của quan hệ pháp luật, có quyền và nghĩa vụ pháp lý phát sinh.
Các chủ thể được quyền tự do lựa chọn theo năng lực và mục đích của mình,
nhưng phải không trái với các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Hay nói khác
đi, các quyền năng của chủ thể pháp luật và khả năng xác lập, thực hiện các
quyền đó chịu sự chi phối của các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra
nhằm đảm bảo trật tự xã hội và bình đẳng giữa các chủ thể với nhau.
14

Muốn trở thành chủ thể quan hệ pháp luật thì trước hết phải là chủ thể pháp
luật. “Chủ thể pháp luật là những các nhân, tổ chức có khả năng trở thành các
bên tham gia vào các quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp
lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật” [48, tr. 394].
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh về các chủ thể quan hệ pháp
luật là tập hợp các quy tắc chi phối cách thức nhận dạng chủ thể trong
đời sống pháp lý, xác định các quyền năng của chủ thể và khả năng
xác lập thực hiện các quyền đó trong cuộc sống dân sự [31, tr. 12].
Mỗi ngành luật trong hệ thống pháp luật của quốc gia được xác định
bởi những tiêu thức như đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, phương
pháp điều chỉnh và chủ thể điều chỉnh. Các chủ thể khi tham gia các quan hệ
xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật thì chủ thể đó có thể chịu sự điều
chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau cho quan hệ pháp luật mà bằng khả
năng của chủ thể đã thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nào đó.
Mỗi chủ thể là chủ thể của quan hệ pháp luật khác nhau, sẽ chịu những chế
tài áp dụng cũng khác nhau.
Ví dụ, doanh nghiệp tư nhân và các chủ thể kinh doanh khác
không phải là những pháp nhân. Nhưng theo nguyên tắc, một chủ thể
pháp luật có thể đồng thời là chủ thể của nhiều quan hệ pháp luật do

nhiều ngành luật khác nhau điều chỉnh. Cũng là người chủ doanh
nghiệp tư nhân đó nhưng tư cách pháp lý của anh ta sẽ khác nhau khi
anh ta mua sắm đồ dùng ở ngoài siêu thị và khi anh ta ký kết hợp
đồng mua nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong doanh nghiệp.
Trong trường hợp thứ nhất, người chủ doanh nghiệp hành động với
tư cách cá nhân, với tư cách là một công dân có đủ năng lực pháp lý
và năng lực hành vi. Còn trong trường hợp thứ hai, anh ta hành động
với tư cách là một doanh nghiệp được thành lập hợp pháp và có giấy
15

phép đăng ký kinh doanh. Rõ ràng trong một con người có hai tư
cách chủ thể của hai ngành luật khác nhau [50, tr.26-27].
Như vậy, một chủ thể của một hành vi nào đó, có thể tham gia nhiều
quan hệ xã hội khác nhau và trở thành chủ thể của nhiều quan hệ pháp luật
khác nhau.
Có thể định nghĩa về chủ thể quan hệ pháp luật: Chủ thể quan hệ pháp
luật bao gồm cá nhân và các thực thể pháp lý khác có đầy đủ năng lực tham
gia vào các quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của pháp luật và phát sinh
các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của các văn bản quy phạm
pháp luật.
Từ định nghĩa, có thể thấy đặc điểm của chủ thể quan hệ pháp luật bao
gồm: Năng lực chủ thể; quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội; quyền
và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
- Chủ thể phải có đầy đủ năng lực tham gia quan hệ pháp luật:
Nếu là cá nhân, phải có đủ hai yếu tố là: năng lực pháp luật của cá nhân
là khả năng có quyền, nghĩa vụ pháp lý khi tham gia các quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh và năng lực hành vi là có khả năng nhận thức được hành
vi của mình và tự chịu trách nhiệm về hành vi đó.
Nếu là thực thể pháp lý khác (các chủ thể không phải cá nhân), phải
được pháp luật công nhận sự tồn tại hay được thành lập theo quy định của

pháp luật và tham gia quan hệ pháp luật trong phạm vi mục đích hoạt động
của thực thể đó.
- Quan hệ xã hội phải được điều chỉnh bằng pháp luật (quan hệ pháp
luật): là một trong những hình thức đa dạng của quan hệ xã hội nhưng khác
với các quan hệ xã hội khác là quan hệ xã hội này đã được mang trên mình
hình thức pháp lý. Có nghĩa là, quan hệ xã hội chỉ trở thành quan hệ pháp luật
khi được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
16

