Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Trách nhiệm của chính phủ theo quy định của hiến pháp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.69 KB, 106 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ THU HÀ






TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ
THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM



CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG










HÀ NỘI - NĂM 2006


1
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 4
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 6
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 6
3. Cơ sở khoa học của đề tài. 6
4. Phương pháp nghiên cứu. 7
5. Tình hình nghiên cứu. 7
6. Điểm mới của đề tài. 8
7. Cơ cấu của luận văn. 8
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm các chương sau:
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA CHÍNH PHỦ
1.1. Nhận thức chung về bản chất trách nhiệm của Chính phủ. 10

1.1.1 Trách nhiệm đề ra các chủ trương, chính sách. 11
1.1.2 Trách nhiệm phải từ chức. 16
1.2. Sự uỷ thác quyền lực nhà nước của nhân dân - cơ sở pháp lý của
việc Chính phủ phải chịu trách nhiệm. 17
1.2.1. Dân chủ là nhà nước phải chịu trách nhiệm. 17
1.2.2. Sự phân quyền và trách nhiệm chính thuộc về Chính phủ. 23
1.3. Một số hình thức quy trách nhiệm quy trách nhiệm của Chính phủ 28
1.3.1 Bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ. 28
1.3.2 Bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. 29
1.4. Các mô hình chịu trách nhiệm của Chính phủ 30
1.4.1. Chính phủ trong chính thể đại nghị. 30


2
1.4.2. Chính phủ trong chính thể cộng hòa tổng thống. 34
1.4.3. Chính phủ trong chính thể lưỡng tính. 37
1.4.4. Chính phủ ở các nước Xã hội chủ nghĩa. 40
Chương 2
TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ THEO QUY ĐỊNH
CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM
2.1. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1946. 41
2.1.1. Trách nhiệm Chủ tịch nước 42
2.1.2. Trách nhiệm của Nội các. 45
2.2. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1959. 47
2.2.1. Trách nhiệm của Hội đồng Chính phủ. 49
2.2.2. Trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ 49
2.2.3. Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. 50
2.3. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1980. 51
2.3.1. Trách nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng. 52
2.3.2. Trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. 54

2.3.3. Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan thuộc Hội đồng
Bộ trưởng. 55
2.4. Trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến Pháp năm 1992 và Hiến
Pháp sửa đổi, bổ sung năm 2001. 56
2.4.1. Trách nhiệm của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. 60
2.4.2. Trách nhiệm của Phó thủ Tướng và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ 62
2.4.3. Trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ. 63
2.5. Liên hệ thực tế và một số kết luận. 64


3
Chương 3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM
CỦA CHÍNH PHỦ
3.1. Cần xây dựng một chính quyền hành pháp đủ mạnh để điều hành
đất nước. 80
3.2. Cần làm rõ cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ. Trách nhiệm
của người đứng đầu Chính phủ, trách nhiệm cá nhân và của tập thể Chính
phủ? 82
3.3. Cần sửa đổi quy trình bỏ phiếu tín nhiệm và quy định rõ hậu quả
của việc bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên Chính phủ trong Hiến Pháp. 84
3.4 Gắn hành pháp với Đảng cầm quyền 90
3.5. Tăng cường tính công khai và minh bạch hoá trong Chính Phủ. 91
3.6. Cần tăng cường cơ chế giám sát minh bạch; một chế tài đủ mạnh để
xứ lý nghiêm minh. 93
3.7. Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng. 95
3.8. Thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam. 97
3.9. Cần nâng cao hơn nữa chất lượng chất vấn tại các kỳ họp nhằm
nâng cao trách nhiệm chính trị trong quản lý điều hành, nâng cao đạo đức của

Bộ trưởng giữ trọng trách trong bộ máy nhà nước; Coi trọng hơn nữa văn hoá
ứng xử của nhà lãnh đạo đối với người dân. 98
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101


4
MỞ ĐẦU

Chính phủ là cơ quan nhà nước cấp cao quan trọng trong bộ máy nhà
nước ta, được lập ra để thực hiện trên thực tế quyền lực nhà nước, tiến
hành hoạt động quản lý, điều hành và đứng đầu hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước.
Trong lịch sử lập hiến của nước ta, Chính phủ luôn đứng ơ vị trí
trung tâm của các cuộc cải cách bộ máy nhà nước. Có thể nói, Hiến pháp
năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một
trang mới trong lịch sử phát triển của Chính phủ. Bên cạnh sự kế thừa các
quy định của Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2001) đã nâng vị thế của Chính phủ lên một tầm cao mới. Sự
thay đổi vị thế của Chính phủ không đơn thuần là việc thay đổi mà quan
trọng hơn là vị trí, tính chất của Chính phủ đã được xác định lại cho phù
hợp với tầm quan trọng của Chính phủ trong cơ cấu quyền lực nhà nước.
Cho dù nhà nước có tổ chức theo hình thức chính thể nào thì hành
pháp – Chính phủ vẫn phải là trung tâm của bộ máy nhà nước, và chính
Chính phủ mà không phải là một chủ thể nào khác phải chịu trách nhiệm
chính về sự phát triển hay tàn lụi của một quốc gia. Một Chính phủ hoạt
động tốt sẽ được sự tín nhiệm của lập pháp và sự ủng hộ của nhân dân,
nhưng nếu ngược lại Chính phủ đó hoạt động thiếu trách nhiệm hoặc phạm
sai lầm gây tổn hại đến lợi ích của người dân thì sao? Trong trường hợp đó
Chính phủ có phải chịu trách nhiệm gì về hành vi của mình không và bản

chất trách nhiệm của Chính phủ là gì?
Cho đến nay trong khoa học luật Hiến pháp ở nước ta mặc dù có quy
định về vấn trách nhiệm của Chính phủ nhưng vẫn còn là một khoảng
trống, về cơ bản chưa được nghiên cưú đầy đủ về vấn đề này. Cụ thể là


