Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 123 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




phạm đăng toàn





xây dựng nhà n-ớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa việt nam




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2011




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM ĐĂNG TOÀN





XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc







HÀ NỘI - 2011




MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: Cơ sở lý luận về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
5
1.1.
Khái quát sự hình thành và nội dung tư tưởng về Nhà nước
pháp quyền trong lịch sử nhân loại
5

1.1.1.
Sự hình thành và nội dung tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở
phương Tây
5
1.1.2.
Sự hình thành và nội dung tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở
phương Đông
9
1.2.
Khái niệm và đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
15
1.2.1.
Khái niệm Nhà nước pháp quyền
15
1.2.2.
Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
19
1.3.
Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
23
1.3.1.
Tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về Nhà
nước và pháp luật
23
1.3.2.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
24
1.3.3.
Quá trình nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
30
1.3.4.
Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
35



Chương 2: Khái quát về thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
41
2.1.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
một nội dung quan trọng của con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
41
2.1.1.
Tính tất yếu lịch sử và tính tất yếu khách quan của việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
41
2.1.2.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
một nội dung quan trọng của con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
42
2.2.
Những kết quả bước đầu trong việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dận,
do nhân dân, vì nhân dân; hạn chế, tồn tại và nguyên nhân

50
2.2.1.
Những kết quả bước đầu
50
2.2.2.
Những hạn chế, tồn tại
63
2.2.3.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
69

Chương 3: Những kiến nghị về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới
74
3.1.
Nhận thức rõ chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tiếp tục nghiên cứu, làm sâu
sắc hơn những luận điểm cơ bản đã được khẳng định
74
3.1.1.
Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
74
3.1.2.
Tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc hơn những luận điểm cơ bản
đã được khẳng định
75
3.2.
Nhận thức rõ những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

77
3.3.
Trong quan hệ giữa Nhà nước và công dân
82


3.4.
Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và
tổ chức thực hiện pháp luật là nhiệm vụ hết sức quan trọng
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
85
3.5.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được tổ chức và phân
công quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh
mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
87
3.6.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, vừa phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng vừa phải tránh
khuynh hướng buông lỏng hoặc bao biện, làm thay
89
3.7.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một Đảng cầm quyền
nhu cầu khách quan của sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
92
3.8.
Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán Hiến pháp ở Việt Nam

96
3.9.
Nhiệm vụ xây dựng bộ máy Đảng và Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và việc xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân với
hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước
100

Kết luận
109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
111



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của xã hội được đánh giá bằng những khác biệt về chất
giữa các hình thái, các giai đoạn lịch sử, chứ không phải dựa trên trật tự trước
sau, và vì thế cái phát triển hơn có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời với cái
kém phát triển hơn. Kiên định con đường cách mạng vô sản cũng có nghĩa là
chúng ta đang tiến hành xây dựng một xã hội ở trình độ phát triển cao hơn về
chất so với mọi xã hội đã tồn tại. Trong số các vấn đề cấp bách, cần được giải
quyết một cách triệt để về mặt lý luận, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trọng điểm.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thức IX đã khẳng định: Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của

Đảng. Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thể chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng ghi
nhận tại Điều 2: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân".
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một
trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân. Trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học pháp lý vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học pháp lý là
nghiên cứu Nhà nước pháp quyền với những vấn đề lý luận và thực tiễn. Thực
tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức (lý luận). Lý luận xác định mục tiêu, khuynh
hướng cho hoạt động thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn làm cho hoạt
động thực tiễn có hiệu quả hơn. Triết học Mác - Lênin đã khẳng định mối quan
hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, vấn đề Nhà nước pháp


2
quyền ở Việt Nam là vấn đề còn nhiều tranh luận, nhiều quan điểm khác
nhau.
Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài: "Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" cho luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc đẩy mạnh nghiên cứu những vấn đề lý luận về Nhà
nước pháp quyền và tổng kết kinh nghiệm xây dựng nó trong lịch sử nhân
loại, cũng như việc phân tích cụ thể những điều kiện thuận lợi và khó khăn
của đất nước, đang là một nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đến nay, mô hình lý luận về Nhà
nước pháp quyền và tư tưởng xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được
quan tâm nghiên cứu và bước đầu thu được một số kết quả: Như tăng cường
pháp chế; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng

pháp luật; Nhà nước pháp luật, khái niệm, đặc trưng cơ bản, điều kiện và con
đường hình thành Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Có thể nói, xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, nó thu
hút vào bản thân mình các nhà khoa học ở mọi lĩnh vực và Nhà nước pháp
quyền được tiếp cận ở nhiều chiều cạnh khác nhau. Đã xuất hiện nhiều ý kiến
khác nhau nhưng thống nhất với nhau ở việc đưa ra các đề xuất, kế sách để
sao cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền của chúng ta trở nên tối
ưu, hợp lý, đáp ứng được lòng dân, ý đảng và đã thu được nhiều kết quả.
Lý luận và thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền, có thể thấy
qua các công trình nghiên cứu của GS.TSKH. Đào Trí Úc, GS.VS. Nguyễn
Duy Quý, GS.TSKH. Lê Cảm, GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, GS.TS. Nguyễn
Đăng Dung, LS. Nguyễn Văn Thảo cùng các bài viết của các vị lãnh đạo
Đảng và Nhà nước và của nhiều tác giả khác. Tuy nhiên, quá trình xây dựng
và tăng cường nhà nước trong các năm qua cho thấy, hàng loạt vấn đề lý luận


