Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 107 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




TRN TH PHNG




TĂNG CƯờNG TRáCH NHIệM CÔNG Tố TRONG HOạT ĐộNG
ĐIềU TRA ở VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN TỉNH BắC GIANG


Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01



LUN VN THC S LUT HC




Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN XUN TON


H NI - 2014





LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Trần Thị Phƣơng

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN 7
1.1. Một số khái niệm có liên quan 7
1.1.1. Quyền công tố 7
1.1.2. Thực hành quyền công tố 14
1.2. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong hoạt động
điều tra 20
1.2.1. Nhiệm vụ và đặc điểm cơ bản của hoạt động điều tra 20
1.2.2. Phạm vi, nội dung và đặc điểm của thực hành quyền công tố trong
hoạt động điều tra 23
1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra 27
1.3. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về tăng cƣờng trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra; pháp luật về thực quyền công
tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân 28
1.3.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra 28
1.3.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra 32
Kết luận Chương 1 47

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2012 48
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang và ảnh
hƣởng đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân trên địa bàn 48
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội 48
2.1.2. Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối với
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân

trên địa bàn 50
2.2. Thực trạng tổ chức, hoạt động thực hành quyền công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang từ năm 2008 đến năm 2012. 52
2.2.1. Khái quát tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Giang 52
2.2.2. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến
năm 2012 56
Kết luận Chương 2 66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG TRÁCH NHIỆM
CÔNG TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG THỜI GIAN TỚI 67
3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác thực hành quyền
công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân 67
3.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang thời gian tới 71

3.2.1. Một số giải pháp chung về nhận thức đúng đắn trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra 71
3.2.2. Giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thời gian tới 76
3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cƣờng trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Giang 90
Kết luận Chương 3 92
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96










DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
KSV: Kiểm sát viên
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao





DANH MỤC BẢNG



Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:

Tổng số Kiểm sát viên, cán bộ của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bắc Giang
53









1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy
nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với chức năng được
quy định tại Điều 137 của Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [34, tr.57]. Điều 1
của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo
quy định của hiến pháp và pháp luật” [32, tr.1].
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã đề ra những yêu cầu cơ bản về cải cách tư pháp đối với các cơ
quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ
XI của Đảng nhấn mạnh phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Vì vậy việc nâng cao chất lượng

thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, thực hiện đúng và đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố
có ý nghĩa rất quan trọng; là một trong những yếu tố cơ bản để giải quyết các
vụ án hình sự đảm bảo đúng quy định của pháp luật, hạn chế đến mức thấp
nhất việc bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội, góp phần đấu tranh
phòng chống tội phạm đạt kết quả, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội.
Như vậy, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng
một nền công tố mạnh. Khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân
có trách nhiệm lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phải bảo
đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội được phát hiện kịp thời, đầy đủ,

2
xử lý nghiêm minh, có căn cứ pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, đồng thời không để làm oan người vô tội. Đây là hai mặt của vấn đề
trong công tác công tố và để góp phần làm tốt nhiệm vụ này, Viện kiểm sát
nhân dân phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Vì
vậy, có thể nói rằng đây là nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý
kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị giam giữ, tạm giam, bị hạn chế
các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và
nhân phẩm một cách trái pháp luật. Đồng thời, bảo đảm việc điều tra được
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; kịp thời phát hiện,
khắc phục và xử lý những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra.
Chức năng thực hành quyền công tố cùng với chức năng kiểm sát các

hoạt động tư pháp là chức năng riêng có của Viện kiểm sát và có ý nghĩa rất
quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Kết luận của đồng chí Trường
Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác của ngành kiểm sát
năm 1967 đã nhấn mạnh:
Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ Nhà nước
nào. Không có cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm
sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử
có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là
Viện kiểm sát phải trông nom, đảm bảo làm tốt [41].

3
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
thực hành quyền công tố. Bởi vậy, thực chất của việc tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra là tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát
để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hiện thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận
và thực tiễn thông qua hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân trên một địa bàn cụ thể; đồng thời, đề xuất một số giải pháp
để nâng cao chất lượng của hoạt động này, tác giả chọn đề tài "Tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Bắc Giang" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nhất là hoạt động tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thời gian qua, đã có một số công trình
nghiên cứu được công bố như:
- “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra”, TS. Lê Hữu Thể chủ biên, NXB Tư pháp, 2005;

- “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo cải
cách tư pháp”, Chuyên đề tập huấn, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra án hình sự về trật tự xã hội – Viện kiểm sát nhân dân Tối cao;
- “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay”, Đỗ Văn Đương, Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2006;
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Phạm
Hồng Hải, Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2006.

