MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA
NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI 5
1.1. Khái niệm người quản lý đất đai 5
1.1.1. Khái niệm công vụ 5
1.1.2. Khái niệm công chức 5
1.2. Trách nhiệm pháp lý 6
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý 6
1.3. Mục đích việc truy cứu trách nhiệm pháp lý 9
1.4. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý 10
1.5. Các loại trách nhiệm pháp lý 13
1.6. Những yêu cầu cơ bản đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý 13
1.7. Các hành thức trách nhiệm pháp lý trong việc xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật đất đai 15
2.1. Trách nhiệm hành chính 16
2.2. Trách nhiệm kỷ luật 17
2.3. Trách nhiệm hình sự 18
2.4. Trách nhiệm dân sự 19
3.1. Trách nhiệm pháp lý của cán bộ công chức 20
3.1.1. Trách nhiệm hình sự 20
3.1.2. Trách nhiệm dân sự 20
3.1.3. Trách nhiệm hành chính 20
3.1.4. Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ công chức 20
3.2. Khái niệm, phân loại vi phạm pháp luật 25
3.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật và cấu thành vi phạm pháp luật 25
3.2.2. Phân loại vi phạm pháp luật 29
4.1. Vi phạm pháp luật đất đai 31
4.1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật đất đai 31
4.1.2. Dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật đất đai 31
5.1. Phân loại vi phạm pháp luật đất đai 34
5.1.1. Vi phạm xâm hại đến quyền đại diện cho chủ sở hữu đất đai
của Nhà nước 35
5.2.2. Vi phạm, xâm phạm đến quyền của người sử dụng đất 35
6.1. Những yếu tố tác động đến hành vi vi phạm pháp luật của người
quản lý đất đai 36
7.1. Những yếu tố tác động đến Truy cứu trách nhiệm pháp lý của
những người quản lý đất đai 36
8.1. Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai 37
8.1.1. Đặc điểm của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai 37
8.2.2. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 38
8.2.3. Hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai 41
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI HIỆN NAY 60
2.1 Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức 60
2.1.1. Về trách nhiệm kỷ luật của công chức 60
2.1.2. Về trách nhiệm hình sự của công chức 60
2.1.3. Về trách nhiệm hành chính 61
2.1.4. Về trách nhiệm vật chất của công chức 61
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức 62
2.2.1. Thực trạng vi phạm pháp luật của công chức 62
2.2.2. Thực trạng áp dụng trách nhiệm pháp lý của công chức 62
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực và hạn chế trong
việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức 63
2.3.1. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực 63
2.3.2. Nguyên nhân chủ yếu của những mặt hạn chế 64
2.4. Tình hình quản lý về đất đai tại tỉnh Thừa Thiên Huế 65
2.5. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất
đai thể hiện trong các nội dung sau 66
2.6. Thực trạng vi phạm hành chính về đất đai ở tỉnh Thừa Thiên Huế 79
2.6.1. Tình hình vi phạm 81
2.6.2. Đánh giá tình hình vi phạm hành chính về đất đai ở Thừa Thiên Huế 88
2.7. Thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người quản lý
đất đai ở tỉnh Thừa Thiên Huế 91
2.7.1. Quan điểm, chủ trương và các văn bản của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh Thừa Thiên Huế trong xử lý vi phạm pháp luật về đất đai
nói chung và vi phạm hành chính về đất đai nói riêng 91
2.7.2. Kết quả xử lý vi phạm pháp luật đất đai và vi phạm hành chính
về đất đai ở Thừa Thiên Huế 94
2.7.3. Nhận xét đánh giá về tình hình xử lý vi phạm hành chính về đất
đai ở Thừa Thiên Huế 96
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ
HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA
NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI 99
3.1. Yêu cầu khách quan, cấp bách và quan điểm tăng cường trách nhiệm
pháp lý của người quản lý đất đai ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay. 99
3.1.1. Yêu cầu khách quan, cấp bách của việc tăng cường Trách nhiệm
pháp lý về đất đai ở Thừa Thiên Huế 99
3.1.2. Quan điểm về nâng cao Trách nhiệm pháp lý của người quản lý
đất đai ở Thừa Thiên Huế hiện nay 103
3.2. Các giải pháp kiến nghị góp phần áp dụng có hiệu quả và hoàn
thiện các quy định của pháp luật về Trách nhiệm pháp lý của người
quản lý đất đai 108
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng đất đai và xử lý vi
phạm hành chính về đất đai 108
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý nhà
nước về đất đai và xử lý vi phạm hành chính về đất đai 112
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai
với mọi tầng lớp nhân dân 113
3.2.4. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai và
xử lý vi phạm hành chính về đất đai 118
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
thực hiện tốt việc thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ
hiện trạng sử dụng đất; đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất 121
3.2.6. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động quản lý, sử
dụng đất đai; xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm hành chính
về đất đai 126
3.2.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đất đai 130
3.2.8. Lắng nghe ý kiến của nhân dân về công tác quản lý đất đai để phát
hiện và xử lý kịp thời những vi phạm của người quản lý đất đai 130
KẾT LUẬN 131
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 134
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH: Công nghiệp hóa
GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
HĐH: Hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng Nhân dân
NSDĐ: Người sử dụng đất
QLNN: Quản lý Nhà nước
QPPL: Quy phạm pháp luật
QSDĐ: Quyền sử dụng đất
SDĐ: Sử dụng đất
TNPL: Trách nhiệm pháp lý
UBND: Ủy ban Nhân dân
VPHC: Vi phạm hành chính
VPPL: Vi phạm pháp luật
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tặng vật của
thiên nhiên dành cho con người nhưng đất đai không phải là vô tận và nếu
việc quản lý, sử dụng không hợp lý thì con người sẽ phải trả giá cho những
hành động của mình. Việc quản lý đất đai ở nước ta trong những năm qua còn
tồn tại rất nhiều vấn đề bất hợp lý gây nhiều phản ứng gay gắt trong nhân dân
và là nỗi trăn trở của các nhà lãnh đạo. Hiện tượng vi phạm pháp luật của
người quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay còn khá phổ biến, nhất là tham
nhũng, tiêu cực, suy thoái về phẩm chất đạo đức là tương đối nghiêm trọng.