- Khi tham gia quan hệ pháp luật, chủ thể phát sinh các quyền và
nghĩa vụ pháp lý: Quyền pháp lý chủ thể là khả năng xử sự của các chủ thể
tham gia quan hệ được quy phạm pháp luật quy định và được bảo vệ bởi sự
cưỡng chế của quyền lực nhà nước. Còn nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong
quan hệ pháp luật là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác
định trước mà một bên phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền
chủ thể của bên kia.
1.2.2 Đặc trưng của chủ thể quan hệ pháp luật
Muốn trở thành chủ thể quan hệ pháp luật, cá nhân hoặc tổ chức phải có
đầy đủ năng lực chủ thể theo quy định của pháp luật để tham gia các quan hệ
pháp luật. Năng lực chủ thể bao gồm:
Năng lực pháp luật là năng lực (khả năng) do quy phạm pháp luật quy
định của chủ thể có các quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý để trở thành
các chủ thể của quan hệ pháp luật.
Năng lực hành vi là năng lực (khả năng) của chủ thể bằng chính hành vi
của mình, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý, tham gia vào
các quan hệ pháp luật.
Mối liên hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi của chủ thể xuất
hiện trên cơ sở quy định của các quy phạm pháp luật, phụ thuộc vào ý chí của
nhà nước.
Năng lực pháp luật được coi là tiền đề cho năng lực hành vi, là điều kiện

cần ban đầu, còn năng lực hành vi là điều kiện đủ để chủ thể tham gia các
quan hệ pháp luật. Nếu một chủ thể chỉ có năng lực pháp luật mà không có
năng lực hành vi, sẽ không trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật được.
1.2.3 Phân loại chủ thể quan hệ pháp luật
Theo khoa học pháp lý nói chung và truyền thống pháp luật dân sự nói
riêng chia các chủ thể quan hệ pháp luật thành hai loại: thể nhân và pháp nhân
17

Cá nhân
Cá nhân (thể nhân) được hiểu là con người cụ thể, là thành viên của xã
hội loài người. Về mặt vật chất, con người là một thực thể sống, có hình hài
cụ thể và có mối quan hệ mật thiết với các cá thể người khác. Trong xã hội, cá
nhân là chủ thể của các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động, phát triển
của mình. Đó là hoạt động mang tính ý thức của con người trong khuôn khổ
đời sống xã hội.
Cá nhân trên phương diện pháp lý là thực thể có năng lực hưởng quyền
và nghĩa vụ, hay nói đúng hơn là chủ thể quan hệ pháp luật. Cá nhân thực
hiện hoạt động có ý thức của mình trong khuôn khổ của pháp luật quy định,
và phải chịu trách nhiệm nếu vi phạm các quy định đó. Cá nhân xác lập các
quan hệ theo ý chí, hoàn cảnh của mình, từ đó, phát sinh các quyền và nghĩa
vụ theo luật định buộc cá nhân phải tuân thủ.
Cá nhân gồm có công dân, người nước ngoài, người không có quốc tịch.
Cá nhân là chủ thể quan hệ pháp luật khi theo quy định của pháp luật họ có
năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Điều 14 BLDS 2005 về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân:
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá
nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự; 2. Mọi cá nhân đều có năng
lực pháp luật dân sự như nhau; 3. Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết [69].
Cá nhân có khả năng nhận thức được hành vi của mình và tự chịu trách

nhiệm về hành vi đó. Pháp luật nước ta quy định, người đủ 18 tuổi trở lên
không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất hoặc hạn chế năng lực
nhận thức hành vi của mình là đủ năng lực hành vi dân sự.
Cá nhân xác lập các quan hệ theo ý chí trong hoàn cảnh, nhân thân,
điều kiện sống của mình xác lập các quan hệ pháp lý mang tính đặc trưng đối
18

