Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp bộ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 117 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




Phạm THị anh đào





Xây dựng và ban hành Văn bản
quy phạm pháp luật của cấp bộ trong điều kiện
xây dựng nhà n-ớc pháp quyền
ở việt nam hiện nay




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2009




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



Phạm THị anh đào



Xây dựng và ban hành Văn bản
quy phạm pháp luật của cấp bộ trong điều kiện
xây dựng nhà n-ớc pháp quyền
ở việt nam hiện nay

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01


luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái


Hà nội - 2009





Mục lục


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Mở đầu
1

Chương 1: Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu của
nhà nước pháp quyền đối với chất lượng ban
hành văn bản quy phạm pháp luật cấp bộ
7
1.1.
Khái quát về nhà nước pháp quyền
7
1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền
7
1.1.2.
Văn bản quy phạm pháp luật, vai trò hoạt động xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền
14
1.1.3.
Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đối với chất lượng hoạt
động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
cấp Bộ
17
1.2.
Chất lượng hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật cấp Bộ
22
1.2.1.
Quan niệm về chất lượng hoạt động xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
22
1.2.2.
Tiêu chí đánh giá chất lượng văn bản quy phạm pháp luật
cấp Bộ
29

Chương 2: Thực trạng chất lượng xây dựng và ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp
Bộ ở Việt Nam hiện nay
35
2.1.

Về thẩm quyền và quy trình xây dựng ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của cấp Bộ
35


2.1.1
Về thẩm quyền ban hành và trách nhiệm trong việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
35
2.1.2
Về thực hiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật cấp Bộ
40
2.2.
Về chất lượng nội dung văn bản quy phạm pháp luật của
cấp Bộ
56
2.2.1.
Về tính hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
56
2.2.2.
Về tính hợp lý của văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
65
2.3.
Những nguyên nhân, nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp Bộ
72
2.3.1.
Sự hội nhập dẫn đến công cuộc cải cách đặt ra nhiều vấn đề
khó và mới, cùng với một số lượng lớn những công việc

dẫn tới tình trạng quá tải, bất cập về năng lực và điều kiện
thực hiện nhiệm vụ
72
2.3.2.
Lực lượng, chất lượng và kỹ năng của cán bộ làm công tác
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở các Bộ ngành chưa
đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của quá trình hội nhập
74
2.3.3.
Việc phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức trong góp ý và tổ
chức tiếp thu ý kiến hoàn thiện dự thảo còn nhiều hạn chế,
đồng thời giai đoạn thẩm định dự thảo chưa được đề cao,
thiếu cơ chế giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy trình xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
75
2.3.4.
Chưa có trách nhiệm pháp lý rõ ràng đối với cơ quan, cá
nhân chịu trách nhiệm thẩm tra, thẩm định dự thảo trong
quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật cấp Bộ
76
2.3.5.
Nguồn kinh phí cho hoạt động xây dựng và ban hành văn
bản quy phạm pháp luật cấp Bộ còn hạn chế
77



Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất
lượng hoạt động xây dựng và ban hành Văn

Bản Quy Phạm Pháp Luật của cấp Bộ trong
điều kiện Xây dựng Nhà nước Pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay
79
3.1.
Phương hướng nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp bộ
79
3.1.1.
Nâng cao hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật cấp Bộ là yếu tố cần thiết trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
79
3.1.2.
Phương hướng nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy
phạm pháp luật cấp Bộ
81
3.2.
Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng và
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp Bộ ở Việt
Nam hiện nay
86
3.2.1.
Giải pháp về hoàn thiện về thể chế
86
3.2.2.
Giải pháp về hoàn thiện tổ chức soạn thảo ban hành
88
3.2.3.
Giải pháp hoàn thiện thực hiện quy trình xây dựng, ban

hành văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
90
3.2.4.
Giải pháp hoàn thiện các hoạt động lấy ý kiến đóng góp,
thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
92
3.2.4.1.
Hoạt động lấy ý kiến đóng góp dự thảo văn bản
92
3.2.4.2.
Hoạt động thẩm định dự thảo văn bản
95
3.2.4.3.
Hoạt động kiểm tra văn bản
96
3.2.5.
Giải pháp về nâng cao năng lực trình độ và phương pháp xử lý,
kinh nghiệm thực tiễn của các chủ thể tham gia vào hoạt động
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
97
3.2.6.
Giải pháp về nâng cao chất lượng cơ sở vật chất- kỹ thuật
99