Các vi phạm pháp luật không giới hạn ở một lĩnh vực, một ngành, một địa
phương mà xảy ra trên phạm vi rộng, xảy ra ngay trong bộ máy các cơ quan
bảo vệ pháp luật.
Trong bảy năm qua, kể từ khi luật đất đai năm 2003 có hiệu lực từ ngày
01/07/2004 có rất nhiều cán bộ, công chức các cấp đã bị xử lý và khởi tố do
liên quan đến vi phạm về quản lý pháp luật đất đai. Tiêu cực đất đai là “địa
chỉ nóng” cần đánh mạnh. Vừa qua hàng loạt các vụ án lớn liên quan đến
quản lý đất đai như vụ Đồ Sơn, Phú Quốc, Bình Phước, Tiên Lãng-Hải
Phòng Hiện tượng Đồ Sơn không còn là cá biệt. Tuy mức độ cụ thể có thể
khác nhau nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng không nơi nào không có
hiện tượng tham nhũng về đất đai, không có nơi nào cán bộ có chức, có quyền
không được giao đất với giá rẻ.
Luật đất đai 2003 ra đời lần đầu tiên đã quy định quyền khởi kiện vụ án
hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai, quy định cụ thể việc xử lý vi phạm đối với trường hợp cán bộ
công chức nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật đất đai hoặc vi phạm về
thực hiện trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất.
2
Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền Trung với diện tích đất tự
nhiên là Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị. Phía Tây giáp nước bạn Lào, phía
Đông giáp biển Đông và phía Nam giáp thành phố Đà Nẵng. Với địa hình
phức tạp, đồi núi hiểm trở, dân cư phân bố không đồng đều và đây là mảnh
đất cố Đô gần ngàn năm thuộc chế độ phong kiến, vì vậy vấn đề quản lý vô
cùng phức tạp và dễ dẫn đến những vi phạm trong lĩnh vực này.
Một vấn đề khá nhạy cảm hiện nay trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế là
quản lý và sử dụng đất của các cơ sở tôn giáo, vì vậy cũng cần có những
chính sách phù hợp để tránh vi phạm về quản lý xảy ra trong lĩnh vực này.
Đây là vấn đề khá mới mẻ đối với các công trình nghiên cứu. Trước
đây, chủ yếu nghiên cứu về xử lý vi phạm nói chung và xử lý vi phạm đối với
người sử dụng đất. Ít có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề xử lý vi
phạm đối với người quản lý đất đai.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm
pháp lý của người quản lý đất đai – qua thực tiễn của tỉnh Thừa Thiên
Huế” trong bối cảnh hiện nay là hợp lý và cần thiết. Đã đến lúc quan cũng
giống thứ dân cần phải bị xử lý nghiêm minh. Nghiên cứu đề tài này cũng là
cơ hội để tìm hiểu sâu hơn về thực trạng quản lý đất đai ở nước ta cũng như
việc xử lý vi phạm đối với người quản lý nói riêng và tôi cũng hy vọng sẽ
đóng góp được những giải pháp hay để tháo gỡ phần nào những vướng mắc
trong việc xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1.Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu hạn chế vi phạm pháp luật đất đai
của những người quản lý đất đai, nâng cao trách nhiệm pháp lý của họ để
mang lại hiệu lực và hiệu quả tốt nhất của nhà nước trong quản lý đất đai và
quyền và lơi ích chính đáng của người sử dụng đất nói.
3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận về trách
nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai, nhằm nắm được thực trạng của việc
vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý tại địa phương. Tìm ra nguyên
nhân vi phạm, từ đó rút ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai, đảm bảo thực
hiện tốt chế định này trong thực tiễn.
1.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Liên quan đến lĩnh vực đất đai có rất nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều
góc độ khác nhau như: Quy hoạch đất đai, sử dụng đất đai, quản lý đất đai, vi
phạm của người sử dụng đất chứ chưa có đề tài nào nghiên cứu về vi phạm
của người quản lý. Vì vậy đây là đề tài hoàn toàn mới tại địa phương và chưa
có ai đặt vấn đề nghiên cứu. Khi chọn đề tài này tác giả biết rằng sẽ gặp rất
nhiều khó khăn vì tính phức tạp của vấn đề, nhưng với công tác chuyên môn
hiện tại, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ của mình về mặt khoa học
và thực tiễn tại địa phương để góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền trong
giai đoạn hiện nay. Điểm mới của luận án thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
- Kiến giải một cách có cơ sở khái niệm trách nhiệm pháp lý của người
quản lý đất đai ở khía cạnh tiêu cực. Trong giới hạn nghiên cứu, đã làm sáng
tỏ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai, các
hình thức trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai.