3
về tổ chức và hoạt động của Nhà nước vẫn chưa được tổng kết làm rõ. Do
vậy, các giải pháp đổi mới và tổ chức hoạt động của Nhà nước được triển khai
trong nhiều giai đoạn lịch sử chưa đem lại các kết quả mong muốn. Sự bất cập
trong tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế vận hành của bộ máy này đang cản
trở việc phát huy vai trò của nhà nước ta trong cơ chế kinh tế mới. Nhận thức
lý luận về chế độ pháp quyền trong hoạt động nhà nước và xã hội vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển và do vậy chưa tạo lập được các cơ sở khoa
học vững chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp thực tiễn đối với đời sống nhà
nước. Chính vì thế, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp
quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta đang là một vấn đề cấp thiết
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:

Nhằm khảo sát các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, đồng
thời đưa ra nhận xét, đánh giá thực trạng và kiến nghị xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn cũng như thực trạng của việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở nước ta.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tổng kết lịch sử, tổng kết
các quan điểm về Nhà nước pháp quyền và luận chứng về tính tất yếu lịch sử
và tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, qua đó
nhận xét, đánh giá đúng thực trạng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền


4
và đưa ra kiến nghị nhằm đóng góp một phần ý tưởng của bản thân vào việc
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời gian tới.
4. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Từ đó đánh giá thực trạng của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các mặt đạt được và tồn tại, hạn chế cũng
như nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó. Đưa ra một số kiến nghị của bản
thân nhằm hướng tới việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các nguyên tắc của lý luận về Nhà nước và pháp luật, các

quan điểm của Đảng về Nhà nước, pháp luật trong thời kỳ đổi mới và sử dụng
vào việc tập hợp và xử lý tài liệu trong tiến hành nghiên cứu đối tượng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Chương 2: Khái quát về thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chương 3: Những kiến nghị về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới.



6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
VÀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG VỀ NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI
1.1.1. Sự hình thành và nội dung tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền
ở phƣơng Tây
Sự hình thành của tư tưởng về nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với
tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ,
vô pháp luật. Lịch sử tư tưởng Nhà nước pháp quyền là lịch sử hình thành và
phát triển của tư tưởng về sự hợp lý và sự công bằng của việc tổ chức một
hình thức chính trị hợp lý của đời sống xã hội. Khái niệm "Nhà nước pháp
quyền’ được các học giả phương Tây đưa ra từ thế kỷ XVIII - XIX nhằm
chống lại sự nhà nước chuyên chế, độc đoán, chuyên quyền. Nhà nước pháp

quyền không phải là một kiểu nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế - xã
hội trong lịch sử phát triển nhân loại.
Từ thời cổ đại người ta đã tìm kiếm các nguyên tắc, hình thức và cơ
cấu để thiết lập mối quan hệ qua lại, sự phụ thuộc lẫn nhau, sự tác động qua
lại, hài hòa giữa pháp luật và quyền lực. Quyền lực muốn trở thành sức mạnh
thực tế phải dựa vào pháp luật, đồng thời lại bị ràng buộc bởi pháp luật. Vào
thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, nhà thông thái Solon (638 - 559 TCN) đã
diễn đạt tư tưởng của mình: "Ta giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực
của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật" và đã đưa ra những
quy chế, những nguyên tắc tổ chức nhà nước, mong sao có sự nhượng bộ cho
nhân dân, hạn chế những đặc quyền, đặc lợi của giới quý tộc.
Aristote (384 - 322 TCN) đã đồng tình với tư tưởng của Solon, đề cao
vai trò của pháp luật tự nhiên trong việc tạo ra sự công bằng trong xã hội. Các


7
tư tưởng gia thời cổ đại như Heraclite (530 - 470 TCN), Platon (427 - 347 TCN)
cũng có quan điểm đề cao vai trò của pháp luật, coi luật có tính tối cao. Vào
thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên chế độ tư bản, những quan niệm mới
về nhà nước pháp quyền đều có ý nghĩa quan trọng là những vấn đề về quyền
lực chính trị dưới hình thức phân quyền phù hợp với tương quan mới của lực
lượng chính trị, xã hội, giai cấp, đồng thời loại trừ khả năng độc quyền hóa
trong tay một người hay một cơ quan.
Nhà tư tưởng người Anh là J. Locke (1632 - 1704) là người đầu tiên
khởi thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền,
được thể hiện trong tác phẩm "Khởi thảo thứ hai về chính quyền". Về quyền
lực nhà nước, ông cho rằng "chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan
lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là những cái phụ thuộc
vào nó". Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước và
phải thuộc về nghị viện; nghị viện phải họp định kỳ thông qua các đạo luật,

nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải
thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các
chức vị, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc
vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm
không cho phép vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm
vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh, tức
là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.
Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được nhà khai sáng
người Pháp, C.L.Montesquieu (1698 - 1755) phát triển. Ông đã phát triển một
cách toàn diện thông qua học thuyết phân quyền. Ông nhận thấy pháp luật
gồm nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy
nhất là trái với bản chất của nó; gắn với bản chất chế độ chuyên chế là tình
trạng lạm quyền. Vì vậy việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là
đồng thời, là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Trong tác phẩm "Tinh thần
pháp luật", ông đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch


8
các nhánh quyền lực và khẳng định: "Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ
quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp
và quyền thi hành những điều trong luật dân sự". Từ đó ông chủ trương phân
quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính
quyền không thể gây hại cho người bị trị và đảm bảo quyền tự do cho nhân
dân. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền
lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì
người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ
là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan
tòa sẽ có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan
chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực
nói trên thì tất cả sẽ mất hết.