5
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước ai, như thế nào,
theo cơ chế nào cũng như trình tự, thủ tục xử lý vi phạm đó vẫn chưa được
quy định rõ. Bên cạnh đó trách nhiệm của Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng,
Thủ tướng cơ quan ngang Bộ, Thủ tướng các cơ quan thuộc Chính phủ
hiện nay vẫn chưa được cụ thể hóa, có nhiều điểm không phù hợp dẫn đến
những bất cập trong cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ.
Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của
dân do dân và vì dân hiện nay, với đòi hỏi nghiêm khắc về nâng cao trách
nhiệm của nhà nước, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân, cơ quan tổ chức
nào vi phạm Hiến pháp đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình thì
việc nghiên cứu để nhận thức đúng cũng như để hoàn thiện cơ chế trách
nhiệm của Chính phủ theo Luật Hiến pháp nước ta là rất cần thiết, nhằm
tạo ra một Chính phủ mạnh mẽ, cơ cấu hợp lý và một cơ chế chịu trách
nhiệm rõ ràng. Như vậy, trong một xã hội dân chủ thực sự nơi phổ biến của
chế độ pháp quyền thì tinh thần trách nhiệm, sự cạnh tranh lành mạnh,
minh bạch cũng là một nguyên tắc căn bản chỉ đạo việc quản lý công vụ.
Chính phủ mạnh là yêu cầu tất yếu đối với mọi Chính phủ đứng đầu
hệ thống hành chính của mọi nhà nước hiện nay. Đối với xã hội hiện đại,
trong điều kiện đời sống quốc tế ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, không thể có một quốc gia phát triển nếu không có một Chính phủ
mạnh mẽ, đáp ứng các yêu cầu trong nước và đối ngoại.
Đây không phải là đề hoàn toàn mới, đã có nhiều nhà khoa học xã
hội tiếp cận chế định Chính phủ ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, xét

một cách tổng thể thì đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách sâu sắc và
có hệ thống về trách nhiệm của Chính phủ dưới góc độ khoa học luật Hiến
pháp.


6
Vì những lý do nêu trên tôi quyết định chọn đề tài “Trách nhiệm của
Chính phủ theo quy định của Hiến pháp Việt Nam” làm đề tài luận văn
cao học của tôi.
1. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra những điểm bất cập trong cơ
chế chịu trách nhiệm của Chính phủ theo Hiến pháp Việt Nam và đề suất
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan này.
Để đạt được mục đích đặt ra, đề tài có những nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề bản chất trách nhiệm
của Chính phủ.
- Đánh giá thực trạng cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ trong
lịch sử lập hiến Việt Nam và nêu ra những điểm còn bất cập, tồn tại.
- Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện qui định
của pháp luật về cơ chế chịu chịu trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu chế độ chịu trách nhiệm của Chính phủ theo
qui định của Hiến pháp. Đây là đề tài tương đối phức tạp, do khả năng
còn hạn chế nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu trách nhiệm của Chính phủ
Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992 và đưa
ra một số khuyến nghị.
3. Cơ sở khoa học của đề tài.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng về tầm quan trọng của Chính phủ nhằm “xây dựng



7
một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước
hiện đại hoá…”, một Chính phủ biết làm việc và có gan góc
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
sau:
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp chuyên gia;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp so sánh đối chiếu;
5. Tình hình nghiên cứu.
Chính phủ là một chế định quan trọng trong hệ thống các cơ quan
Nhà nước ta được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và được đề cập
đến trong nhiều bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành luật. Ngoài một
số giáo trình có liên quan như: “ Hình thức các nhà nước đương đại”, “sự
hạn chế quyền lực Nhà nước” của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung… còn có
rất nhiều bài viết tiếp cận ở các góc độ khác nhau về Chính phủ , như bài “
về vị trí, tính chất của Chính phủ trong bộ máy Nhà nước ở nước ta” của
TS.Vũ Hồng Anh ; “ Nâng cao chất lượng xây dựng các dự án Luật, Pháp
lệnh do Chính phủ soạn thảo” và “Tiếp tục cải thiện phương thức hoạt
động của Chính phủ” của TS. Phạm Tuấn Khải; “Cơ chế vận hành bộ máy
hành chính nước – kinh nghiệm của một số nước” của TS. Văn Tất Thu;
“Yêu cầu cải cách khu vực công và vai trò của một Chính phủ tốt” của Th.s
Trần Thị Thanh Thuỷ; “ Các mô hình Chính phủ” của PGS.TS. Nguyễn
Đăng Dung; “ Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ” của TS.