- Đưa ra được các yêu cầu của Nhà nước đối với trách nhiệm pháp lý
của người quản lý đất đai.
- Đánh giá một cách tương đối toàn diện các quy định pháp luật về trách
nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai, cũng như thực trạng vi phạm pháp luật
của người quản lý đất đai và thực tiễn áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với
người quản lý đất đai vi phạm.
4
- Đề xuất được những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về
trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai và những giải pháp bảo đảm
việc thực hiện trách nhiệm pháp lý của người quản lý đất đai hiện nay.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cán bộ, công chức được nhà nước
giao quyền trong lĩnh vực quản lý đất đai
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu vi phạm pháp luật đất đai của người quản lý tại Thừa Thiên
Huế trong vòng 5 năm (từ 2006-2011) và được chia thành hai dạng cơ bản sau:
+ Vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai.
+ Vi phạm pháp luật trong sử dụng đất đai.
Trong luận văn này, tôi sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu, khai thác về vi
phạm pháp luật đất đai của người quản lý đất đai.
Luận văn bao gồm những nội dung sau:
- Những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm và xử lý vi phạm đối với
người quản lý đất đai.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật đất đai về xử lý vi phạm đối với
người quản lý đất đai.
- Thực trạng vi phạm của người quản lý đất đai và xử lý vi phạm đối
với người quản lý đất đai, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến vi phạm
và tình trạng xử lý vi phạm đối với người quản lý đất đai chưa triệt để và
nghiêm minh.
- Qua các vấn đề nghiên cứu trên, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị
nhằm ngăn ngừa và xử lý vi phạm nghiêm minh, triệt để đối với người quản lý
đất đai.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm người quản lý đất đai
Người quản lý đất đai rất phong phú và đa dạng, bao gồm: Cán bộ,
công chức, viên chức, những người hợp đồng để giao nhiệm vụ quản lý đất
đai Luận văn này chủ yếu nghiên cứu người quản lý đất đai là công chức.
Công vụ và công chức có mối liên hệ mật thiết với nhau, khi quan niệm
về công vụ ra sao thì sẽ có một quan niệm về công chức tương ứng. Do đó,
cần thiết phải tìm hiểu khái niệm công vụ, làm cơ sở cho việc nghiên cứu về
công chức và trách nhiệm pháp lý của công chức.
1.1.1. Khái niệm công vụ
Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, chế độ nhà nước khác nhau nền
công vụ được quy định khác nhau. Vì thế mà có những cách hiểu khác
nhau về công vụ.
Xuất phát từ đặc thù của hệ thống chính trị nước ta, công vụ được hiểu là
một loại lao động mang tính phục vụ, tính quyền lực và pháp lý, được thực thi
bởi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm thực hiện các chức năng của Nhà
nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm công chức
Tùy theo phạm vi công vụ rộng hay hẹp, khái niệm công chức cũng có
nội hàm rộng, hẹp tương ứng. Nhìn chung, các quan niệm về công chức ở
nước ta và các nước khác trong lịch sử và hiện tại thường khác nhau về đối
tượng nào là công chức.
Ở nước ta, công chức được hiểu là Công dân Việt Nam, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng
6
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp
và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung
là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật. (Điều 4 Luật Cán bộ công chức)
1.2. Trách nhiệm pháp lý
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
Trong ngôn ngữ hàng ngày thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo
nhiều nghĩa khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực hoặc ngữ cảnh cụ thể.
Trong lĩnh vực chính trị, đạo đức “trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa
bổn phận, vai trò. Nó luôn mang tính tích cực xuất phát từ sự ý thức của con
người về vị trí, vai trò của mình đối với xã hội, đối với những người thân
thích, đối với thiên nhiên, môi trường… Chẳng hạn, trách nhiệm với gia đình,
với bạn bè, trách nhiệm đối với đất nước, với nhân loại…
Trong lĩnh vực pháp lý thuật ngữ “trách nhiệm” cũng được sử dụng
theo hai nghĩa: Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ (nói
đến những điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai). Chẳng
hạn, pháp luật quy định trách nhiệm cho một cơ quan nào đó phải tuyên
truyền, phổ biến một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào đó hay cơ quan
A chịu trách nhiệm trước cơ quan B, nghĩa thứ hai, là hậu quả bất lợi. Trách
nhiệm theo nghĩa thứ hai là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi
phạm pháp luật. Đó là sự phản ứng, lên án của nhà nước và xã hội đối với
7
những chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội. Sau đây chúng
ta nghiên cứu sâu về trách nhiệm pháp lý theo nghĩa hậu quả bất lợi.