4
Ngoài ra, còn có một số bài viết khác của các tác giả đăng trên tạp chí
Kiểm sát, tạp chí Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, Tạp chí Tòa án.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
nghiên cứu sâu về thực tiễn tăng cường trách nhiệm công tố gắn với hoạt
động điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Do vậy, việc đi sâu
nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và
thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn tăng
cường trách nhiệm công tố gắn với hoạt động điều tra tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bắc Giang. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng
cao trách nhiệm công tố gắn với hoạt động điều tra của hai cấp Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, phải triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và nhận thức chung về thực
hành quyền công tố trong hoạt động điều tra;
- Khảo sát và đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong hoạt
động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến
năm 2012;

- Xác định các quan điểm, đề xuất các giải pháp tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về
quyền công tố, thực hành quyền công tố và thực trạng, giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.

5
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề liên
quan đến thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bắc Giang. Thời gian nghiên cứu, khảo sát trong 05 năm, từ
năm 2008 đến năm 2012.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và
cải cách tư pháp nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên
ngành, trong đó đặc biệt chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Đồng thời, luận văn còn sử
dụng một số phương pháp của một số bộ môn khoa học khác như thống kê, so
sánh, tọa đàm trao đổi…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ, hoàn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền công tố, thực hành quyền công tố và mối quan hệ giữa thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát. Đồng thời, đánh giá khái quát thực trạng thực hành quyền công tố
trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang trong

thời gian qua; đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

6
Chương 1. Nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong hoạt
động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm
2008 đến năm 2012.
Chương 3. Một số giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang thời gian tới.


7
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
"Công tố" là từ ghép Hán - Việt, được hình thành bởi hai từ đơn "công"
và "tố". Theo Đại từ điển tiếng Việt, "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước,
tập thể, trái với tư" [51, tr.453], còn "tố" có nghĩa là "nói về những sai phạm,
tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc

trước nhiều người" [51, tr.459]; "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc
tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án" [51, tr.1663].
Như vậy, có thể thấy công tố là một khái niệm đề cập đến các nội dung
về điều tra, truy tố, buộc tội người phạm tội trước Tòa án. Trong đó bên thực
hiện buộc tội là nhân danh Nhà nước, nhân danh lợi ích công để tố cáo, đưa
người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Khác với tư tố, là tự
mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để tố cáo, khởi kiện ra Tòa án để đề
nghị Tòa án bảo vệ quyền lợi cho riêng mình.
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý. Ở Việt Nam chế định quyền
công tố chưa được giải thích chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mới chỉ đề cập trong các bài giảng, các
luận văn, đề tài khoa học và một số sách, tạp chí nghiên cứu luật học Nhưng
trên thực tế quyền năng công tố đã được thực hiện từ khi nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ra đời, khi đó chức năng công tố thuộc hệ thống Tòa án do
các Thẩm phán buộc tội đảm nhiệm. Sau đó trong các Tòa án đều có bộ phận
"Công tố viện" chuyên thực hiện chức năng công tố. Công tố viện do Công tố

8
ủy viên phụ trách. Tại phiên họp ngày 29/4/1958 kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa
I đã quyết định chia tách và thành lập một số cơ quan nhà nước, trong đó có
việc thành lập Tòa án tối cao và hệ thống tòa án, thành lập Viện công tố
Trung ương và hệ thống Viện công tố. Cả hai cơ quan tách khỏi Bộ Tư pháp
và đều là các cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn ngang Bộ trực thuộc Chính
phủ. Ngày 01/07/1959 Chính phủ ban hành Nghị định 256/TTg quy định về
nhiệm vụ và tổ chức Viện công tố Trung ương và hệ thống Viện công tố, đây
là tổ chức tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân. Tại phiên họp ngày
15/7/1960, kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa II đã thông qua Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân và ngày 26/7/1960 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố luật
này. Kể từ đó đến nay quyền công tố do Viện kiểm sát nhân dân đảm nhiệm.
Thuật ngữ “Quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp

1980, sau đó tại Hiến pháp năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002
Hiện nay, vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Có
thể khái quát lại một số quan điểm về quyền công tố như sau:
Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm
sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố.
“Những người theo quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với
hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân. Theo họ,
công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là một
quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật
của Viện kiểm sát” [18, tr. 85-87].
Theo tác giả, quan điểm này đã đánh đồng quyền công tố với quyền
kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát và như vậy là không chính xác

9
bởi vì thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật là hai chức
năng hoàn toàn độc lập của Viện kiểm sát nhân dân. Mặc dù trong quá trình
thực hiện hai chức năng này, có thể có những nội dung đan xen nhau, có quan
hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau nhưng không phải trong mọi
công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, trong mọi hoạt động thực
hiện chức năng của Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng đó, có hoạt
động chỉ nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và có hoạt động
chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật. Vì vậy, không thể
phủ nhận tính độc lập của hai chức năng này về cả nội dung lẫn phạm vi áp
dụng và vì vậy không thể đồng nhất chúng.
Quan điểm thứ hai: “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; Ở Việt Nam, quyền này

được giao cho Viện kiểm sát nhân dân” [18, tr.19]. Quan điểm này có thể coi
là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng
dạy của ngành kiểm sát và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát.
Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự,
về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến nay thì
quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong
các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và
phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền
năng khác của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp
(giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…).
Quan điểm thứ ba cho rằng, “quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà
nước đối với các cá nhân, tổ chức đó vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm

10
hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kinh tế, vi phạm hình sự. Và quyền công
tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó” [20, tr.82-88]. Theo
quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước, Nhà nước không thể
không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp
luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời Nhà nước là chủ thể
tham gia và nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Với tính cách là một quyền
năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình
giải quyết các vi phạm pháp luật, bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố
tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Theo quan điểm trên,
quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu hiện cụ thể ở các quyền
của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự, kinh tế, hành chính, lao
động, hình sự), quyền tham gia tố tụng từ tất bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi
xét thấy cần thiết (dân sự, kinh tế ), quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình điều
tra xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án

Quan điểm thứ tư:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan
công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó
quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó
trước phiên tòa [1, tr.40].
Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật
hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong
tố tụng hình sự; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất
Viện kiểm sát nhân dân, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan

11
điểm khác nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý
của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập. Hoặc là đánh đồng quyền công
tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của
Viện kiểm sát trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của
quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu
hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Từ những phân tích ở trên, để xây dựng được khái niệm quyền công tố
chính xác, khoa học thì phải dựa trên các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước, các quy định hiện hành của pháp luật và thực tiễn hoạt động của các cơ
quan tư pháp Việt Nam. Theo tác giả, việc xây dựng khái niệm quyền công tố
cần phải dựa trên những nguyên tắc sau:
- Quyền công tố phải là quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra
đời của Nhà nước và thay đổi theo bản chất của Nhà nước. Được Nhà nước
giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân), nhằm

xác định tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để
làm được điều này, cơ quan Viện kiểm sát phải có trách nhiệm đảm bảo việc
thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội,
trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội tại phiên tòa.
- Quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự, với đối
tượng là tội phạm và người phạm tội mà không có trong các lĩnh vực khác
như tố tụng dân sự, hành chính
- Quyền công tố chỉ do một cơ quan thực hiện và phải độc lập với
quyền xét xử của Tòa án. Quyền công tố phải được thể hiện bằng những hoạt
động cụ thể ở trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, từ khởi tố, điều tra,
đến đưa vụ án ra xét xử.

12
Theo đó, có thể định nghĩa quyền công tố như sau: Quyền công tố là
quyền của Nhà nước, giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc xác
định tội phạm,truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trước Tòa
án và bảo vệ việc buộc tội tại phiên toà.
1.1.1.2. Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố
* Đối tượng của quyền công tố là cái mà quyền công tố tác động vào
nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó như nhằm buộc tội người phạm tội để
trừng phạt nhằm bảo đảm trật tự xã hội và trật tự pháp luật, nhằm bảo đảm lợi
ích chung cho xã hội… Do còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền
công tố, nên tất yếu còn tồn tại nhận thức khác nhau về đối tượng, nội dung
và phạm vi của quyền công tố điển hình có thể kể đến một số quan điểm sau:
- Quan điểm xác định đối tượng của quyền công tố và sự tuân thủ pháp
luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng. Quan điểm này là kết quả của sự đồng nhất khái niệm quyền công tố
với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
- Quan điểm cho tằng đối tượng của quyền công tố là các hành vi vi