Theo quan niệm của phương Tây, Nhà nước pháp quyền là khái niệm
đồng hành với khái niệm xã hội công dân, khi nói về lịch sử tư tưởng Nhà
nước chúng ta không thể không đề cập lịch sử tư tưởng xã hội công dân. Cơ
sở của xã hội công dân chính là tư tưởng của khế ước xã hội - tư tưởng của
Rousseau (1712-1778) được trình bày rõ trong tác phẩm "Bàn về Khế ước xã
hội", ông chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước
nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao tức toàn thể công dân trong xã hội.
Nhưng ông lại chỉ ra rằng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập
pháp và quyền hành pháp, giao chúng vào tay cơ quan quyền lực tối cao và
chính phủ là cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả
cho nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền.
Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa
các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải
thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống
lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện
không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia nó ra.


9
Trong lịch sử tư tưởng về Nhà nước pháp quyền phương Tây người ta
cũng thường gắn những dấu hiệu của nhà nước pháp quyền với quan niệm
phân quyền. Quan niệm về phân chia quyền lực trong xã hội: quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp. Để tránh lạm quyền, ba quyền đó cần
giao cho ba cơ quan khác nhau, có khả năng kiềm chế lẫn nhau, đó là điều
kiện chủ yếu để bảo đảm tự do chính trị trong Nhà nước.
I. Kant (1724 - 1804) cho rằng Nhà nước là tổ chức chính trị của xã
hội - một xã hội dân sự trong đó, mọi người đều phải phục tùng ý chí chung
được thể hiện dưới hình thức đạo luật và đạo luật đó phù hợp với pháp luật tự
nhiên. Theo Hêghen (1770 - 1831), pháp luật là tư tưởng tự do còn nhà nước
cũng chính là pháp luật, pháp luật cụ thể, có nội dung phong phú và là toàn bộ

hệ thống pháp luật, một hệ thống bao hàm việc thừa nhận mọi quyền khác -
quyền của cá nhân, của gia đình và của xã hội. Ông đặt Nhà nước lên trên hết,
trên xã hội và trên cá nhân và đề cao tính tối cao của luật, bởi vì luật của Nhà
nước chính là sự thể hiện cụ thể của pháp luật tự nhiên. Nhà triết học Heraclit
(530 - 470 TCN) thể hiện quan điểm cần phải kính trọng pháp luật của ông
trong tuyên bố: "Người dân cần phải chiến đấu bảo vệ cho pháp luật, như bảo
vệ ngôi nhà của mình" [20].
Nếu như tư tưởng nhà nước pháp quyền hình thành từ thời cổ đại, thì
thuật ngữ "Nhà nước pháp quyền" chỉ xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XIX ở
Đức. Các luật gia người Đức Rôbec phônmôhn, Cac Têôđô Vanke là những
người đầu tiên dùng thuật ngữ "Nhà nước pháp quyền". Các luật gia Đức đã
đề ra nguyên tắc về tính tối cao của luật như tiêu chuẩn quan trọng nhất của
nhà nước pháp quyền. Đó chính là sự bình đẳng của tất cả mọi người trước
pháp luật, tức là thừa nhận mục đích sống còn của tất cả mọi người không phụ
thuộc vào địa vị của họ, sự áp dụng các quy phạm chung phải thực sự khách
quan. Mục tiêu quan trọng hơn cả của nhà nước pháp quyền là: Làm thế nào
để tổ chức được đời sống chung của nhân dân sao cho mỗi thành viên trong


10
đó nhận được sự giúp đỡ và khuyến khích sự phát triển tự do tối đa và hoàn
thiện năng lực tổng hợp của mình.
1.1.2. Sự hình thành và nội dung tƣ tƣởng Nhà nƣớc pháp quyền
ở phƣơng Đông
Trong lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cũng đã tồn tại một loại
hình tư tưởng gần với nhà nước pháp quyền, đó là nhà nước pháp trị, đối lập
là đức trị. Những tư tưởng của loại hình Nhà nước này được sinh ra ở phương
Đông trong thời kỳ Nhà nước Trung Quốc cổ đại.
Nhà tư tưởng lớn nhất thời Trung Quốc cổ đại - Khổng Tử (551 - 479
TCN) đã xây dựng một học thuyết Nho giáo với nội dung đức trị. Sau đó