Sở dĩ nhà nước quy định TNPL đối với những chủ thể vi phạm pháp luật
là vì: thứ nhất, trong quy phạm pháp luật nhà nước đã đưa ra trước những cách
xử sự có tính khuôn mẫu mà chủ thể được phép hoặc buộc phải lựa chọn khi ở
vào hoàn cảnh, điều kiện đã được dự liệu. Vì chủ thể khi ở vào hoàn cảnh, điều
kiện đã được nhà nước dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc phải lựa chọn cho
mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà trong quy phạm pháp luật đã
dự liệu cho trường hợp đó, thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình
thường) luôn hoạt động có lý trí (họ ý thức được việc làm của mình, nghĩa là, họ
có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình và hậu quả do nó gây
ra cho xã hội) và có tự do ý chí (họ có khả năng và điều kiện để có thể tự lựa
chọn cho mình cách xử sự có thể có trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định). Vì
vậy họ có đủ khả năng và phải chịu trách nhiệm về cách xử sự (hành vi) đã lựa
chọn của mình. Nếu chủ thể chọn cách xử sự trái với ý chí của nhà nước đã thể
hiện trong quy phạm pháp luật (không lựa chọn cách xử sự mà nhà nước cho
phép hoặc buộc phải thực hiện trong trường hợp đó), thì chủ thể phải chịu trách
nhiệm về việc làm của mình, phải chịu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, trách
nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối với những chủ thể có lý trí và có tự do ý chí.
Cơ sơ của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật, TNPL chỉ xuất
hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật. Nếu trong thực tế không có vi
phạm pháp luật thì không được truy cứu TNPL. TNPL chỉ được phép áp dụng
đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Không truy cứu TNPL đối với các
hành vi trái pháp luật được thực hiện trong trường hợp:
a. Chủ thể không có năng lực TNPL (không có khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình).
b. Do sự kiện bất ngờ (chủ thể không thể thấy trước hoặc không buộc
phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra).
8
c. Do phòng vệ chính đáng.
d. Được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết.
Chỉ các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể
được pháp luật trao quyền thì mới có quyền truy cứu TNPL đối với tổ chức hay
cá nhân nào đó. Nó thể hiện ở việc các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có
thẩm quyền hay các chủ thể có quyền theo trình tự thủ tục luật định yêu cầu chủ
thể bị truy cứu TNPL giải thích rõ về hành vi của mình và buộc chủ thể vi phạm
phải chịu những thiệt hại nhất định (về nhân thân, về tài sản, về tự do…) đã được
quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng chế
được quy định trong chế tài các quy phạm pháp luật. TNPL pháp lý về thực
chất là áp dụng những biện pháp cưỡng chế đã được quy định trong bộ phận
chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, bản thân trách nhiệm pháp lý không phải là sự cưỡng chế mà chỉ
là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định.
Chủ thể vi phạm pháp luật bị buộc phải thực hiện những biện pháp cưỡng chế
được quy định ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. Như vậy, về nội
dung thì trách nhiệm pháp lý là sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với
chủ thể vi phạm pháp luật, còn về hình thức thì đó là việc tổ chức cho chủ thể
vi phạm pháp luật thực hiện bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý là có một số biện pháp cưỡng chế nhà nước
được áp dụng không liên quan gì tới TNPL, nghĩa là nó được áp dụng cả khi
không xảy ra vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhà nước có thể áp dụng biện
pháp cưỡng chế nhằm cách ly của những người mắc một số bệnh truyền
nhiễm, nhà nước có thể áp dụng biện pháp trưng thu, trưng dụng hay trưng
mua một số tài sản nào đó khi thấy cần thiết…
Truy cứu trách nhiệm pháp lý là một quá trình hoạt động phức tạp và
9
rất khó khăn của các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền
trong việc nhận xét, tìm hiểu sự việc bị coi là vi phạm pháp luật, ra quyết định
giải quyết vụ việc và tổ chức thực hiện quyết định đó.
Như vậy, TNPL lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi
phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi
phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó
chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp
cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
1.3. Mục đích việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
Mọi hiện tượng vi phạm pháp luật đều có hại cho xã hội vì nó phá vỡ
trật tự pháp luật, nó trực tiếp hoặc có nguy cơ gây ra những thiệt hại nhất định
về vật chất và tinh thần cho cá nhân, tổ chức, xâm hại đến các quan hệ xã hội
mà pháp luật bảo vệ. Vì thế, việc truy cứu TNPL đối với các hành vi vi phạm
pháp luật là nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền,
lợi ích của nhân dân, của tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, tạo điều kiện cho
những quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, đảm bảo cho quá trình điều
chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu quả.
Truy cứu trách nhiệm pháp lý trước hết là nhằm mục đích trừng phạt đối
với chủ thể vi phạm pháp luật, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi,
những biện pháp cưỡng chế được quy định trong chế tài các quy phạm pháp luật.
Ngoài mục đích trừng phạt, truy cứu TNPL còn có ý nghĩa rất lớn trong việc
phòng ngừa, cải tạo và giáo dục những chủ thể vi phạm pháp luật (ngăn ngừa sự
tiếp tục vi phạm pháp luật của chủ thể và cải tạo, giáo dục chủ thể ý thức tôn
trọng, thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng)
Truy cứu TNPL còn có tác dụng răn đe tất cả những chủ thể khác khiến
họ phải kiềm chế, giữ mình không vi phạm pháp luật, giáo dục các tổ chức và
các cá nhân ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy
10
tắc của cuộc sống cộng đồng, làm cho mọi người tin tưởng vào công lý, tích
cực đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, từng bước hạn chế và tiến
tới loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội.