phạm pháp luật; quan điểm này xuất phát từ nhận thức coi quyền công tố là
quyền của Nhà nước cáo buộc cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật và đưa ra
các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa.
- Quan điểm coi quyền công tố là quyền Nhà nước nhân danh xã hội truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi phạm tội hoặc hành vi
vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung, lợi ích Nhà nước thì lại cho rằng
đối tượng của quyền công tố là tội phạm, người phạm tội và những vụ việc xâm
hại đến lợi ích chung trong lĩnh vực dân sự, hành chính, lao động.
Từ quan điểm nhận thức về quyền công tố đã trình bày ở trên, tác giả
luận văn cho rằng đối tượng của quyền công tố chỉ có thể là: tội phạm và
người phạm tội.

13
* Nội dung của quyền công tố
Về nội dung của quyền công tố, cũng còn tồn tại những quan điểm khác
nhau song xuất phát từ quan điểm về bản chất của quyền công tố là sự buộc
tội nhân danh Nhà nước, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội, tác giả thống nhất với quan điểm nội dung của quyền công tố
là sự buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người đã thực hiện tội phạm.
* Phạm vi quyền công tố
Do hiện đang tồn tại những quan điểm khác nhau về quyền công tố nên
cũng có các cách lý giải khác nhau về phạm vi của quyền công tố (phạm vi về
không gian, phạm vi về thời gian).
- Phạm vi về thời gian: Phần lớn các quan điểm cho rằng quyền công tố
không chỉ bị giới hạn bó hẹp trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn bao trùm cả
trong các lĩnh vực tư pháp khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng
kinh tế, tố tụng lao động. Bên cạnh đó có quan điểm cho rằng phạm vi của
quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự và không thể có trong các
lĩnh vực tố tụng khác. Do đó tác giả cho rằng quyền công tố là quyền nhân
danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội; do đó quyền

công tố không thể tồn tại ở lĩnh vực nào khác ngoài lĩnh vực tố tụng hình sự.
- Phạm vi về thời gian cho rằng quyền công tố xuyên suốt cả quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tức là nó bắt đầu khi tội phạm
xảy ra và chỉ kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án.
Từ quan điểm của mình về quyền công tố tác giả luận văn đồng tình với
ý kiến cho rằng phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực
hiện và kết thúc khi việc buộc tội không còn nữa. Và khi việc buộc tội không
còn nữa thì không còn lý do gì để cho rằng quyền công tố vẫn kéo dài đến khi
người phạm tội chấp hành xong bản án.

14
1.1.2. Thực hành quyền công tố
1.1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Cũng như khái niệm về quyền công tố, khái niệm thực hành quyền
công tố cũng như nội dung, phạm vi của nó còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người có hành vi phạm tội; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố
tụng hình sự; phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, tiếp
diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra Tòa, tranh tụng tại phiên tòa và
kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc quyết định của Tòa án -
trong trường hợp vụ án bị đình chỉ). Để thực hiện được quyền công tố đó, Nhà
nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý khác nhau để các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong từng giai đoạn khác nhau của tố
tụng hình sự (hay nói cách khác đó là các phương pháp khác nhau để tổ chức
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong những giai đoạn tố tụng khác nhau) - đó
là thực hành quyền công tố. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến
pháp và pháp luật và thực tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho
duy nhất Viện kiểm sát. Vậy, chủ thể thực hành quyền công tố ở Việt Nam là
Viện kiểm sát nhân dân.
Từ những phân tích nêu trên có thể xác định phạm vi và nội dung thực

hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát như sau:
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung của quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội và được thực hiện từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện
kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án
được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật.

15
1.1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố
Xét về nguyên tắc thì phạm vi thực hành quyền công tố đồng nhất với
phạm vi của quyền công tố; tức là bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc
khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc vụ án
được đình chỉ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Như vậy cũng có nghĩa là khi tội phạm xảy ra đòi hỏi quyền công tố
phải được phát động để đảm bảo mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện
xử lý theo pháp luật.
Để có cơ sở phát động quyền công tố đòi hỏi phải trải qua một giai
đoạn chuẩn bị nhằm thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm xảy ra, như: Tiếp
nhận, xác minh tin báo, tố giác tội phạm; tiến hành một số hoạt động điều tra
trước khi khởi tố vụ án như khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai người làm
chứng, lấy lời khai người bị tạm giữ… và mục đích của giai đoạn này là nhằm
xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để làm cơ sở khởi tố hay không
kết thúc vụ án hình sự và thực hành quyền công tố chỉ thực sự phát sinh khi
có quyết định kết thúc vụ án. Nhưng trên thực tế việc kết thúc vụ án không
thể bao trùm hết được số vụ tội phạm xảy ra (thậm chí số vụ tội phạm xảy ra
không được phát hiện khởi tố còn chiếm một tỷ lệ không nhỏ so với số vụ tội
phạm được khởi tố). Do đó, trong khi thực hành quyền công tố chỉ phát sinh
khi có quyết định khởi tố vụ án thì quyền công tố luôn “treo trên đầu” đối với
tất cả những người thực hiện tội phạm nhưng chưa bị phát hiện khởi tố điều