được Mạnh Tử, Tuân Tử, Đổng Trọng Thư và các đồ đệ khác bổ sung hoàn
chỉnh. Đạo Khổng đề cao "Nhân" và "Lễ", nghĩa là lấy nhân ái mà trị quốc và
khuyên dạy người ta làm những điều hợp với lễ nghĩa, cư xử đúng đạo lý
trong các quan hệ vua, tôi, cha con, vợ chồng. Trong đó, lấy tu nhân làm gốc,
bởi vậy nó không cần tới pháp luật. Nội dung cơ bản cách thức cai trị của Nho
giáo là đức trị - đề cao quy phạm đạo đức để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã
hội. Đề ra các chính sách nhằm thiết lập tôn ti, đẳng cấp, bắt dưới phục tùng
trên, mạt sát người lao động. Đức trị, lễ trị, nhân trị là một tính chất đặc trưng
của pháp luật Trung Quốc cổ đại, dùng quy phạm đạo đức để duy trì trật tự xã
hội của giai cấp chủ nô, phong kiến.
Đối lập với thuyết đức trị của Khổng Tử, thuyết pháp trị là học thuyết
chính trị của các nhà luật học phái pháp gia, sản sinh cùng thời với đạo Khổng
do Quản Trọng, Thương Uyển, Thân Bất Hại, Thận Đáo đề xướng, Hàn Phi
Tử phát triển và hoàn chỉnh. Nội dung cơ bản và quan điểm cai trị của học
thuyết là: Chỉ thừa nhận pháp luật và dùng nghiêm hình phạt, vì vậy không
thừa nhận Nho giáo. Theo thuyết pháp trị thì Vua trị nước phải có ba yếu tố:
pháp, thế, thuật. Nghĩa là: pháp luật, mệnh lệnh, chiếu chỉ của Vua là khuôn
mẫu của thiên hạ; nhằm trừng trị, răn đe, dân phải sợ, phải tuân thủ. Vua phải


11
có thế, phải tạo ra uy quyền tuyệt đối của mình. Vua phải có thuật dùng người
và chế độ thưởng phạt. Một khi Vua đã có đủ ba yếu tố pháp, thế, thuật thì
vua phải chuyên quyền, độc đoán, thẳng tay dùng nghiêm hình phạt để cai trị.
Mô hình pháp luật Trung Quốc đã ảnh hưởng lớn đến các nước phương Đông
từ thời cổ đại, trung đại, cận đại và cả đến ngày nay.
Nhà nước pháp trị không phải là Nhà nước pháp quyền, mặc dù cũng
đề cao pháp luật. Đó là luận điểm của các pháp gia Trung Quốc cổ đại, mà
đặc biệt của Hàn Phi Tử. Nhà nước có điểm tiến bộ là đã chống lại nhà nước
đức trị đã ngự trị hàng nghìn năm trước đó với hệ tư tưởng của đạo Khổng:

Hình phạt chỉ dành cho hạng thứ dân, mà bậc trượng phu không phải chịu
hình phạt. Nguyên tắc pháp trị chỉ dành cho bậc thần dân nô lệ, với sự phục
tùng đối với pháp luật tối thượng của nhà vua. Những người theo trường phái
pháp gia tuy đều có tư tưởng chung là đề cao vai trò của pháp luật, nhưng
không phải giữa họ có lập trường hoàn toàn giống nhau. Thương Ưởng là đại
diện cho một phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước; phái Thân Bất Hại
chủ trương dùng thế; phái Hàn Phi Tử chủ trương dùng thuật nhưng cũng kết
hợp với hai chủ trương trên. Hàn Phi Tử cho rằng, trong việc trị nước thì pháp
luật là cái quan trọng nhất, mọi việc làm của Vua đều phải dựa vào pháp luật,
ngay cả việc tiến cử người giữ những chức vụ nhất định cũng vậy. Một khi
pháp luật đã được ban hành thì việc thi hành pháp luật phải như nhau đối với
mọi người, có nghĩa là mọi người kể cả vua cũng bình đẳng trước pháp luật.
Việt Nam cũng có những nhân tố Nhà nước pháp quyền trong các
triều đại phong kiến, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, nhân tố Nhà nước pháp quyền trong các triều đại phong kiến.
Cách thức tổ chức và các định chế pháp luật của các triều đại trước
đây đều xuất phát từ ý niệm cơ bản, vua là "con" của Trời, nhận lệnh của Trời
để trị nước, an dân và tự coi mình là Thiên tử. Người lên ngôi vua, được coi là


12
thừa lệnh Trời, đều xưng hiệu Hoàng Đế. Từ Đinh Bộ Lĩnh (968) xưng hiệu
Tiên Hoàng đế đến Lê Đại Hành (980) xưng hiệu là Lê Đại Hành Hoàng Đế,
Lý Công Uẩn (1010) xưng Thuận Thiên Hoàng Đế và rất nhiều Vua sau này
đều xưng hiệu Hoàng Đế.
Đặc điểm của các quyền hành Hoàng đế, xét trên sự phân tích về các
nhân tố Nhà nước pháp quyền, thì Nhà vua có quyền hành hết sức rộng rãi và
tuyệt đối: Nắm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đặt ra pháp luật và
các đạo dụ; đứng đầu nền hành chính, có quyền bổ nhiệm, điều động, thăng