Kết luận
102

Danh mục tài liệu tham khảo
103




Danh mục các từ viết tắt

NNPQ
: Nhà nước pháp quyền
VBQPPL
: Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa



1
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước
nói chung và cơ quan quản lý nhà nước nói riêng đã được đề cập nhiều trong
các Văn kiện của Đảng, Hội nghị Trung ương 8 khoá VIII tháng 1 năm 1995
đã chỉ rõ: "Đổi mới quy trình lập pháp, lập quy, cải tiến sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan của Quốc hội của Chính phủ để bảo đảm tính kịp thời
và nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật" [15]. Hội nghị Trung ương 3
khóa VIII, Đại hội trung ương VIII, IX và Đại hội X của Đảng Đặc biệt là
Nghị quyết số 48 ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, trong đó chỉ rõ phương hướng xây dựng hoàn thiện
pháp luật về tổ chức, hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước phù
hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam của dân, do dân và vì dân.

Đáp ứng yêu cầu đề ra trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện
nay Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà một
trong những trọng tâm là việc cải cách hành chính. Trong đó có việc cải cách về
tổ chức và hoạt động, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) của các cơ quan nhà nước theo Luật Ban hành VBQPPL 2008 được
Quốc hội thông qua ngày 03/06/2008 có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 thay cho
Luật Ban hành VBQPPL năm 1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Ban hành VBQPPL năm 2002. Thực tiễn những năm qua cho thấy hoạt
động xây dựng, ban hành VBQPPL đã có những chuyển biến đáng kể về số
lượng cũng như chất lượng, trong đó có đóng góp rất lớn của cấp Bộ. Tuy nhiên
thực tế còn không ít những bất cập, hạn chế từ khung pháp lý hiện hành và trong


2
thực tiễn ban hành VBQPPL, tình trạng các VBQPPL của cấp Bộ ở nước ta còn
chồng chéo, chưa toàn diện, thiếu tính đồng bộ thống nhất, ít tính khả thi…
Do vậy đây chính là một thức thách lớn trong công cuộc xây dựng
NNPQ XHCN với mục đích lấy con người làm trung tâm, nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật, pháp luật phải vì con người - đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài "Xây dựng và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của cấp Bộ trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu nhằm mục đích đáp
ứng yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động ban hành
VBQPPL của Nhà nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, ở nước ta đã có nhiều những công trình khoa
học, đề tài nghiên cứu cũng như các bài báo và các tác phẩm nghiên cứu về
khung pháp luật về hoạt động xây dựng và ban hành cũng như việc nâng cao

chất lượng ban hành VBQPPL nói chung và VBQPPL của các cơ quan nhà
nước nói riêng. Đây là đề tài thu hút rất nhiều các nhà khoa học khác nhau
như luật học, hành chính học, văn bản học… được tiếp cận vấn đề dưới nhiều
góc độ, cách nhìn khác nhau như các công trình sau:
- "Hoàn thiện thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội", của Nguyễn Công Long, Luận
văn thạc sĩ hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, 2004.
- "Quá trình và phương pháp đánh giá hệ thống văn bản Quản lý hành
chính Nhà nước ta", của Vương Thanh Thủy, Luận văn thạc sĩ hành chính
công, Học viện Hành chính Quốc gia, 2006.
- "Xây dựng và ban hành văn bản hành chính của Bộ Nội vụ", của
Nguyễn Thanh Bình, Luận văn thạc sĩ hành chính công, Học viện Hành chính
Quốc gia, 2005.


3
- "Vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật", của Trần Hoài Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
- "Văn bản quy phạm trái luật và xử lý Văn bản quy phạm trái luật"
của Bùi Thị Đào, Tạp chí Luật học, số 10/2007

Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu phân tích dưới góc độ quá trình xây
dựng và ban hành VBQPPL của các cơ quan chính quyền địa phương, trung
ương cụ thể và cũng có các tác phẩm nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đến
chất lượng của các VBQPPL nhưng ở những mức độ và phạm vi khác nhau.
Chính vì vậy, cho đến nay công trình nghiên cứu về hoạt động xây dựng và
ban hành VBQPPL của cấp Bộ trong điều kiện nước ta xây dựng NNPQ
XHCN còn rất hạn chế nên tác giả lựa chọn vấn đề trên để làm đề tài nghiên
cứu cho mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của việc nghiên cứu là trên cơ sở lý luận về NNPQ cũng
như các quy định pháp luật thực định về hoạt động xây dựng, ban hành
VBQPPL nói chung và VBQPPL của cấp Bộ nói riêng để từ đó làm rõ những
quan điểm khoa học về những yêu cầu NNPQ đối với việc nâng cao chất
lượng xây dựng, ban hành VBQPPL cấp Bộ, đồng thời chỉ ra những tiêu chí
đánh giá chất lượng hoạt động ban hành VBQPPL cấp Bộ. Từ đó đưa ra những
đánh giá thực tiễn hoạt động ban hành VBQPPL cấp Bộ ở Việt Nam hiện nay.
Đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt
động xây dựng, ban hành VBQPPL của cấp Bộ, tiến tới xây dựng một hệ thống
pháp luật hoàn thiện, đồng bộ về cả hình thức lẫn nội dung tạo cơ sở pháp lý
cho việc bảo đảm và tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước bằng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng


4
yêu cầu hội nhập quốc tế phù hợp với nhiệm vụ xây dựng NNPQ XHCN ở
Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra của việc nghiên cứu là:
Đưa ra quan niệm về nhà nước phỏp quyền, những yờu cầu của NNPQ đối
với chất lượng và hoạt động xõy dựng, nõng cao chất lượng ban hành VBQPPL
cấp Bộ, chỉ ra những đặc điểm của VBQPPL núi chung và VBQPPL của cấp Bộ
nói riêng đồng thời khẳng định vị trí vai trò của cơ quan nhà nước cấp bộ trong
hoạt động lập pháp và lập quy. Thấy được sự cần thiết trong việc xây dựng và
ban hành VBQPPL của cấp Bộ, mối quan hệ của chúng trong việc bảo đảm
quyền lợi ích hợp pháp của công dân thông qua các VBQPPL đó, xác định tiêu
chí đánh giá chất lượng hoạt động ban hành VBQPPL của cấp Bộ; phân tích
những thực trạng, những thành tựu và những hạn chế, tồn tại yếu kém trong
công tác soạn thảo, xây dựng các VBQPPL của cấp Bộ trong thời gian qua. Từ
đó tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế tồn tại, yếu kém đó, xác lập cơ

sở lý luận, đề xuất một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện nâng cao chất
lượng VBQPPL của cấp Bộ trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN ở Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những VBQPPL của cấp bộ ban hành dưới
hình thức: Các quyết định, các chỉ thị, các thông tư và các thông tư liên bộ
theo quy định pháp luật trong mối liên hệ thực tiễn với các điều kiện chính trị,
kinh tế xã hội của đất nước cũng như vấn đề thực hiện VBQPPL của cấp Bộ,
ngành địa phương trong cả nước. Do sự hạn chế của luận văn, trong phạm vi
đề tài tập trung chủ yếu vào một nội dung đó là hoạt động xây dựng và ban
hành VBQPPL của cấp Bộ theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2002 (vẫn còn
một số VBQPPL của cấp Bộ dưới hình thức quyết định, chỉ thị); Luật Ban
hành VBQPPL năm 2008 và Nghị định 24/2009 NĐ-CP. Do đó việc thể hiện


5
trong luận văn đối tượng nghiên cứu chính là những hoạt động thực tế trong
công tác xây dựng và ban hành trên cơ sở sự phân tích về chất lượng nội dung
cũng như hình thức VBQPPL của cấp Bộ trong việc bảo đảm, thực hiện
quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật trong công cuộc xây dựng NNPQ XHCN của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: Phương pháp
thống kê, tổng hợp, phân tích, trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
nhằm đánh giá, kết luận và đưa ra những giải pháp, phương hướng cụ thể
nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của luận văn.