8
Bùi Xuân Đức Liên quan đến trách nhiệm của Chính phủ thì chỉ có một
số ít bài viết như: “Hoàn thiện cơ chế trách nhiệm của Chính phủ và các
thành viên Chính phủ” của TS. Bùi Xuân Đức; “Trách nhiệm Hiến pháp”
của Th.s Bùi Ngọc Sơn
Qua đó, chúng ta thấy các nghiên cứu trên thường chỉ tiếp cận ở góc
độ chế định Chính phủ nói chung, mang tính chất rải rác và chủ yếu là
thông tin lý luận chứ chưa giải quyết một các triệt để và chuyên sâu, có
tính hệ thống về chế độ chịu trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của
Hiến pháp Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.
Chính vì vậy, cần có sự nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống về “trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của Hiến pháp Việt
Nam” để tìm ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu qủa hoạt động
của Chính phủ, đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của công cuộc
xây dựng Nhà nước pháp quyền.
6. Điểm mới của đề tài:
Làm rõ bản chất trách nhiệm của Chính phủ là gì.
Nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống trên cơ sở lý luận và
thực tiễn về chế độ trách nhiệm của Chính phủ theo qui định của Hiến
pháp Việt Nam, đặc biệt là thì vấn đề trách nhiệm của Chính phủ theo qui
định của Hiến pháp hiện hành và Hiến pháp năm 1946 có điểm gì giống và
khác với nhau khi mà nền lập hiến Việt Nam lại có xu hướng khôi phục lại
một số giá trị của Hiến pháp năm 1946.
Nêu ra một số khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế trách
nhiệm của Chính phủ và các thành viên của Chính phủ.
7. Cơ cấu của luận văn.


9

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm các chương sau:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH
NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ.
Chương 2. TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ THEO QUY ĐỊNH
CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM.
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM
CỦA CHÍNH PHỦ.





10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM
CỦA CHÍNH PHỦ.
1.1. Nhận thức chung về bản chất trách nhiệm của Chính phủ.
Chính phủ theo cách hiểu chung nhất hiện nay là một trong ba bộ
phận cấu thành nên bộ máy quyền lực nhà nước, có chức năng thực thi
quyền hành pháp và là cơ quan cao nhất trong hệ thống hành chính nhà
nước.
Chế định trách nhiệm của Chính phủ (và các thiết chế quyền lực nhà
nước nói chung) bắt nguồn từ nguyên lý ủy quyền. Chính phủ và hệ thống
hành pháp – hành chính thực hiện sự ủy quyền của lập pháp. Hoạt động
này không được vượt ra ngoài phạm vi ủy quyền và phải được sự tán thành
của cơ quan lập pháp. Và khi không đáp ứng các đòi hỏi đó (hoạt động
thiếu trách nhiệm hoặc gây tổn hại đến lợi ích của người dân) thì cơ chế
xác định trách nhiệm của Chính phủ sẽ được áp dụng.
Trách nhiệm của Chính phủ là trách nhiệm của từng thành viên của

Chính phủ, đây là một loại trách nhiệm đặc biệt của những người cầm
quyền chính trị. Nó khác với trách nhiệm hình sự và dân sự của công dân.
Các Bộ trưởng kể cả Thủ tướng - người đứng đầu hàng ngũ các Bộ trưởng,
khi phạm lỗi mặc dù lỗi đó không dẫn đến hậu quả phải chịu trách nhiệm
hình sự hay dân sự nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián
tiếp trước nhân dân. Người ta thường nói trách nhiệm này là trách nhiệm
chính trị của Chính phủ. Về bản chất trách nhiệm của Chính phủ chính là
trách nhiệm đề ra các chính sách và trách nhiệm từ chức



11
1.1.1. Trách nhiệm đề ra các chủ trương, chính sách.
* Quan niệm chung về chính sách và chính sách công ở Việt Nam.
Chính sách là một vấn đề nhạy cảm, bị chi phối bởi các quan niệm
chính trị và phương pháp tiếp cận khác nhau.
Cách tiếp cận thứ nhất: Nghiên cứu chính sách là nghiên cứu hệ
thống các mục tiêu mà Chính phủ mong muốn đạt được và những hoạt
động thông qua các quyết định của Chính phủ để đạt được mục tiêu đó
trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Theo cách tiếp cận này: Về hình thức,
chính sách có thể dưới dạng một bản báo cáo, tường trình; Về nội dung:
Chính sách thể hiện quyết định làm một hay nhiều việc; Về cơ quan ban
hành: Là cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền; Chính sách được hoạch định
trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định; Toàn bộ chính sách luôn
hướng tới việc thực hiện những mục tiêu cụ thể.
Cách tiếp cận khác. Theo các nhà hoạch định chính sách thì chính
sách chính là hệ thống các mục tiêu cần hướng tới và đạt được; Theo các
nhà quản lý thì chính sách trước hêt là sự định hướng hành động…
Chính sách công là thuật ngữ khá mới mẻ ỏ Việt Nam. Khái niệm
này cũng có nhiêu cách tiếp cận khác nhau. Dưới đây xin nêu ra một số

quan niệm phổ biến về chính sách công.
Chính sách công là sản phẩm của thế giới chính trị trong môi trường
cụ thể nhằm đi đến những mục tiêu cụ thể trong tương lai;
Chính sách công là sự bày tỏ quan điểm của Chính phủ làm hay
không làm những việc cụ thể và cách thức hoàn thành công việc đó;