1.4. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần
phải xác định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc truy
cứu. Về cơ sở thực tiễn để truy cứu TNPL thì phải có vi phạm pháp luật xảy ra.
Về cơ sở pháp lý đó là những quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến vi
phạm pháp luật đó và thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết vụ việc đó.
+ Khi xác định cơ sở thực tiễn cần xem xét từng yếu tố của cấu thành
vi phạm pháp luật. Điều đầu tiên phải tiến hành là xác định được trong thực
tế đã xảy ra hành vi trái pháp luật nguy hiểm, nếu không xác định được
hành vi trái pháp luật nguy hiểm trong thực tế, thì không được truy cứu
trách nhiệm pháp lý
Tiếp đến là đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật đó
thông qua việc xác định hậu quả (sự thiệt hại) về vật chất, về tinh thần và
những thiệt hại khác nếu có do hành vi đó gây ra cho xã hội. Một hành vi trái
pháp luật nhưng gây nguy hiểm cho xã hội không nhiều (những thiệt hại mà
nó gây ra là không đáng kể hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội thấp) thì không
bị truy cứu TNPL. Trong một số trường hợp mức độ nguy hiểm ủa hành vi
còn là căn cứ để xác định loại trách nhiệm pháp lý cần truy cứu. Chẳng hạn,
căn cứ vào mức độ thương tích của người bị hại mà quyết định truy cứu trách
nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính.
Cần làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu
quả, tuyệt đối không được suy diễn về hậu quả, nghĩa là phải xác định một
cách chắc chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật
đó trực tiếp gây ra. Không thể bắt chủ thể chịu trách nhiệm về những thiệt hại
11
mà hành vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra (giữa hành vi trái pháp
luật của họ và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả)
Để cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật có hiệu quả khi truy cứu
trách nhiệm pháp lý trong một số trường hợp cần phải xác định cả thời gian,
địa điểm và cách thức… mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi
xác định được những điều nói trên thì việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế mới
chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu TNPL và đạt được hiệu quả cao
trong việc cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật
Việc xác định lỗi, động cơ và mục đích vi phạm trong nhiều trường hợp
khi truy cứu trách nhiệm pháp lý là rất cần thiết, nó cho phép lựa chọn được
biện pháp cưỡng chế thích hợp.
Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với các chủ thể có
năng lực TNPL khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi, tức là chủ thể
hành vi đó có khả năng nhận thức được những hậu quả nguy hiểm cho xã hội
do hành vi của mình gây ra nhưng cố ý hoặc vô ý gây ra. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp pháp luật còn cho phép truy cứu TNPL đối với cả những
hành vi trái pháp luật được thực hiện do những nguyên nhân khách quan
hoặc trường hợp thiệt do những nguồn nguy hiểm cao độ như phương tiện
giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt
động, vũ khí, chất nỏ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ… gây ra và
một số trường hợp khác trong quan hệ dân sự mặc dù không có lỗi chủ thể
vẫn phải chịu TNPL. Chẳng hạn, cha mẹ hay người giám hộ phải bồi thường
thiệt hại do con mình (dưới mười lăm tuổi) hoặc người mất năng lực hành vi
dân sự gây ra. Trong những trường hợp trên chỉ áp dụng những biện pháp
tác động mang tính chất khôi phục thiệt hại, không áp dụng các biện pháp
trách nhiệm hình sự.
Khi xác định chủ thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới năng lực trách
12
nhiệm pháp lý của chủ thể trong mỗi trường hợp cụ thể. Nếu chủ thể là cá
nhân thì phải xác định xem người đó đã đạt được độ tuổi theo quy định của
pháp luật phải chịu TNPL trong trường hợp đó hay chưa? Và trạng thái tâm lý
(thần kinh) của họ như thế nào ở thời điểm họ thực hiện hành vi trái pháp luật
đó. Nếu chủ thể là tổ chức thì phải chú ý đến tư cách pháp nhân hoặc địa vị
pháp lý của tổ chức đó.
Khi xem xét khách thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới tính chất và tầm
quan trọng của khách thể để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm
pháp luật.
Khi xác định cơ sở pháp lý cho việc truy cứu TNPL đối với trường hợp
vi phạm pháp luật đó cần chú ý tới trước hết là thẩm quyền của cơ quan hay
nhà chức trách trong việc giải quyết vụ việc, trình tự, thủ tục để giải quyết vụ
việc đó, các biện pháp mà pháp luật quy định có thể áp dụng đối với chủ thể vi
phạm… Ngoài việc xác định các vấn đề đó còn phải xem xét cả thời hiệu truy
cứu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp vi phạm cụ thể đó và những trường
hợp được miễn trách nhiệm pháp lý (nếu có) khi tiến hành truy cứu TNPL.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý là thời hạn do pháp luật quy
định mà khi thời hạn đó kết thúc thì chủ thể vi phạm pháp luật sẽ không bị
truy cứu TNPL nữa. (Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời
điểm này đến thời điểm khác. Khoảng thời gian đó có thể tính bằng giờ, ngày,
tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện nào đó). Đối với các loại vi phạm
pháp luật khác nhau thì thời hiệu truy cứu TNPL được quy định khác nhau.