6. ý nghĩa của luận văn
Hệ thống hóa các quan điểm về NNPQ, yêu cầu của NNPQ trong
hoạt động xây dựng, ban hành VBQPPL.
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về VBQPPL của cấp Bộ; vai trò, ý
nghĩa trong việc xây dựng và ban hành VBQQPL của cấp Bộ trong điều kiện
xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của
công dân.
Khái quát hóa thực trạng chất lượng về nội dung, hình thức như tính
hợp pháp, hợp lý, tính cụ thể, tính kịp thời…trong việc ban hành VBQPPL
của cấp Bộ hiện nay, gắn liền với những điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội…,
xác định những thành tựu cũng như những hạn chế trong việc xây dựng và
bảo đảm quyền lợi ích của công dân thông qua các VBQPPL của cấp Bộ ban
hành


6
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt
động xây dựng, ban hành VBQQPL của cấp Bộ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu của nhà nước
pháp quyền đối với chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ.
Chương 2:Thực trạng chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của cấp Bộ ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp Bộ trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.





7
Chương 1
Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu
của nhà nước pháp quyền đối với chất lượng
ban hành văn bản quy phạm pháp luật cấp bộ

1.1. Khái quát về nhà nước pháp quyền
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nhà nước pháp quyền
Tư tưởng và học thuyết về NNPQ ra đời rất sớm trong lịch sử nhân
loại, nó được phản ánh trong tư tưởng các học thuyết chính trị pháp lý của cả
phương Đông và phương Tây với các học thuyết chính trị pháp lý tiêu biểu
của Trung Hoa thời cổ trung đại, như Nho Gia, Mặc Gia, Đạo Gia và Pháp
Gia điển hình như những nhà tư tưởng tiêu biểu như Khổng Tử; Hàn Phi Tử
Các học thuyết này đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt xung quanh vấn đề trị
nước, an dân bình thiên hạ bằng cách thức nào, dùng pháp trị hay đức trị. Mặc
dù giữa các hệ tư tưởng lớn này có nhiều sự khác biệt song cũng gặp nhau ở
những điểm chung như một tất yếu Logic và lịch sử, trong đó thể hiện phần
nào chứa đựng những nhân tố NNPQ.
ở Phương Tây, tư tưởng NNPQ ra đời ngay trong lòng của chế độ
chuyên chế, sự bạo hành của quyền lực, như là sự đối lập với chế độ đó, gắn
liền với việc xác lập và phát triển dân chủ, động lực ra đời của nó bắt nguồn
từ quan điểm của người xưa về sự công bằng, công lý vốn có từ ngàn xưa của
trời của đất với các nhà tư tưởng nổi tiếng như: Xô Lông, Xôcrát, Platon,
Aristốt, đặc biệt Xixêrôn đã nêu lên nguyên tắc có tính chất bắt buộc về sự tối
cao của luật trong nhà nước - "Tất cả mọi người đều phải ở dưới hiệu lực của
pháp luật" tư tưởng này ngày nay được xem như là một trong những nguyên
tắc cơ bản được thừa nhận chung của NNPQ.
Tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật thời cổ đại đã được các nhà tư

tưởng thế kỷ XVII - XIX kế thừa và nâng lên một trình độ mới thành các học


8
thuyết với những học giả nổi tiếng như J. Locke. S. L. Montesquier, I. Canto,
G.V. Hêghen, C. Mác, V.I. Lênin. Các nhà triết học tư sản cho rằng trong mối
tương quan giữa pháp luật và nhà nước khi đó Nhà nước phải đứng dưới pháp
luật, tuân theo pháp luật mặc dù nhà nước ban hành ra pháp luật. Kế thừa
những giá trị tư tưởng và kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến NNPQ đã có
trong lịch sử, các nhà tư tưởng tư sản đã xây dựng nên học thuyết về NNPQ
với mục đích tấn công vào nhà nước độc tài chuyên chế phong kiến và hợp
pháp hóa quyền thống trị của giai cấp tư sản theo nguyên tắc giới hạn phạm vi
quyền lực của nhà nước phong kiến và mở rộng quyền tự do dân chủ cho
nhân dân dựa trên thế giới quan pháp lý mới [42, tr. 25].
Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng
những nội dung cơ bản và chung nhất của các học thuyết này là:
Sự hiện diện của chủ nghĩa lập hiến và coi đó là bằng
chứng hữu hình về sự đồng thuận của mọi người dân; Nhà nước
phải tự đặt mình dưới pháp luật và không hành động độc đoán;
Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người
và quyền công dân; quyền lực nhà nước được phân chia thành ba
quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và giao cho ba cơ
quan nhà nước tương ứng theo nguyên tắc quyền lực giám sát và
kiềm chế đối trọng quyền lực [40, tr. 140].
Các tư tưởng, học thuyết về NNPQ đã để lại những giá trị to lớn cho
rất nhiều học giả trên thế giới nghiên cứu phát triển thành một mô hình nhà
nước văn minh. Nhiều tác giả thừa nhận rằng, NNPQ được hiểu và giải thích
rất phong phú và khác nhau. Trong tiếng anh thuật ngữ "Rule of Law" thường
được dịch là NNPQ, nhưng đúng nghĩa đó là " sự thống trị của pháp luật".
Người Đức có khái niệm "Rechtsstaat" còn người Pháp dùng khái niệm "Etat