với các cá nhân khác. Cá nhân là chủ thể của nhiều ngành luật khác nhau, về
nguyên tắc, mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật ngang nhau. Tuy nhiên để
trở thành chủ thể của một ngành luật nhất định, cá nhân phải đáp ứng các điều
kiện khác nhau đặc trưng cho từng ngành luật. Không phải mọi cá nhân điều
có năng lực hành vi ngang nhau và có những cá nhân trong tình trạng bị hạn
chế hoặc mất năng lực hành vi, đối tượng này để trở thành chủ thể quan hệ
pháp luật, đòi hỏi phải thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định họ hoặc
người thân của họ phải đáp ứng.
Pháp nhân
Pháp nhân là tổ chức được thừa nhận là chủ thể quan hệ pháp luật. “Sự
xuất hiện của pháp nhân là sự tuân theo xu hướng nhân hóa những đoàn thể cá
nhân hay các tập hợp tài sản này với những người thường và công nhận cho
các thực thể ấy một nhân cách pháp lý gọi là pháp nhân” [52, tr. 367].
Pháp nhân có thể hoạt động vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi
nhuận, và dưới hình thức sở hữu tư nhân hay nhà nước. Khi hình
thành, các của cải do các thành viên đóng góp hợp thành một khối
tài sản tách biệt khỏi khối tài sản của các thành viên, và bằng một
hư cấu pháp lý khối tài sản này tạo nên một pháp nhân [46, tr. 168].
Sự hư cấu của pháp nhân có nhiều lợi thế, đặc biệt đối với quyền lợi
của bên thứ ba trong quan hệ pháp luật. Khi bên thứ ba có tranh chấp với pháp
nhân là một tổ chức sẽ không phải thực hiện việc khởi kiện từng thành viên
của pháp nhân, mà chủ thể bị đơn trong trường hợp này là pháp nhân. Pháp
nhân bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng toàn bộ tài sản có được từ khi thành lập và

trong quá trình hoạt động của pháp nhân.
Hiện nay, có thể nói, trong khoa học pháp lý nói chung và
pháp luật dân sự nói riêng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất
19

về khái niệm hay dấu hiệu của pháp nhân; song ngày càng thấy có
nhiều tiêu chí để xác định pháp nhân đã được sử dụng trước đây,
nay không còn giá trị [50, tr.47].
Ngay các quy định về pháp nhân trong Bộ luật dân sự cũng tỏ ra mơ hồ
về các dấu hiệu của pháp nhân.
Hộ gia đình
Ngoài chủ thể là cá nhân và pháp nhân, bộ luật dân sự Việt Nam liệt kê
các chủ thể pháp luật khác là hộ gia đình và tổ hợp tác- những chủ thể pháp lý
không phải là cá nhân mà cũng không hưởng quy chế của pháp nhân.
Pháp luật Việt Nam định nghĩa hộ gia đình mà các thành viên có tài sản
chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do
pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực
này.
Điều 108 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền
sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên
đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được
thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là
tài sản chung của hộ [69].
Theo điều 107 BLDS quy định:
1. Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân
sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã
thành niên có thể là chủ hộ.
20


2. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập,
thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của
cả hộ gia đình [69].
Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích
chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ
hộ. Tuy nhiên, BLDS 2005 quy định chủ hộ là người đại diện của hộ gia đình
nhưng không quy định ai là chủ hộ, xác định chủ hộ theo luật, phong tục, hay
theo thoả thuận. Khái niệm chủ hộ chỉ tìm thấy trong quyển sổ hộ khẩu.
Trong thực tiễn, những người có tên trong một quyển sổ hộ khẩu không phải
lúc nào cũng đồng nghĩa với một gia đình, hoặc ngược lại.
Khi hộ gia đình tham gia giao dịch dân sự thì cơ quan quản lý nhà nước
cũng như người dân luôn yêu cầu người đại diện phải là chủ hộ trong sổ hộ
khẩu. Thực tế trên đã và đang làm các giao dịch dân sự liên quan đến hộ gia
đình bị hiểu và thực hiện lệch lạc so với quy định pháp luật về hộ gia đình.
Điều 108 BLDS quy định:
Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền
sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên
đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được
thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là
tài sản chung của hộ [69].
Khoản 2, điều 109 BLDS quy định:
Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá
trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên
đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành
viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý [69].
21

Khoản 1, điều 49, Nghị định của Chính phủ số 43/2010/NĐ-CP ngày
15/4/2010 về đăng ký kinh doanh quy định:

Hộ gia đình trong lĩnh vực kinh doanh có thể được gọi là hộ
kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh
doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không
có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối
với hoạt động kinh doanh [69].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam căn cứ vào số lượng lao động
được sử dụng trong hộ kinh doanh chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động. Và nếu Hộ kinh doanh có sử dụng
thường xuyên hơn mười lao động phải chuyển đổi sang hoạt động theo hình
thức doanh nghiệp. Việc buộc hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên hơn
mười lao động phải đăng ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp có lẽ
chưa tính đến đặc trưng của từng ngành nghề kinh doanh.
Điều 111 Bộ luật dân sự 2005:
Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập,
thực hiện nhân danh hộ gia đình. Hộ gia đình chịu trách nhiệm dân
sự bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung không đủ để thực
hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm
liên đới bằng tài sản riêng của mình [69].
Tổ hợp tác
Điều 111 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có

×