12
Chính sách công là định hướng của Chính phủ cho nhà quản lý các
cấp (bộ, ngành, địa phương) đưa ra các quyết định quản lý trong những
điều kiện cụ thể;
Chính sách công là chương trình hành động có mục tiêu của Chính
phủ.
Tóm lại, chính sách công luôn gắn liền với liền với hoạt động của
Chính phủ, của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nó thể hiện những
việc Chính phủ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ làm hoặc không làm
trong tương lai nhằm đạt được mục tiêu nhất định
Ở Việt Nam, trên thực tế và trong các văn kiện thuật ngữ “chính sách
công” không phải lúc nào cũng được sử dụng thống nhất. Người ta thường
dùng các hình thức diễn đạt khác nhau để gọi như: đường lối, chủ trương,
giải pháp, biện pháp, phương hướng nhiệm vụ… Có nhiều cách nhận thức
khác nhau về vấn đề này nhưng nhìn chung đều thống nhất như sau:
“Chính sách công là sách lược, kế hoạch cụ thể của Đảng và nhà
nước dựa trên cơ sở đường lối chính trị chung và tình hình kinh tế -
xã hội cụ thể mà đề ra nhằm mục đích nhất định. Chính sách là các
quyết định của Đảng và nhà nước về những việc cần phải thực hiện
hoặc không thực hiện” [11].
Hiện nay, nước ta có nhiều cách phân loại chính sách. Nếu căn cứ
vào chủ thể ban hành có chính sách của Đảng, chính sách của nhà nước,
chính sách của tổ chức chính trị; Căn cứ vào quy mô tác động của chính

sách gồm có chính sách quốc gia; chính sách ngành hoặc liên ngành, chính
sách của địa phương; Căn cứ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội có thể
phân thành chính sách an ninh - quốc phòng, chính sách đối ngoại…


13
* Hoạch định chính sách công ở Việt Nam.
Về sáng kiến chính sách. Hoạch định chính sách là chức năng quan
trong nhất của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên xuất phát từ
bản chất nhà nước của dân do dân và vì dân, Đảng và nhà nước Việt Nam
luôn cố gắng thực hiện dân chủ rộng rãi, phát huy sáng kiến của mọi tầng
lớp nhân dân tham gia vào hoạch định chính sách, coi đây là hình thức
tham gia quản lý của nhân dân. Trên thực tế, chính sách công ở Việt Nam
có thể được hình thành từ những nguồn sáng kiến sau: Từ các tổ chức, cá
nhân trong nước có liên quan kiến nghị các cơ quan nhà nước xem xét, ban
hành; Từ các diễn đàn, hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước về các vấn
đề có liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội; Từ bản than các
chính sách đã có, cần sửa đổi, bổ sung…
Về hình thức đưa ra sáng kiến chính sách. Đảng và nhà nước ta luôn
chú trọng tạo mọi điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân trong khuôn khổ
pháp luật đưa ra các sáng kiến chính sách bằng các hình thức sau: Sự tham
gia trực tiếp của, chính thức của công dân trong quá trình hoạch định chính
sách thông qua tiếng nói của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân; Thông qua các phương tiên thông tin đại chúng; Thông qua các diễn
đàn, hội nghị, hội thảo; Thông qua điều tra dư luận xã hội….
* Trách nhiệm của Chính phủ là đề ra chính sách.
Chính trị là những công việc nhà nước ở tầm quốc gia do các chính trị
gia đảm nhiệm, người ta thường gọi là chính khách. Chính khách do nhân
dân bầu ra, đó là các nghị sỹ (đại biểu Quốc hội); các Bộ trưởng do Quốc
hội bổ nhiệm, không phải là công chức nhà nước, hoạt động theo nhiệm kỳ

nhất định. Chính khách luôn gắn với đảng phái chính trị.


14
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chính khách là phải có trách
nhiệm hoạch định ra chính sách quốc gia. Chính sách này thường gắn liền
nhiệm kỳ hoạt động của chính khách qua mỗi một lần bầu cử. Chính sách
được thực hiện trong một thời gian nhất định. Chính sách tựu chung lại là
sách lược của Đảng cầm quyền, được đưa ra sau mỗi lần bầu cử, trong qúa
trình bầu cử. Các đảng tranh cử đưa ra chính sách của mình để vận động
tranh cử, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các lá phiếu.
Chính sách của Đảng nào phù hợp với lòng dân, được dân tín nhiệm sẽ trở
thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền đứng ra thành lập Chính phủ để
thực hiện chính sách của mình. Các chính sách, chiến lược phù hợp với
điều kiện từng nước sẽ giúp đất nước đó phát triển.
Măc dù chính sách có thể được quyết định thông qua bằng cơ quan lập
pháp nhưng việc vạch ra chính sách là trách nhiệm của hành pháp chứ
không phải lập pháp. Các chính sách này được các Đảng đưa ra từ khi
tranh cử vào các ghế của Quốc hội (mô hình chính thể Đại nghị) và bầu cử
Tổng thống (mô hình chính thể cộng hòa Tổng thống). Trách nhiệm này
hiện nay được Hiến pháp quy định cho Chính phủ là chính (Điều 20 Hiến
pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 và Điều 72 Hiến pháp của Nhật Bản…)
Đối với Việt Nam, ở mỗi giai đoạn phát triển Đảng ta đều có những
chiến lược phát triển nhất định. Các chính sách phục vụ cho nhiệm vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đòi hỏi phải xuất phát từ hành pháp và
do hành pháp đề nghị. Có những chính sách ở tầm vĩ mô (trung ương) và vi
mô (chính sách của từng Bộ, ban ngành của Chính phủ cũng như các cơ
quan khác mang tầm cỡ quốc gia) nhất là vai trò vủa các chính khách từ Bộ
trưởng cho đến các đại biểu Quốc hội.