de Droit", người Nga thì dùng từ "Pravovoe gosudarstvo" tất cả các thuật ngữ
này đều được dịch sang tiếng việt là NNPQ. Cả bốn khái niệm này của người


9
châu Âu hàm chứa yêu cầu về sự tuân thủ pháp luật và yêu cầu có tính lý
tưởng về sự tôn trọng và thực hiện công bằng, công lý.
Tuy nhiên ở nội dung các khái niệm của các học giả cũng rất khác nhau:
Theo Roman Herzog, "nhà nước pháp quyền là một thuật ngữ mô tả
một Nhà nước mà không can thiệp vào cá nhân và tồn tại chủ yếu cho lợi ích
công dân của nó" [Dẫn theo 10, tr. 21]. Khái niệm này đã nhắc tới một nhà
nước mà các công dân ở đó được bảo đảm về mặt lợi ích, tuy nhiên nó vẫn
chưa giúp cho việc phân biệt với các hiện tượng khác.
Theo viện sĩ thông tấn Việt - Hàn kiêm khoa học Nga V.X Nherxesitantx,
NNPQ là hình thức tổ chức và hoạt động chính trị công khai và các mối quan
hệ tương hỗ của nó với cá nhân tư cách là chủ thể pháp luật, những người
mang các quyền tự do của con người và công dân đồng thời đưa ra ba dấu
hiệu đặc trưng tối thiểu của NNPQ, là "sự thừa nhận và bảo vệ các quyền tự
do con người và công dân; tính tối cao của pháp luật;việc tổ chức và hoạt
động của quyền lực nhà nước có chủ quyền trên cơ sở nguyên tắc phân công
quyền lực".
Giáo sư Jacques Chevallier, Đại học Panthéon - Assas (Pais II), trong
cuốn sách nổi tiếng về NNPQ (L état de Droit) đã định nghĩa:
Đối với học thuyết đương thời, nhà nước pháp quyền là một
nhà nước trong đó mối quan hệ giữa công dân của mình phải phục
tùng một "chế độ pháp trị":Trong một quốc gia cụ thể, quyền lực
chỉ được sử dụng theo cách thức được phép bởi trật tự pháp lý hiện
hành, trong khi những người bị trị có cách thức cầu viện tài phán
chống lại sự lạm dụng mà nó có thể phạm phải [Dẫn theo 11, tr. 140].
Như vậy, NNPQ trước hết được hiểu là nhà nước lệ thuộc vào pháp

luật, vào công lý, công bằng và pháp luật ở đây cũng được hiểu là công lý là
lẽ phải. Nhà nước lệ thuộc vào pháp luật chính là lệ thuộc vào lẽ phải, vào


10
công lý, công bằng, chứ không đơn thuần là lệ thuộc vào những quy định do
chính nhà nước đặt ra.
NNPQ được coi là giá trị văn minh của nhân loại, mọi quốc gia
muốn trở thành dân chủ văn minh đều phải hướng tới. ở Việt Nam NNPQ là
một trong một trong những vấn đề mới cả về phương diện lý luận nhận thức
và thực tiễn, nhưng mục tiêu xây dựng phà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII. IX, trong
Hiên pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã và đang được nghiên cứu xây
dựng cho phù hợp với công cuộc đổi mới đất nước.
Hiện nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về NNPQ, các tác
giả đã tập trung luận giải sự hình thành, phát triển của nhận thức luận về
NNPQ, nguyên tắc, đặc trưng của NNPQ. Trong cuốn "Những vấn đề lý luận
về Nhà nước và Pháp luật" GS. TSKH Đào Trí úc đã giải thích: Nhà nước
pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của Pháp luật với
hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị. Đó là hai yếu tố không thể
thiếu được khi nói đến nhà nước pháp quyền. Ông nhấn mạnh: Ngày nay,
NNPQ trước hết người ta nói tới sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã
hội và chính trị với tư cách là ý chí của nhân dân có giá trị phổ biến.
ở đây có thể thấy hai khía cạnh của NNPQ là:
1. Khía cạnh hình thức pháp lý, tức là sự ngự trị của pháp luật, sự
ràng buộc bởi pháp luật đối với nhà nước và tất cả các thành viên khác của
xã hội (nói cách khác đây là yêu cầu bảo đảm pháp chế trong công tác làm
luật và áp dụng pháp luật).
2. Khía cạnh nội dung pháp lý, tức là bản thân pháp luật phải bảo
đảm được yêu cầu khách quan, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