Pháp luật của nhiều nước không áp dụng thời hiệu quy cứu TNPL đối với một
số loại vi phạm pháp luật quá nguy hiểm gây thiệt hại lớn cho xã hội. Ví dụ:
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định không áp dụng thời hiệu quy cứu trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại
hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh.
13
Pháp luật cũng có thể quy định miễn trách nhiệm pháp lý cho một số
chủ thể trong những trường hợp nhất định.
Trách nhiệm pháp lý sẽ chấm dứt khi xảy ra sự kiện pháp lý thích ứng
như có quyết định ân xá, thời hạn trừng phạt đã kết thục, nộp phạt xong…
1.5. Các loại trách nhiệm pháp lý
TNPL có nhiều loại, thông thường chúng được chia thành: Trách nhiệm
hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và
trách nhiệm vật chất
- Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do
tòa án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội
- Trách nhiệm hành chính là loại TNPL do các cơ quan nhà nước hay nhà
chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các thủ thể vi phạm hành chính
- Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí
nghiệp, trường học… áp dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, sinh
viên, của cơ quan, xí nghiệp, trường học… của mình khi họ vi phạm pháp luật
- Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do tòa án hoặc các chủ
thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm dân sự
- Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, xí
nghiệp… áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân… của cơ quan, xí
nghiệp trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp
Để đảm bảo sự công bằng và tính hiệu quả trong việc truy cứu trách
nhiệm pháp lý đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ thể có thể áp
dụng một hoặc cùng đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lý
1.6. Những yêu cầu cơ bản đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý
Việc truy cứu TNPL đòi hỏi phải bảo đảm một số những yêu cầu cơ
bản sau:
+ Chỉ truy cứu TNPL đối với những hành vi trái pháp luật, có lỗi do
chủ thể có năng lực TNPL thực hiện
14
+ Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu TNPL. Tuân
thủ nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu TNPL là điều kiện vô cùng
quan trọng để việc truy cứu được tiến hành chính xác, đúng thẩm quyền, đúng
trình tự thủ tục, đúng pháp luật
+ Bảo đảm sự công bằng và nhân đạo trong hoạt động truy cứu TNPL
như không áp dụng những biện pháp trừng phạt nhằm làm nhục con người,
không áp dụng hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố) khi luật quy định TNPL
mới hoặc quy định TNPL nặng hơn, nếu sự thiệt hại do hành vi vi phạm pháp
luật gây ra: a/ Có thể khôi phục được thì phải có biện pháp khôi phục lại.
b/ Không thể khôi phục được thì sự trừng phạt phải nặng tương xứng
với thiệt hại.
c/ Nếu có ảnh hưởng về lâu dài thì cần áp dụng cả các biện pháp bảo
đảm khắc phục thiệt hại về lâu dài, đối với mỗi vi phạm pháp luật chỉ bị trừng
phạt một lần và chỉ áp dụng một biện pháp trừng phạt, trừ trường hợp cần
phải áp dụng biện pháp trừng phạt bổ sung hoặc trường hợp phải áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hai do hành vi vi phạm pháp luật gây ra, chịu
TNPL phải là đích danh chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (trong
một số lĩnh vực như pháp luật dân sự, kinh tế… có thể cho phép chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại thay cho chủ thể khác)
+ Bảo đảm tính phù hợp khi truy cứu TNPL, tức là, cần cá biệt hóa
biện pháp trừng phạt đối với mỗi chủ thể cụ thể phụ thuộc vào mức độ
nguy hiểm do hành vi của họ gây ra, nhân thân của chủ thể, hoàn cảnh xảy
ra vi phạm…, có thể sử dụng cả những tình tiết giảm nhẹ mà pháp luật
không quy định, lựa chọn biện pháp cưỡng chế phải phù hợp với mục đích
truy cứu TNPL và nếu mục đích truy cứu đã đạt được trước thời hạn so với
luật định thì có thể giảm nhẹ (chuyển từ tù giam sang cải tạo lao động…)
hoặc xóa trách nhiệm pháp lý.
15
+ Việc truy cứu TNPL phải được tiến hành kịp thời, nhanh chóng, công
minh, chính xác theo đúng pháp luật và phải đạt hiệu quả cao. Truy cứu trách
nhiệm pháp lý trước hết phải kịp thời, nhanh chóng, công minh và chính xác thì
tác dụng phòng ngừa và giáo dục mới cao. Trong hoạt động truy cứu TNPL
điều quan trọng không phải là trừng phạt nặng, mà là mọi vi phạm pháp luật,
đặc biệt là tội phạm đều bị phát hiện kịp thời, mọi tổ chức và cá nhân vi phạm
pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật. Việc truy cứu TNPL
đối với mỗi trường hợp cụ thể cần phải lựa chọn biện pháp cưỡng chế cho phù
hợp (nên phạt cảnh cáo, phạt tù hay phạt tiền…) mức độ cưỡng chế bao nhiêu
thì phù hợp (bao nhiêu năm tù? Bao nhiêu tiền? v.v ). Ngoài ra còn phải tính
đến khả năng thực hiện trên thực tế biện pháp cưỡng chế đã lựa chọn, ảnh
hưởng của việc truy cứu TNPL cụ thể đó đối với chính bản thân chủ thể vi
phạm, đối với gia đình họ hoặc những người có liên quan, tác dụng đối với
công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật trong xã hội như thế
nào…Chẳng hạn, việc truy cứu TNPL ngoài mục đích trừng phạt có cải tạo,
giáo dục được người vi phạm pháp luật hay không? Có tìm ra được những
nguyên nhân, những điều kiện dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong xã
hội hay không? Có đưa ra được những giải pháp gì cho việc phòng ngừa, đấu
tranh chống lại hiện tượng vi phạm pháp luật trong tương lai hay không? Có tác
dụng răn đe đối với những người chưa vi phạm pháp luật hay không…
Hiệu quả của hoạt động truy cứu TNPL còn thể hiện ở mức độ, tốc độ
và phạm vi xóa bỏ được các hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội, những
chi phí về sức người, về vật chất, về thời gian và những chi phí khác cho hoạt
động này.