15
Đứng trên phương diện toàn thể quốc gia thì vai trò của Thủ tướng –
người đứng đầu Chính phủ là rất lớn, đứng trên phương diện của một
ngành, một lĩnh vực thì vai trò của từng Bộ trưởng cũng rất quan trọng.
Xét cho cùng thì Thủ tướng mặc dù là người đứng đầu Hành pháp nhưng
vẫn phải đảm trách trực tiếp một ngành, một lĩnh vực của Chính phủ. Thủ
tướng phải có trách nhiệm điều hoà lợi ích của các ngành, các lĩnh vưc
dưới lợi ích tổng thể của một quốc gia. Chính sách thì do chính khách, Bộ
trưởng những nhà hoạt động chính trị đẻ ra. Những chính khách thường là
những người đứng đầu các cơ quan, các tổ chức, có một nhiệm kỳ nhất
định, phải có trách nhiệm đẻ ra chính sách mới khác hẳn với những người
đảm nhiệm trước hay chí ít cũng là chỉnh sửa lại những gì còn thiếu xót của
những người đi trước. Xét cho cùng chính sách của của quốc gia cũng là
chính sách của các bộ tổng hợp lại (bộ là chủ thể đầu tiên có trách nhiệm
phải dự thảo dự án luật). Hay nói một cách khác, mọi chính sách, pháp luật
của quốc gia nào đều có thể quy về một ngành hoặc một lĩnh vực của một
bộ hoặc một ủy ban ngang bộ nào đó.
Chính khách, Bộ trưởng phải có trách nhiệm nghĩ ra cho được các
chính sách, sau đó tổ chức thực thi chính sách đó theo đúng quy định của
pháp luật. về nguyên tắc, trách nhiệm của chức danh nào thì phải làm tốt,
nhưng quan trọng nhất vẫn là người đề ra chính khách, Bộ trưởng phải biết
tạo ra các chính sách nếu không sẽ không thể làm chính khách, Bộ trưởng
được. Sự tín nhiệm của Quốc hội đối với chính sách cũng chính là sự tín
nhiệm đối với chính Bộ trưởng. Những người đảm nhiệm những chức vụ
mà quyết định của họ có ảnh hưởng đến toàn bộ quốc gia thì được gọi là
chính khách và hoạt động của họ là hoạt động chính trị. Đó là đại biểu
Quốc hội - Nghị sĩ do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Ngoài ra
còn có nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Bộ trưởng.



16
Chủ thể chủ yếu trong việc đẻ ra các chính sách chính là Hành pháp và
Bộ trưởng. Một số chính sách quan trọng buộc phải thông qua Quốc hội,
tùy theo quy định từng nước. Nhưng cũng có những chính sách không cần
thiết phải thông qua lập pháp. Ưu thế của hành pháp là làm cho các văn bản
pháp luật được lập pháp ban hành đi vào cuộc sống thông qua các chính
sách, và cũng từ thực tế sôi động mà chính sách mới lại được hình thành
tiếp theo. Trong cùng một thời điểm, Nhà nước có thể có nhiều chính sách,
chính sách quan trọng được ưu tiên thực hiện trước.
Các Bộ trưởng bao gồm những thành viên xuất sắc của Đảng cầm
quyền phải có những quyết sách táo bạo, dũng cảm làm cho ngành, lĩnh
vực của mình bứt phá lên, đồng thời phải dám chịu trách nhiệm về tình
trạng của ngành hoặc lĩnh vực đó. Trường hợp có sai phạm xảy phải dám
chịu trách nhiệm.
1.1.2 Trách nhiệm phải từ chức.
Các chính khách – Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm về việc thực thi
các quyết định chính sách của các công chức. Khi công chức phạm sai lầm,
mắc tội phạm, ảnh hưởng đến uy tín của Bộ thì Bộ trưởng phải từ chức,
không hứng chịu kỷ luật thay cho công chức.
Tính dám chịu trách nhiệm thể hiện ở chỗ dám gánh chịu mọi hậu
quả trước mọi thất bại có thể xảy ra như dám từ chức, dám bồi thường thiệt
hại, dám công khai xin lỗi trước công chúng.
Trong một nhà nước dân chủ thực sự, nơi phổ biến của chế độ pháp
quyền, tinh thần trách nhiệm, cạnh tranh lành mạnh, minh bạch là nguyên
tắc căn bản chỉ đạo việc quản lý. Nói Chính phủ phải chịu trách nhiệm
trước Quốc hội không chỉ đơn giản ở chỗ các Bộ trưởng, cùng Thủ tướng