Theo quan niệm của PGS.TSKH Lê Cảm định nghĩa:


11
Nhà nước pháp quyền là tổ chức công quyền trong hệ thống
chính trị xã hội của công dân được xây dựng trên nền tảng tư tưởng
pháp lý tiến bộ của nhân loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ và
pháp chế, nhằm bảo đảm thực sự những giá trị xã hội được thừa
nhận chung của nền văn minh thế giới - sự tôn trọng và bảo vệ các
quyền và tự do của con người, sự ngự trị của pháp luật trong lĩnh
vực hoạt động của nhà nước, sự phân công quyền lực (lập pháp,
hành pháp, tư pháp) và chủ quyền nhân dân" [6].
Trong khi đó PGS. TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng: " Nhà nước
pháp quyền là một hình thức nhà nước được phân tích trong mối tương quan
giữa Nhà nước và pháp luật. Nhà nước pháp quyền thể hiện tính dân chủ của
nhân loại " [12, tr. 36]. Và cũng giải thích trên cơ sở các yếu tố chủ yếu
như tính tối cao của các đạo luật, nguyên tắc pháp chế và quyền tự do của con
người PGS.TS. Nguyễn Cửu việt cũng có quan niệm: "Nói khái quát nhất,
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả nhà nước)
đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật một pháp luật có tính
pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của
xã hội của con người" [42, tr. 13-21].
Có thể nói, những nội dung trên đây đều là những tiêu chí quan trọng
xác định bản chất NNPQ, tuy nhiên nếu chỉ có một trong các tiêu chí đó
không thể có được khái niệm về NNPQ hoàn chỉnh. Mà NNPQ rất cần xuất
phát từ những yêu cầu cơ bản trên nhưng phải phụ thuộc vào những điều kiện
cụ thể về kinh tế, văn hóa, địa lý xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc để tổ
chức ra mô hình NNPQ một cách khoa học, hợp lý. Từ những phân tích trên
cho thấy NNPQ có những đặc điểm chung phổ biến sau:
Thứ nhất, NNPQ là nhà nước được hình thành trên cơ sở Hiên pháp.

Hiên pháp là kết quả sự thể hiện ý chí của nhân dân, Hiên pháp được coi là
điều kiện tiên quyết cho sự xuất hiện, tồn tại của nền dân chủ xã hội, đồng
thời Hiên pháp ghi nhận đầy đủ các phương thức, phương tiện kiềm chế hay


12
giới hạn quyền lực của chính quyền mà có mối liên hệ với nhau trong một hệ
thống điều tiết một chính quyền cụ thể.
Thứ hai, NNPQ là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong hệ
thống pháp luật đó thì Hiên pháp mang tính tối cao, tối thượng, các đạo luật
chiếm ưu thế trong hệ thống pháp luật. Không một văn bản pháp luật nào do
các cơ quan nhà nước ban hành có thể mâu thuẫn, trái với Hiên pháp, nếu trái
với Hiên pháp là trái với chủ quyền nhân dân, quyền lực nhân dân.
Thứ ba, pháp luật trong NNPQ là một trong những giá trị xã hội,
được xã hội thừa nhận, Pháp luật là phương tiện ghi nhận hay pháp lý hóa giá
trị xã hội, quyền tự nhiên của con người, thông qua pháp luật quyền con
người được ghi nhận, xác lập và bảo vệ. Montesquier trong tác phẩm Tinh thần
pháp luật có nói: "Trong trạng thái tự nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng,
nhưng khi họ hợp thành xã hội thì họ mất bình đẳng và họ chỉ trở lại bình
đẳng nhờ có pháp luật" [28, tr. 87]. Do đó, pháp luật trong NNPQ phải mang
tính nhân văn, nhân đạo, phục vụ con người, vì con người;
Thứ tư, pháp luật trong NNPQ phải minh bạch, rõ ràng công khai và
gần gũi với người dân, bởi lẽ pháp luật là một đại lượng về sự tự do, công
bằng xã hội, do đó phải được áp dụng công bằng, nhất quán, phải bảo đảm
tính công khai, sự minh bạch, dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời để xử lý, giải
quyết mọi vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội, đời sống nhà nước.
Thứ năm, tất cả các cơ quan nhà nước, các nhân viên nhà nước đều
phải tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, đặt mình dưới
pháp luật, pháp luật là phương tiện giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà
nước, các cơ quan nhà nước bị điều chỉnh bởi pháp luật cụ thể là các đạo