thưởng, bãi chức các quan trong triều và quan chức địa phương; là vị Thẩm
phán cao nhất, quyết định tối hậu về các vụ án hình sự cũng như dân sự.
Ngoài những quyền lực đó, Vua còn có những ưu quyền tuyệt đối,
xem dân như con cái, có quyền sinh sát đối với hết thảy mọi người, gặp vua
phải phục xuống bên vệ đường, ý nguyện của vua là thánh ý, thánh chỉ. Dấu
ấn của vua gọi là ngọc tỷ, nơi vua ở là cung cấm, y phục của vua màu vàng,
không ai được dùng màu đó.
Tuy nhiên, vẫn có một cơ chế hạn chế vương quyền mà sự hạn chế
này của các triều đại phong kiến ở nước ta chỉ là một cách đánh giá tương đối
so với trình độ phát triển bộ máy nhà nước giai đoạn lịch sử đó, bao gồm:
Một là, Nhà vua vẫn phải cai trị bằng một nền tư tưởng "Nho giáo",
chịu khuôn phép triết lý đó khi điều khiển hành vi cai trị của mình. Vua
không được làm gì trái với ý dân, ý dân là ý Trời, trái lệnh trời thì không còn
xứng đáng làm Hoàng đế. Nếu không đúng như vậy, nhà vua sẽ mang tiếng là
bạo chúa, hôn quân. Ảnh hưởng của Nho giáo dẫn đến chính sách thân dân
của các Hoàng đế Việt Nam đã hạn chế khá nhiều mức chuyên chế độc tài của
vương quyền. Do đó, ở nước ta những vị vua lấy dân làm gốc như Lý Thánh
Tông (1054 - 1071) nhiều hơn các vua tàn ác và bạo ngược như Lê Long Đĩnh
(1005 - 1009).


13
Hai là, chế độ đình nghị trong nhiều triều đại cho thấy nhà vua phải
họp với các quan văn võ trong triều để bàn xét việc nước, người dự họp có thể
có ý kiến khác với vua đều được thẳng thắn nói ý kiến của riêng mình. Cách
tổ chức chính quyền ở cấp trung ương đã dần phát triển, hình thành những tổ
chức và định chế can ngăn, giúp vua có thể sáng suốt hơn khi ra quyết định,
có nhiệm vụ giám sát các quan chức, cơ quan cấp cao của triều đình và đã
hình thành cơ chế kiểm soát của triều đình đối với các hoạt động hành chính ở
các cấp chính quyền địa phương.

Ba là, các biện pháp kiểm soát hoạt động hành chính địa phương khá
phong phú, đặc biệt là các biện pháp kiểm soát của triều đình đối với các làng,
xã, nhằm thực hiện phép nước. Chế độ làng xã tự trị ở Việt Nam là một chế
độ truyền thống, mỗi làng có phong tục, tập quán riêng, có cách thức điều
hành công việc trong làng, xã riêng, triều đình rất khó can thiệp, "phép vua
thua lệ làng". Phải tôn trọng chế độ tự trị đó, nhưng cũng phải thống nhất thi
hành phép nước, nhà vua đặt ra nhiều định chế nhằm kiểm tra các hành vi
hành chính của các quan chức làng, xã. Cơ quan chấp hành xã do toàn dân
trong xã bầu ra gồm Lý trưởng, Phó lý, Trương tuần phải được quan đầu tỉnh
duyệt y mới hợp lệ. Duyệt y dưới hình thức bổ nhiệm là một phương thức
kiểm soát của triều đình. Các biện pháp kiểm soát khác, từ biện pháp ôn hòa
như quân cấp công điền, chế độ thuế khóa, đến các biện pháp trừng phạt cá
nhân, trừng phạt cả làng đều được áp dụng.
Bốn là, chế độ tuyển dụng quan lại đều lựa chọn trong những người
trúng tuyển các kỳ thi do vua đặt ra, trở thành một cơ chế phát hiện nhân tài công
bằng và dân chủ, mọi người sang hèn, giàu nghèo ai cũng có quyền ứng thi, nếu
đỗ đạt đều được nhà vua trọng dụng. Chế độ tuyển dụng như vậy đã hình thành
một đội ngũ quan chức tài năng, hiểu biết, không chịu khuất mình làm điều xằng
bậy, là cơ sở để hình thành một bộ máy nhà nước biến đặt mình dưới kỷ cương,
phép nước. Tuyển dụng thông qua phương pháp thi cử là cách phổ biến nhất
của thời Trần, Lê, Nguyễn, nhưng không phải là phương pháp duy nhất mà


14
còn nhiều phương pháp khác như phương pháp chọn người có đạo đức, chọn
người thuộc con nhà gia thế, những người có tiền đóng góp cho đất nước.
Năm là, trong tất cả các thời vua chúa Việt Nam trước thời pháp
thuộc, chỉ có đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) bắt đầu đặt ra ở cấp đạo
(cả nước có 12 đạo) có ba tòa: Tòa đô coi việc binh, Tòa thừa coi việc hành
chính, Tòa hiến coi việc xử án. Cách thức tổ chức tư pháp riêng biệt, độc lập