17

Chính phủ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình mà theo lý thuyết
dân chủ đại nghị, họ còn phải chịu trách nhiệm về cả hậu quả của công
chức dưới quyền.
Như vậy, nếu một Chính phủ hoạt động tốt thì sẽ không có điều tiếng
gì, nhưng nếu Chính phủ đó hoạt động thiếu trách nhiệm hoặc phạm sai
lầm gây tổn hại đến lợi ích của người dân thì có chế các định trách nhiệm
của Chính phủ sẽ được áp dụng. Quốc hội sẽ bỏ phiếu bất tín nhiệm hoặc
bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ. Và trách nhiệm chính trị sẽ được xem xét.
Sở dĩ nói đến trách nhiệm chính trị vì cơ sở quy trách nhiệm là sự
đánh giá đường lối, chủ trương, chính sách hoạt động của Chính phủ và các
thành viên (có những trường hợp đó là sự đánh giá về mặt đạo đức đối với
họ) chứ không phải cơ sở pháp lý, mặc dù quy trình quy trách nhiệm của
Chính phủ trước Quốc hội được tiến hành bằng những hình thức pháp lý.
1.2. Sự uỷ thác quyền lực nhà nước của nhân dân - cơ sỏ pháp lý của
việc Chính phủ phải chịu trách nhiệm.
1.2.1. Dân chủ là nhà nước phải chịu trách nhiệm.
Trong nhà nước dân chủ, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước chính
là nhân dân.“Quyền lực của nhân dân đó là bản chất của nhà nước dân
chủ nói chung và của nhà nước Việt Nam nói riêng” [ 18,tr. 320]
Khái niệm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong Luật Hiến
pháp còn được sử dụng đồng nghĩa với khái niệm quyền lực nhân dân và
khái niệm dân chủ. Trong các nhà nước quân chủ chuyên chế không thể có
khái niệm quyền lực nhân dân. Trong chế độ phong kiến Việt Nam, chủ
quyền quốc gia được coi như là một thứ tài sản được nhà vua chiếm hữu,
sử dụng đinh đoạt và được để lại cho con cháu nhà vua theo nguyên tắc


18
thừa kế. Khi cách mạng dân chủ tư sản ra đời, giai cấp tư sản đã thay thế
chính thể quân chủ bằng chính thể cộng hòa; và để chống lại chính thể

quân chủ chuyên chế, chế độ phong kiến cổ hủ, bằng các Hiến pháp của
minh giai cấp tư sản đã ghi nhận quyền lực của nhân dân, chủ quyền của
nhân dân. Việc quy định quyền lực nhân dân của nhà nước đánh dấu một
giai đoạn phát triển mới của tư tưởng dân chủ của nhân loại.
Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay,
quyền lực thuộc về nhân dân bao giờ cũng là nguyên tắc quan trọng nhất,
xuyên suốt và luôn luôn chi phối mọi hoạt động trong việc xây dựng chế độ
chính trị của nhà nước Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp hiện hành tuyên bố
“Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức”. Điều đó có nghĩa là quyền
lực nhà nước không thuộc về một đẳng cấp, một tổ chức xã hội hay một
nhóm người nào. Nhân dân là người chủ duy nhất toàn bộ tài sản vật chất
và tinh thần của nhà nước. Nhân dân có toàn quyền quản lý tất cả các công
việc của nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả các công việc có liên quan
đến vận mệnh quốc gia, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng
của toàn thể dân tộc. Nhân dân có quyền tự do thể hiện ý chí của mình và
thông qua các đại biểu của mình biến ý chí đó thành ý chí nhà nước, thành
quy phạm pháp luật buộc mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện. Vấn
đề quyền lực nhà nước thuộc về ai là tiêu chí cơ bản để phân biệt nhà nước
pháp quyền với với nhà nước cực quyền, phát xít. Trong nhà nước pháp
quyền, quyền lực thuộc về nhân dân trở thành vấn đề mang tính pháp lý.


19
Hình thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân ở nước ta là hình
thức dân chủ đại diện. Đây là hình thức nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước thông qua các cơ quan đại diện của mình, đó là Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do

nhân dân trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất thay mặt nhân dân cả nước giải quyết những công việc quan trọng
nhất của nước nhà. Đó là việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm
luật và sửa đổi luật, thực hiện quyền gián sát tối cao việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật, quyết định ngân sách nhà nước …Như vậy, thông qua
Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình, nhân dân làm
chủ đất nước. Ở các địa phương nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan quyền
lực nhà nước địa phương, đó là Hội đồng nhân dân các cấp.
Ngoài hình thức dân chủ đại diện nhân dân lao động còn thực hiện
quyền lực của mình dưới hình thức dân chủ trực tiếp. Đó là việc nhân dân
trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia
thảo luận Hiến pháp và pháp luật, trực tiếp thể hiện ý chí của mình, khi có
trưng cầu dân ý. Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu của mình vào các
cơ quan quyền lực nhà nước trung ương và địa phương và có quyền bãi
miễn các đại biêủ đó khi họ không còn xứng đáng với lòng tin của nhân
dân.
Trong nhà nước dân chủ - nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, mọi
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa có cơ chế bảo đảm cho quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, chứ
không phải chỉ là sự ghi nhận về mặt hình thức. Hiến pháp Xã hội chủ
nghĩa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan và nhân viên nhà nước là