1.7. Các hành thức trách nhiệm pháp lý trong việc xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật đất đai
Xử lý vi phạm pháp luật đất đai là việc áp dụng các hình thức trách
16
nhiệm pháp lý đối với người vi phạm nhằm mục đích buộc họ phải gánh chịu
những hậu quả pháp lý do hành vi và hậu quả của hành vi vi phạm gây ra
Với nguyên tắc mọi vi phạm phải được phát hiện, đình chỉ và xử lý kịp
thời. Việc xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất
cần phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để. Mọi hậu quả phải
được khác phục theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng các hình thức trách
nhiệm pháp lý khác nhau đối với người vi phạm là tùy thuộc vào tính chất và
mức độ của hành vi vi phạm. Theo đó vi phạm pháp luật đất đai có thể bị áp
dụng trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất hay
trách nhiệm hình sự.
2.1. Trách nhiệm hành chính
- Đối tượng có thể bị xử lý biện pháp hành chính là những người sử
dụng đất và những người khác nếu có hành vi làm trái với các quy định của
pháp luật, về chế độ sử dụng đất, phá vỡ trật tự quản lý đất đai như: lấn chiếm
đất đai, không sử dụng đất hoặc sử dụng không đúng mục đích, chuyển mục
đích sử dụng đất trái phép, hủy hoại đất, không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ các nghĩa vụ tài chính, các thủ tục hành chính, các quyết định
của Nhà nước trong quản lý đất đai, chuyển quyền sử dụng đất trái phép hoặc
các hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai nhưng người vi phạm mới thực
hiện hành vi đó lần đầu hoặc thiệt hại do hành vi gây ra không lớn, khả năng
phục hồi thiệt hại dễ dàng và người gây thiệt hại đã kịp thời khắc phục nên
chưa cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự
Ngoài ra, để bảo toàn phần giá trị tài sản của Nhà nước và nâng cao
trách nhiệm của những tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử
dụng đất hoặc đang sử dụng đất được Nhà nước công nhận quyền sử dụng
đất nhưng không phải chuyển sang thuê đất hoặc không phải trả tiền sử
dụng đất mà để đất bị lấn chiếm, thất thoát thì phải bồi thường và xử lý
17
theo quy định của pháp luật đối với giá trị quyền sử dụng đất của diện tích
đất bị lấn chiếm, thất thoát.
- Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính: người có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp chế tài đối với những hành vi vi phạm nói trên là ủy ban nhân
dân các cấp và các cơ quan thanh tra chuyên ngành về đất đai
- Hình thức xử phạt vi phạm hành chính: ngoài việc áp dụng hai hình
thức phạt chính như là cảnh cáo, phạt tiền tùy theo từng trường hợp ngươi vi
phạm có thể bị áp dụng hình thức phạt bổ sung và các biện pháp hành chính
khác như: thu hồi đất, buộc khôi phục lại tình trạng đất như trước khi bị thay
đổi do vi phạm hành chính gây ra
2.2. Trách nhiệm kỷ luật
Đối tượng chịu trách nhiệm kỷ luật là những người thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về đất đai có hành vi vi phạm như: lợi dụng chức vụ, quyền
hạn, làm trái với quy định của pháp luật trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất, thực hiện kế hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định nghĩa vụ tài chính về
đất đai, quản lý hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lý đất
đai, thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai
hoặc có hành vi khác gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất. Đó là những hành vi vi phạm nhưng ở mức độ nhẹ,
chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Việc xử lý các cán bộ, công chức có hành vi vi phạm trong khi thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai. Do người đứng đầu cơ quan quản
lý công chức có hành vi vi phạm ra quyết định kỷ luật
Nếu người đứng đầu cơ quan, đơn vị vi phạm kỷ luật thì người đứng
đầu cơ quan đơn vị quản lý cấp trên trực tiếp ra quyết định kỷ luật.
Về hình thức kỷ luật: Người quản lý đất đai vi phạm kỷ luật thì tùy theo
mức độ mà bị xử lý bằng một trong các hình thức kỷ luật như: Khiển trách,
cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc.
18
- Khiển trách: Là hình thức kỷ luật áp dụng với người quản lý đất đai
có hành vi vi phạm lần đầu, ở mức độ nhẹ.