tra. Điều này cũng cho thấy rõ ràng phạm vi quyền công tố luôn rộng hơn so
với phạm vi thực hành quyền công tố. Tuy về nguyên tắc như đã phân tích ở
trên quyền công tố luôn bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản
án có hiệu lực pháp luật. Nhưng trên thực tế, trong những trường hợp cụ thể,
quyền công tố có thể kết thúc ở giai đoạn tố tụng sớm hơn. Đó là khi Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật ra quyết định

16
đình chỉ vụ án, bị can (theo quy định của pháp luật Việt Nam thì đó là các
trường hợp quy định ở khoản 2 Điều 105, Điều 107 BLTTHS; Điều 19, Điều
25, khoản 2 Điều 169 BLHS…) và khi quyền công tố chấm dứt thì thực hành
quyền công tố cũng chấm dứt.
Như vậy có thể khẳng định phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ
khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không
bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự.
1.1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố
Nội dung thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử
dụng những biện pháp được pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Quy chế thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự ban
hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 2/1/2008, Quy chế
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban
hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì nội dung thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân được xác định như sau:
* Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, truy tố:
+ Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi

tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Việc khởi tố
vụ án hình sự được thực hiện khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Theo quy
định tại Điều 104 của BLTTHS năm 2003 thì, các cơ quan có thẩm quyền
khởi tố vụ án, bị can bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ

17
đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển Trên thực tế,
việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can chủ yếu do Cơ quan điều tra các cấp tiến
hành, Viện kiểm sát chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong một số trường hợp
nhất định. Tuy vậy, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được quyền khởi tố vụ
án hình sự một cách độc lập, không chịu sự ràng buộc về mặt cơ chế tố tụng
của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào.
Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố, thay
đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can nếu có căn cứ xác
định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn
có tội phạm khác; có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, Viện kiểm sát
cũng có quyền kháng nghị đối với những quyết định khởi tố vụ án không có
căn cứ của Hội đồng xét xử.
Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi ngay
cho Viện kiểm sát để xem xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ, kể từ thời
điểm ra quyết định khởi tố. Viện kiểm sát sẽ xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ
quyết định khởi tố nếu quyết định khởi tố đó không có căn cứ và trái pháp
luật trong thời hạn 3 ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can và
các tài liệu liên quan đến việc khởi tố của Cơ quan điều tra.
+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
khi cần thiết có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định

của pháp luật. Kiểm sát viên có thể trực tiếp đề ra yêu cầu điều tra bằng lời
trong quá trình kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối
với những trường hợp khác, khi đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải có

18
văn bản nêu rõ vấn đề cần điều tra. Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi xét thấy cần thiết như khác
hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai bị hại, người làm chứng, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất, thực nghiệm điều tra.
+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định
không phê chuẩn các quyết định Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
Khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết
định áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giam,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn các quyết
định của Cơ quan điều tra trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, bắt bị can để tạm giam, tạm giam, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đối với một số
quyết định khác của Cơ quan điều tra như lệnh khám xét,…
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo
quy định của pháp luật, nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm
thì khởi tố về hình sự. Khi phát hiện thấy Điều tra viên được phân công
giải quyết vụ án thuộc một trong các trường hợp bị thay đổi hoặc phải từ
chối tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên có quyền đề nghị Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp mình xem xét để yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều
tra thay đổi Điều tra viên.
+ Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan
điều tra. Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ các quyết định của Cơ quan điều tra

trong quá trình điều tra vụ án, nếu các quyết định đó được ban hành mà không
có căn cứ pháp lý, không đúng trình tự, thủ tục, hình thức, thẩm quyền theo
quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra truy
nã bị can khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu.

×