20
phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phát huy dân chủ Xã hội chủ
nghĩa, cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
Khái niệm "phục vụ nhân dân", "vì dân" theo Hồ Chí Minh, có nghĩa
là công việc Chính phủ, nhân viên nhà nước đảm trách là mang lại lợi ích
cho nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Nhân dân khi giao việc ủy quyền
bao giờ cũng trao cả quyền của chính mình cho người được ủy thác. Nhà

nước ta là một nhà nước dân chủ, bào nhiêu lợi ích cũng là vì dân, bao
nhiêu quyền hạn cũng là vi dân, chính quyền tữ xã đến trung ương đều do
dân cử ra. Vì vậy, Người yêu cầu chính quyền phải ra sức phụng sự nhân
dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, phục vụ quyền lợi của nhân dân. Các
chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm no đến đời sống của
nhân dân. Nếu dân đói, dân dốt, dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi…
Nếu dân đói, rét, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thể
thực hiện được.(Hồ Chí Minh:S đd,t.7,tr572.). Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ bao hàm một nội dung quan
trọng nữa, đó là nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước.
Hiến pháp của các nước tư sản đều xác lập nguyên tắc chủ quyền tối
cao của nhà nước thuộc về nhân dân và tất cả quyền lực nhà nước xuất phát
từ nhân dân (Điều 3 Hiến pháp 1958 của Cộng hòa Pháp, Điều 3 Hiến pháp
năm 1993 của cộng hòa Liên bang Nga, Điều 1 Hiến pháp 1975 của Thụy
Điển, Điều 1 Hiến pháp 1987 của Hàn Quốc ). Chủ quyền tối cao của nhà
nước thuộc về nhân dân thể hiện tất cả công việc quan trọng nhất của đất
nước do nhân dân định đoạt. Đây là công việc lien quan đến vận mệnh
quốc gia, lợi ích dân tộc. Nhân dân có thể thực hiện chủ quyền tối cao của
mình bằng các phương pháp dân chủ trực tiếp (như trưng cầu dân ý, bầu cử
phổ thông đầu phiếu) hoặc các biện pháp dân chủ gián tiếp (thông qua


21
Nghị viện và các cơ quan dân cử ở địa phương). Thực tiễn ở các nước tư
sản cho thấy trưng cầu dân ý như là một biện pháp đảm bảo tính đúng đắn
của các quyết sách của Nghị viện cũng như của Chính phủ. Hiện nay, ở
một số nước tư bản phát triển như Pháp, Anh, Thụy Điển, Hà Lan đã hình
thành một quan niệm phổ biến về các vấn đề nói trên. Chúng ta thấy hầu
hết các nước Châu Âu đều tổ chức trưng cầu dân ý khi quyết định vấn đề
có tham gia Liên minh châu Âu hay không, có bỏ đồng tiền riêng của mình

để dùng đồng tiền chung (Euro) hay không? Hiến pháp năm 1985 của Pháp
sau khi được hai viện của Nghị viện thông qua còn được trưng cầu dân ý để
dân quyết định có ban hành Hiến pháp đó hay không. Một số nhà nước tư
sản đã vi phạm nguyên tắc này nên gây ra những sai lầm đáng tiếc. Chính
phủ Hoa kỳ đã thực hiện nhiều chính sách phiêu lưu quân sự, bất chấp dư
luận của nhân dân Mỹ nên đã sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam và các cuộc chiến tranh ở Trung Đông.
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền cơ bản của công dân thì một chính
quyền với những quyền năng bị hạn chế và kiểm soát trong một trật tự của
Hiến pháp là điều kiện tiên quyết. Sự tồn tại các quyền và tự do cơ bản
hàm ý những giới hạn của quyền lực nhà nước. Cơ sở cho việc cần phải
giới hạn quyền lực nhà nước không chỉ nhằm chống lại sự lạm dụng quyền
lực nhà nước mà còn chống lại sự tùy tiện của nhà nước thông qua các
hành vi của các quan chức thay mặt nhà nước đảm trách các công việc,
thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Nếu quyền lực nhà nước không
bị hạn chế, không bị kiểm soát thì hậu quả rõ ràng nhất là sự vi phạm các
quyền con người. Do đó cần phải có một bản văn quy định sự hạn chế
quyền lực nhà nước. Đó là bản Hiến pháp. Hiến pháp là một văn bản luật
có nhiệm vụ hạn chế quyền lực nhà nước. Hạn chế để bảo vệ nhân quyền,
quyền cá nhân là mục tiêu của Hiến pháp.


22
Điều đó có nghĩa là quyền lực nhà nước không phải là vô hạn mà có
sự hạn chế nhất định. Đó chính là tính phải chịu trách nhiệm trong nhà
nước dân chủ. Khác với nhà nước phong kiến và chiếm hữu nô lệ, quyền
lực nhà nước là vô hạn định, một nhà nước “vô trách nhiệm”. Trong trường
hợp này Hiến pháp như là một bản văn hạn chế quyền lực nhà nước. Nói
đến hạn chế là nói đến trách nhiệm. “Mục đích của sự hạn chế này là nhằm
bảo vệ quyền lợi của nhân thân - quyền con người. Bảo vệ nhân quyền