- Cảnh cáo: được áp dụng đối với người quản lý đát đai đã bị khiển
trách về hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà còn tái phạm hoặc vi phạm ở
mức độ nhẹ nhưng khuyết điểm có tính chất thường xuyên hoặc tuy mới vi
phạm lần đầu nhưng có tính chất tương đối nghiêm trọng
- Hạ bậc lương: Áp dụng đối với người quản lý đất đai có hành vi vi
phạm nghiêm trọng, xét thấy không đủ phẩm chất đạo đức và tiêu chuẩn
nghiệp vụ chuyên môn của ngạch đang đảm nhiệm
- Cách chức: áp dụng đối với người quản lý đất đai có chức vụ mà hành
vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng xét thấy không thể tiếp tục đảm nhận chức
vụ được giao.
- Buộc thôi việc: Đây là hình thức kỷ luật nặng nhất áp dụng đối với
người quản lý đất đai khi có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật đất đai
Ngoài ra, để khắc phục hơn nữa tình trạng yếu kém, trong quản lý đất
đai, nâng cao tinh thần trách nhiệm, chống tiêu cực, tham nhũng và các hành
vi vi phạm pháp luật khác, Điều 143 Luật đất đai năm 2003 đặc biệt nhấn
mạnh trách nhiệm của chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp trong việc phát hiện,
ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai cũng như
xử lý trách nhiệm của thủ tướng, công chức, viên chức thuộc cơ quan quản lý
đất đai các cấp và cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn trong việc vi phạm
trình tự thực hiện các thủ tục hành chính.
2.3. Trách nhiệm hình sự
Căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi
phạm pháp luật đất đai là những vi phạm được quy định trong Điều 140, 141
Luật đất đai năm 2003. Theo đó người sư dụng đất có hành vi vi phạm đã xử
phạt hành chính mà còn vi phạm hoặc vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì
sẽ bị xử lý theo Điều 173 Bộ luật hình sự.
19
Đối với người quản lý có hành vi vi phạm pháp luật đất đai đã bị xử lý
kỷ luật mà còn vi phạm hoặc vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý
theo Điều 174 Bộ luật hình sự
Đối với người quản lý có hành vi vi phạm pháp luật đất đai đã bị xử lý
kỷ luật mà còn vi phạm hoặc vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử lý
theo Điều 174 Bộ luật hình sự
2.4. Trách nhiệm dân sự
Đối tượng chịu trách nhiệm dân sự là người sử dụng đất, người có trách
nhiệm quản lý đất đai hoặc những người khác có hành vi vi phạm pháp luật
đất đai hoặc những người khác có hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà gây
thiệt hại cho Nhà nước, cho người khác thì ngoài việc bị áp dụng một trong
những biện pháp trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm
hình sự còn phải bồi thường theo mức thiệt hại thực tế cho Nhà nước hoặc
cho người bị thiệt hại
Việc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm dân sự được áp dụng theo
nguyên tắc ngang giá, toàn bộ và kịp thời. Nghĩa là người gây thiệt hại đến
đâu thì phải bồi thường đến đó, việc bồi thường phải đầy đủ và thực hiện
nhanh chóng. Khác với các hình thức trách nhiệm khác, trong trách nhiệm dân
sự có một đặc điểm nổi bật là các bên có thể tự thỏa thuận với nhau về việc
bồi thường thiệt hại. Nếu không thỏa thuận được về mức bồi thường thiệt bại
thì bên thị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.
Tóm tại: Xử lý vi phạm pháp luật đất đai là nhằm ngăn ngừa và trừng
phạt những hành vi vi phạm đồng thời giáo dục ý thức chấp hành pháp luật,
bảo vệ những quan hệ, những giá trị được pháp luật ghi nhận. Đó cũng là vấn
đề có tính quyết định để duy trì trật tự kỷ cương và nâng cao hiệu quả trong
hoạt động quản lý đất đai ở nước ta hiện nay.
20
3.1. Trách nhiệm pháp lý của cán bộ công chức
3.1.1. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi cán bộ,
công chức thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự coi là
tội phạm. Cán bộ, công chức khi thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự như mọi công dân khác. Ngoài ra còn có những tội phạm có
tính đặc thù của cán bộ, công chức đó là những tội phạm gắn liền với chức vụ
Nhà nước như: tội hiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tội lợi dụng
chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tội giả mạo trong công tác, tội
nhận hối lộ
3.1.2. Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự là loại TNPL phát sinh khi cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm luật dân sự
Đối với cán bộ, công chức ngoài trách nhiệm dân sự thông thường như
mọi cá nhân, tổ chức khác còn phải chịu trách nhiệm trong trường hợp thực
hiện hoạt động bất hợp pháp hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm khi thực hiện
nhiệm vụ được giao gây thiệt hại cá nhân, tổ chức
3.1.3. Trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm đặt ra khi cá nhân, hoặc tổ
chức có hành vi vi phạm pháp luật hành chính.
Cán bộ, công chức vi phạm pháp luật hành chính cũng phải chịu trách
nhiệm như mọi cá nhân, tổ chức khác.
Việc truy cứu trách nhiệm hành chính được tiến hành theo thủ tục hành
chính và do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
3.1.4. Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ công chức
3.1.4.1. Khái niệm
Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ công chức là loại trách nhiệm pháp lý