là một nhân tố của Nhà nước có pháp quyền.
Trong lịch sử Việt Nam cũng đã có những biểu hiện của tư tưởng đề
cao tính tối cao của pháp luật, đặc biệt là giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XIV đến
giữa thế kỷ XVIII. Thời kỳ Lý - Trần (thế kỷ XII - XIV), các đời vua đã coi
trọng tới việc dùng pháp luật để trị nước. Thời Lê Sơ đã để lại cho chúng ta
nhiều công trình, văn bản luật đã được pháp điển hóa. Đó là Quốc triều hình
luật gồm 6 quyển (do Nguyễn Trãi biên soạn vào những năm 1440 - 1442),
đây là Bộ luật quan trọng và chính thống không chỉ trong thời Lê Sơ mà còn
đối với cả triều Hậu Lê nói chung (1428 - 1789) Luật này được ban hành vào
thời Lê Thánh Tông (năm 1483 - niên hiệu Hồng Đức) nên còn được gọi là
Bộ luật Hồng Đức. Tư tưởng pháp trị của triều Lê đã rõ, tuy nhiên việc dùng
pháp luật để quản lý xã hội không thể tránh khỏi những hạn chế về quan
điểm, sự công bằng, tính khách quan của pháp luật. Nhưng đây có thể được
coi là những nhân tố của tư tưởng Nhà nước pháp quyền.
Vào giữa thế kỷ XIX, lịch sử Việt Nam có một nhân vật theo chủ
nghĩa cách tân, ủng hộ quan điểm pháp trị và ở chừng mực nhất định đã có
suy nghĩ về tính khách quan của pháp luật, sự bình đẳng của mọi người, kể cả
vua trước pháp luật. Người đó là Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) đã có
quan điểm cho rằng nói đến phép trị nước tức là phải nói đến dùng pháp luật
để duy trì trật tự xã hội. Luật pháp, theo quan điểm của ông phải hợp với lòng
người, lòng trời. Muốn vậy, luật pháp không nên cưỡng ép mà phải xét đến


15
những yếu tố trọng tâm, tức là được xây dựng trên cơ sở tự do và công bằng.
Luật đã được ban hành thì phải được mọi người tuân thủ, mọi người đều bị
ràng buộc bởi pháp luật, kể cả những người đã ban hành ra luật. Ông ủng hộ
chủ nghĩa cách tân và cho rằng muốn cách tân phải có những con người cách
tân, những con người khép mình theo pháp luật chung.
Như vậy, có thể nói rằng, trong tư tưởng cách tân, quan điểm ủng hộ

thuyết pháp trị của Nguyễn Trường Tộ ở mức độ nhất định đã có những dấu
hiệu của tư tưởng về một nhà nước pháp quyền. Đó là vì, quan niệm của
Nguyễn Trường Tộ về pháp luật: "Pháp luật không phải là sản phẩm của sự
duy ý chí, một khi pháp luật đã ban hành thì phải thực hiện nguyên tắc mọi
người (kể cả vua) đều phải bình đẳng trước pháp luật" [27, tr. 26].
Thứ hai, nhân tố Nhà nước pháp quyền từ Cách mạng tháng Tám
năm 1945 trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng tư tưởng pháp quyền cho Nhà
nước và xã hội Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945 và bản Hiến
pháp đầu tiên năm 1946 đã ghi nhận phản ánh những ý tưởng, nhân tố Nhà
nước pháp quyền trong cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, thực hiện
một chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân. Tổ chức chính quyền Việt
Nam có những đặc điểm của một bộ máy hiện đại, dân chủ có hiệu lực từ
trung ương đến cơ sở, mặc dù trong một giai đoạn đất nước bị chia cắt bởi
chiến tranh. Với Bản Hiến pháp năm 1946 và nhiều sắc lệnh được ban hành từ
năm 1945 đến năm 1959, một thể chế bộ máy có nhiều nhân tố của một Nhà
nước pháp quyền đã hình thành. Tiêu chuẩn về một chính quyền mạnh, một
chính quyền sáng suốt, một chính quyền của nhân dân, do dân thành lập và
hoạt động vì nhân dân là một tư tưởng nhất quán và liên tục, một quan niệm
cốt lõi của Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Như phân tích ở trên, trong nội dung tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở
phương Tây và ở phương Đông chứa đựng những đặc trưng chung như sau:


16
Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; Tôn trọng và bảo vệ
quyền công dân và quyền con người; Bảo đảm và phát huy dân chủ; Sự ngự
trị của pháp luật trong đời sống Nhà nước và xã hội; Tổ chức theo nguyên tắc
phân định quyền lực, dùng quyền lực kiểm tra và giám sát quyền lực; Nhà
nước pháp quyền gắn bó mật thiết với xã hội công dân; có quan niệm đúng về

mối tương quan giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế; Nhà nước pháp
quyền là một trong những thành tựu của loài người trong việc tổ chức và vận
hành xã hội. Những ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ lâu trong lịch
sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội học, sử học
nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau, được định nghĩa bằng những
ngôn ngữ và diễn đạt khác nhau, song về bản chất có thể tóm lại như sau: nhà
nước pháp quyền là nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng
pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự
do, dân chủ của nhân dân và công lý.
Như vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có
thể thấy rằng một nhà nước pháp quyền phải là nhà nước chịu sự kiểm soát,
sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƢNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN
1.2.1. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền
Nhà nước pháp quyền được nghiên cứu từ rất lâu nhưng cho đến nay,
vẫn chưa có một khái niệm chung nhất về Nhà nước pháp quyền. Các nhà
nghiên cứu tùy theo góc độ nghiên cứu, nội dung, mục đích nghiên cứu khác
nhau mà đưa ra những khái niệm riêng. Có người đưa ra khái niệm nhà nước
pháp quyền trên cơ sở lý luận, cũng có người nhìn nhận khái niệm nhà nước
pháp quyền từ thực tiễn, có người tiếp cận khái niệm nhà nước pháp quyền từ
góc độ cụ thể, cũng có người đưa ra khái niệm trên cơ sở liệt kê các dấu hiệu
đặc trưng của nó, cũng có người tiếp cận khái niệm bằng cách phân tích mối