trước hết và hơn bao giờ hết là phải có sự ngăn ngừa từ phái nhà nước.
Ngăn ngừa bằng cách quy định một cách chặt chẽ các cách thức tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua các chức danh cụ thể, giữ cho
họ luôn xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Khi họ không còn sự tín
nhiệm của nhân dân nữa thì căn cứ và những quy định trong Hiến pháp,
nhân dân có quyền phế truất chức vụ của họ.
Nhà nước dân chủ là nhà nước phải chịu trách nhiệm. Đây không phải
là yêu cầu mà chính là bản chất của nhà nước dân chủ. Nhà nước dân chủ
tồn tại vì những người thành lập ra nó, cho nên nhà nước đó phải là nhà
nước có trách nhiệm. Nhân dân chính là chủ thể duy nhất thực hiện quyền
lực nhà nước. Các cơ quan nhà nước nhận được quyền lực của nhân dân.
Tất cả các cơ quan nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Quốc hội,
nhận quyền lực từ nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước
sự phát triển hay tàn lụi của quốc gia. Các cơ quan nhà nước và các chức
danh của nhà nước trong phạm vi thẩm quyền của mình phải có trách
nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đẩy xã
hội hay chí ít là lĩnh vực của mình phụ trách đi lên, đem lai lợi ích cho
nhân dân. Lúc này thuật ngữ trách nhiệm được hiẻu như là nghĩa vụ phải
gánh vác. Nếu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào vi phạm Hiến pháp thì
đều phải chịu trách nhiệm về hành vi vủa mình. Trong trường hợp làm


23
không tốt thì phải có nghĩa vụ rút lui, nhường chỗ cho người khac làm tốt
hơn. Đấy là trách nhiệm của chính trị của những người có trách nhiệm
quản lý nhà nước, các chính trị gia. Khác với trách nhiệm hình sự và trách
nhiệm dân sự ở chỗ, trách nhiệm chính trị phải từ chức không cần phải chỉ
ra lỗi của người có trách nhiệm. [12].
Quyền lực nhà nước là một dạng của quyền lực chính trị, được biểu
hiện công khai với danh nghĩa chủ quyền nhân dân. Để bảo vệ chủ quyền

nhân dân thì cần phải hạn chế quyền lực nhà nước, mà trọng tâm của sự
hạn chế này chính là việc Chính phủ phải chịu trách nhiệm.
Từ sự phân tích trên, ta có thể thấy để chủ quyền nhà nước thuộc về
nhân dân thì phải hạn chế quyền lực nhà nước, một chính quyền chịu chịu
trách nhiệm và để bắt buộc chính quyền phải chịu trách nhiệm với nhân
dân thì nhà nước đó phải điều hành theo Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ cho nên Chính phủ cũng phải
chịu trách nhiệm.
1.2.2. Sự phân quyền và trách nhiệm chính thuộc về Chính phủ.
Thông thường trong bộ máy nhà nước mỗi quốc gia được tổ chức
thành ba bộ phận tương ứng với ba chức năng cần có của mỗi quốc gia:
Lập pháp, hành pháp và Tư pháp. Mục đích của sự phân chia quyền lực
này không chỉ nhằm tránh sự lạm dụng quyền lực nhà nước trở thành
chuyên chế của bất kỳ bộ phận nào nắm giữ được quyền lực nhà nước, mà
còn có tác dụng tăng hiệu quả của chính quyền nhà nước.
Chính quyền ở đây mà chúng ta muốn nói tới đó là Chính phủ. cơ
quan hành pháp. Trong ba nhành quyền lực, quyền hành pháp chiếm một vị
trí rất đặc biệt, thậm trí nó bị thay đổi theo thời gian không còn đúng nghĩa


24
với ý nghĩa tổ chức thực hiện các văn bản luật của cơ quan Lập pháp,
không còn theo đúng vị trí, vai trò được nêu trong học thuyết phân quyền.
Dần dần Chính phủ - hành pháp đã trở thành trung tâm của bộ máy nhà
nước bởi mọi hoạt động của Chính phủ - hành pháp vẫn quyết định đến vận
mệnh phát triển của mỗi quốc gia. Cơ quan hành pháp với bản tính của nó
tất phải năng động thích ứng với tiến độ phát triển và thay đổi kinh tế - xã
hội. Do đó vai trò của hành pháp ngày càng được khẳng định.
Tất cả 3 cành quyền lực nhà nước nói trên đều phải chịu trách nhiệm
về phần việc của mình, nhưng tựu chung lại, chính phủ phải chịu trách

nhiệm là quan trọng nhất của sự hạn chế quyền lực và trách nhiệm của nhà
nước. Sự chịu trách nhiệm của Chính phủ là điều kiện tiên quyết của chế
độ dân chủ. Tiêu điểm của việc hiến pháp hạn chế quyền lực nhà nước
chính là chính phủ.
Vì vậy nói chính quyền phải chịu trách nhiệm một cách khách quan
như là một quy luật thì tức là chính phủ phải chịu trách nhiệm chứ không
phải là Chính phủ vô trách nhiệm. Những người nắm giữ chức vụ công cử
phải chịu trách nhiêm trước công chúng về những hành động của họ. So
với những cành quyền lực nhà nước khác, hành pháp luôn can thiệp sang
các lĩnh vực khác của nhà nước, kể cả của lập pháp và tư pháp. Nhiều
nhiệm vụ, quyền hạn không được trù liệu trước cho bất kì cành quyền lực
nhà nước nào, mà nhà nước cần phải đảm nhiệm thì không chủ thể nào
khác là Chính phủ với bộ máy chuyên nghiệp phải đứng ra thực hiện.
Thậm chí Lập pháp và Tư pháp vốn dĩ được phân cho Quốc hội và tòa án,
nhưng muốn cho Lập pháp có những đạo luật tốt cần nhờ đến quyền trình
dự án luật của Chính phủ, hoặc muốn có hoạt động xét xử, Tòa án cần phải
trông cậy vào hoạt động điều tra và truy tố của hành pháp.

×