luật do Quốc hội ban hành sẽ xác định thẩm quyền của cơ quan nhà nước
và xác định tính hợp pháp của các hành vi do các cơ quan nhà nước này
thực hiện. Hay vẫn có câu "cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì mà
luật cho phép".


13
Thứ sáu, NNPQ không ngừng mở rộng, tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ
quyền tự do công dân, quyền con người. Các quyền, tự do của công dân là
những giá trị xã hội do con người đấu tranh với thế giới tự nhiên và xã hội để
đem lại cho mình, do đó nhà nước với tư cách là thể chế xã hội phải ghi nhận
và tạo mọi tiền đề, điều kiện, cơ chế bảo đảm và bảo vệ các quyền đó được
thực thi trên thực tế.
Thứ bảy, NNPQ thiết lập mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa công
dân với nhà nước và giữa nhà nước với công dân. Mối quan hệ này được thiết
lập trên cơ sở nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ, quyền của bên này đồng thời
là nghĩa vụ của bên kia trong quan hệ. Chính điều đó đòi hỏi nhà nước có
nghĩa vụ, bổn phận chăm lo đời sống các công dân, giải quyết các vấn đề xã
hội, vì lợi ích của công dân, công dân được thực hiện đúng, đủ quyền và nghĩa
vụ của mình, sự đối xử công bằng trong tất cả các mối quan hệ đặc biệt trong
quá trình xây dựng, ban hành, thực thi pháp luật trước hết phải xuất phát từ
việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân.
Thứ tám, bảo đảm nguyên tắc "phân quyền" giữa lập pháp với hành
pháp, tư pháp, yếu tố này bảo đảm cho các bộ phận của chính quyền thực hiện
đúng chức năng thẩm quyền và kiềm chế lẫn nhau không cho phép vượt quá
giới hạn luật định. Sự độc lập giữa lập pháp với hành pháp, tư pháp là về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này trong phương thức thực hiện
quyền lực thống nhất. Giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có sự thống
nhất với nhau trong mục tiêu chung của hoạt động, nhưng sự thống nhất của
quyền lực không phải là sự tập trung quyền lực vào một cơ quan nào đó.

Tóm lại, xung quanh vấn đề khái niệm NNPQ có rất nhiều quan điểm
khác nhau, tuy nhiên tất cả đều đề cập đến một đặc điểm quan trọng và nổi
bật, đó là vai trò của pháp luật và mối tương quan của pháp luật đối với các
vấn đề căn bản sau:


14
Một là, mối tương quan giữa nhà nước và pháp luật; phương thức tổ
chức bảo đảm để pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh, nghiêm
chỉnh thường xuyên liên tục trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội;
Hai là, mối quan hệ giữa nhà nước với công dân trong việc bảo đảm,
bảo vệ các quyền tự do lợi ích hợp pháp của người dân trên thực tế.
1.1.2 Văn bản quy phạm pháp luật, vai trò hoạt động xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong Nhà nước pháp quyền
Việt Nam theo xu hướng chung của thế giới, đã và đang xây dựng mô
hình NNPQ dân chủ hóa đời sống xã hội. Điều đó khẳng định rõ vai trò vô
cùng quan trọng của các VBQPPL hiện nay đang được coi là hình thức thể
hiện(nguồn) chủ yếu và cơ bản của pháp luật nước ta. Có rất nhiều quan niệm
khác nhau về VBQPPL, dưới các cách tiếp cận riêng nó lại mang trên mình
những áo khoác pháp lý khác nhau.
Theo nghĩa rộng văn bản được hiểu là một công cụ để ghi nhận và
truyền đạt thông tin, quyết định từ chủ thể này đến chủ thể khác bằng một ký
hiệu hoặc một ngôn ngữ nhất định, theo cách hiểu này mọi giấy tờ, tài liệu
sách vở đều được coi là văn bản - một phương tiện để ghi nhận và truyền
đạt các thông tin.
Theo nghĩa hẹp, văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ được sử
dụng trong hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ
chức quần chúng, các tổ chức kinh tế hoặc các tài liệu cá nhân có giá trị ý
nghĩa pháp lý nhất định. Như vậy ở đây được hiểu VBQPPL là một loại công
cụ để ghi nhận những quy tắc pháp lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Tuy nhiên lại có quan niệm cho rằng: VBQPPL là sản phẩm của quá trình
sáng tạo pháp luật, là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ
chức xã hội được trao quyền ban hành theo những trình tự thủ tục nhất định,
trong đó chứa đựng những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung nhằm điều