17
quan hệ giữa khái niệm Nhà nước pháp quyền với những khái niệm khác gần
gũi. Quan điểm của giới khoa học Việt Nam về Nhà nước pháp quyền: ở Việt
Nam hiện nay thuật ngữ Nhà nước pháp quyền xuất hiện khá nhiều trên các
phương tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên khi khảo sát trong Từ điển Tiếng

Việt, mục từ này chưa được định nghĩa. Trong Đại từ điển Tiếng Việt chỉ có
mục từ "pháp quyền" được xác định về mặt từ loại là danh từ và định nghĩa là
"hệ thống pháp luật tiêu biểu cho quyền lực của một nhà nước, một chế độ"
[29].
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức Nhà nước và
sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Có cơ chế kiểm soát quyền lực, Nhà nước
được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật. Pháp luật có tính khách quan, nhân đạo, công
bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người [11].
GS.TSKH Đào Trí Úc cho rằng:
Nhà nước pháp quyền trên bình diện học thuyết, quan niệm,
tư tưởng thì phải được hiểu như những đòi hỏi về dân chủ và về
phương thức thực hiện quyền lực, và nhà nước pháp quyền đòi hỏi
phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức
pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị. Đó là hai yếu tố không thể
thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền [26].
Tại Hội nghị quốc tế họp tại Benin (9/1991) với sự tham gia của 40 nước
đã đưa ra một khái niệm về Nhà nước pháp quyền có thể tham khảo như sau:
Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó Nhà nước và cá nhân
phải tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ, các quy trình, các quy phạm pháp luật được bảo đảm thực


18
hiện bằng một hệ thống tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn
trọng giá trị cao nhất của con người và bảo đảm cho công dân có khả năng,
điều kiện chống lại sự tùy tiện của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ

máy Nhà nước. Nhà nước pháp quyền đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi
bởi những cái ngoài Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong hệ thống pháp
luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở bảo
đảm quyền tự do và quyền công dân.
Tuy có nhiều khái niệm khác nhau, song qua đó ta cũng phần nào hiểu
được Nhà nước pháp quyền là gì và giữa các khái niệm đó vẫn có sự giống
nhau về nội hàm của nó. Về cơ bản, Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao
của pháp luật, đòi hỏi chính Nhà nước cũng phải đặt dưới pháp luật và Nhà
nước đó đảm bảo được quyền, lợi ích cơ bản của công dân, nói chung là phải
đảm bảo dân chủ. Từ đó, ta có thể khẳng định địa vị tối cao của pháp luật và
dân chủ chính là hai thuộc tính cơ bản, bản chất của Nhà nước pháp quyền. Vì
vậy, dựa vào hai thuộc tính cơ bản của Nhà nước pháp quyền mà tác giả đã
nêu ở trên, chúng ta có một khái niệm về Nhà nước pháp quyền rất ngắn gọn
như sau: "Nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật và bảo đảm
dân chủ". Trong khái niệm này, để hiểu rõ về nội hàm của nó cần hiểu rõ hai
cụm từ "thượng tôn pháp luật và dân chủ". Thượng tôn pháp luật tức là pháp
luật phải được đặt ở vị trí cao, lên trên hết, điều chỉnh tất cả các hành vi xử sự
mọi cá nhân, tổ chức. Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp là đạo luật có
hiệu lực pháp lý cao nhất mà các văn bản pháp luật khác không được phép trái
với nội dung và tinh thần của nó. Sở dĩ như vậy là vì pháp luật của nhà nước
suy cho cùng thì đó là pháp luật của nhân dân, Nhà nước đại diện cho ý chí và
quyền lợi của nhân dân mà soạn ra pháp luật. Để quản lý tốt mọi mặt của xã
hội thì pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh, không kể bất kỳ ai. Dân
chủ được hiểu đơn giản là "nhân dân là chủ", quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Đảm bảo dân chủ tức là nhà nước phải đảm bảo các quyền cơ bản
nhất của công dân, đó là "quyền tự nhiên", quyền tạo hóa ban cho họ, chẳng


19
hạn như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu

hạnh phúc và Nhà nước phải bảo đảm nhân dân là chủ, quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền, chúng ta cần phải làm rõ
quan điểm: Nhà nước pháp quyền không phải là nhà nước mới trong lịch sử.
Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, khái niệm kiểu Nhà nước được
định nghĩa là: "Kiểu Nhà nước là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của
nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của
Nhà nước trong một trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định". Lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật cũng chỉ rõ: Cơ sở để xác định kiểu nhà nước
là học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Mỗi kiểu nhà nước phù
hợp với một chế độ kinh tế xã hội nhất định của một xã hội có giai cấp. Dựa
vào đây, có bốn kiểu Nhà nước trong lịch sử nhân loại, tính đến thời điểm này
là: Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền không phải là một Nhà nước
của một hình thái kinh tế xã hội mới. Tuy nhiên, Nhà nước pháp quyền có thể
được xem là yếu tố của hình thức nhà nước. Theo lý luận chung về Nhà nước
và pháp luật, hình thức nhà nước là cách tổ chức và những phương pháp thực
hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền như trên đã phân tích, để đảm
bảo tính dân chủ thì đòi hỏi Nhà nước được gọi là Nhà nước pháp quyền phải
có cách thức, phương thức tổ chức, hoạt động hợp lý. Điều này thỏa mãn khái
niệm hình thức Nhà nước. Lý luận chung về nhà nước và pháp luật xác định
các yếu tố của hình thức Nhà nước gồm có: hình thức thể chế, hình thức cấu
trúc Nhà nước và chế độ chính trị. Vấn đề đặt ra là Nhà nước pháp quyền là
yếu tố mới của hình thức Nhà nước hay là một trong những yếu tố trên. Hình
thức chính thể của Nhà nước tức là xem Nhà nước đó là cộng hòa hay quân
chủ, hình thức cấu trúc thì xem xét nhà nước đó là đơn nhất hay liên bang, chế
độ chính trị là xem xét tính dân chủ của Nhà nước. Như vậy, ta thấy Nhà nước
pháp quyền không phải là một yếu tố mới của hình thức Nhà nước cũng



20
không phải là một trong những yếu tố nói trên của hình thức Nhà nước mà
Nhà nước pháp quyền hòa vào ba yếu tố đó, trở thành yếu tố nội tại trong
từng yếu tố đó.
Ngày nay, dù chính thể nào, cộng hòa hay dân chủ, hình thức cấu trúc
nào thì vẫn có thể xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, Nhà nước pháp
quyền chỉ là hình thức của Nhà nước có tính dân chủ. Điều đó có nghĩa là Nhà
nước pháp quyền là hình thức nhà nước nhưng là hình thức nhà nước đặc biệt
chỉ tồn tại trong xã hội có tính dân chủ.
1.2.2. Đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền
Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan
điểm tư tưởng rất phức tạp, phong phú và có cách tiếp cận khác nhau. Tuy
vậy, nghiên cứu tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử có thể khái
quát được những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau:
Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp
và các đạo luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phản ánh ý chí chung
của nhân dân, lợi ích chung của toàn xã hội.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các
quyền tự do, dân chủ của công dân. Nhà nước pháp quyền không chỉ công
nhận và tuyên bố các quyền tự do của công dân, mà còn phải bảo đảm thực
hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là
được làm những gì pháp luật không cấm trong khuôn khổ không xâm phạm
đến tự do của người khác. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau giữa
nhà nước và công dân, quyền của công dân là trách nhiệm của nhà nước và
ngược lại, quyền của nhà nước là trách nhiệm trước công dân về những hoạt
động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và
chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật của mình.



21
Với bản chất tiến bộ và nhân đạo, các tư tưởng và quan điểm khoa học
về nhà nước pháp quyền đã trở thành một giá trị văn minh của nhân loại. Xu
thế chung của các quốc gia trên thế giới là hướng tới xây dựng nhà nước pháp
quyền và học thuyết về nhà nước pháp quyền lại tiếp tục được bổ sung, hoàn
thiện. Hiện nay, trong lý luận còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm
và các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền, nhưng quan điểm chung đều
cho rằng nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Trong lịch
sử loài người chỉ có bốn kiểu nhà nước là nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản
và xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền là hình thức phân công và tổ chức
quyền lực nhà nước.
Học thuyết nhà nước pháp quyền áp dụng ở các nước tư bản (học
thuyết "tam quyền phân lập") gắn liền và phù hợp với chế độ chính trị đa
đảng. Các đặc điểm, tiêu chí của nhà nước pháp quyền có những mức độ thể
hiện khác nhau ở các quốc gia tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Có thể nói về nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước - một trong những
tiêu chí quan trọng của nhà nước pháp quyền tư sản thì các nước cũng có cách
áp dụng khác nhau, không theo một khuôn mẫu chung. Có những nhà nước tư
sản áp dụng việc phân quyền một cách mềm dẻo (ở các nhà nước theo chính
thể cộng hòa đại nghị, giữa hành pháp và lập pháp có sự phối hợp với nhau và
hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp); có những nhà nước áp dụng
việc phân quyền một cách cứng rắn (ở các nhà nước theo chính thể cộng hòa
tổng thống có sự độc lập của các cơ quan quyền lực, hành pháp không chịu
trách nhiệm trước lập pháp). Như vậy, có thể thấy rằng không có một khuôn
mẫu cố định của học thuyết nhà nước pháp quyền để áp dụng chung cho mọi
nhà nước tư sản với các hình thức nhà nước khác nhau và càng không thể có
một khuôn mẫu chung về nhà nước pháp quyền áp dụng chung cho mọi nhà
nước với những chế độ chính trị khác nhau; ngay đối với một đất nước thì
cách thức tổ chức và phân công quyền lực nhà nước cũng không phải là bất

×