15
chỉnh những quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều lần và hiệu lực của
nó không phụ thuộc vào sự áp dụng.
Trong văn bản pháp luật thực định ở nước ta tại Điều 1 Luật Ban
hành VBQPPL năm 1996 (sửa đổi bổ sung ngày 16/12/2002) quy định: "Văn
bản quy phạm pháp luật là do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
thủ tục trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo
đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa" [34].
Cũng tại Điều 1 Luật Ban hành VBQPPL 2008 mới được Quốc hội
thông qua ngày 3/6/2008 có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009 văn bản mới này
thay thế cho Luật Ban hành VBQPPL sửa đổi 2002 ở trên quy định:
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà
nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền hình thức,
trình tự, thủ tục được quy định trong luật này trong đó có quy tắc
xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc được nhà nước bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội [35, tr. 7].
Cách tiếp cận qua các văn bản thực định trên có những điểm gần
giống nhau: VBQPPL được hiểu là hình thức thể hiện các QPPL do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo một trình tự
thủ tục luật định, trên cơ sở Hiên pháp. Các chủ thể có thẩm quyền ban hành
không chỉ cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà còn cá nhân, người có thẩm
quyền kết hợp ban hành như Thủ tướng, Bộ trưởng, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Như vậy việc "ban

hành" chỉ được coi là giai đoạn (hay hành vi) thông qua dự thảo văn bản sau
khi được thảo luận. Tuy nhiên trước khi thực hiện hành vi ban hành thì văn
bản cần phải được thực hiện một loạt các hành vi có tính pháp lý trước đó
như: Sáng kiến ban hành, xây dựng dự thảo, lấy ý kiến, trình dự thảo trước
cơ quan, người có thẩm quyền. Toàn bộ quá trình đó cần phải tuân theo


16
những quy định có tính thủ tục nhất định. Đó là thủ tục, quy trình xây dựng
và ban hành VBQPPL.
Như vậy VBQPPL là loại văn bản có tính chất đặc biệt thể hiện cả về
mặt nội dung lẫn hình thức theo nhưng yêu cầu pháp luật quy định một cách
cụ thể, do đó nó sẽ có những đặc trưng riêng để từ đó phân biệt với các loại
văn bản khác như văn bản áp dụng QPPL, văn bản mang tính chất hành chính
Đặc trưng thứ nhất: VBQPPL được áp dụng chung có tính chất rộng
rãi, không áp dụng cho một đối tượng cá nhân cụ thể nào đó mà nó nhằm tới
phạm vi đối tượng áp dụng rộng hơn (mọi đối tượng hoặc một nhóm đối
tượng) mà khi các chủ thể đó bị rơi vào một tình huống pháp luật điều chỉnh
tới thì yêu cầu các chủ thể đó phải xử sự theo cách thức quy định đã đặt ra.
Nói cách khác tình huống đó có tính được lặp đi lặp lại nhiều lần trên thực tế,
vì vậy các VBQPPL này sẽ được sử dụng nhiều lần trong thực tiễn.
Đặc trưng thứ hai: Bản thân pháp luật là tổng thể các quy tắc xử sự
chung mang tính khuôn mẫu, mực thước được xác định một cách cụ thể.
Chính vì vậy các hành vi của mọi chủ thể đều chỉ có thể thực hiện một cách tự
do trong khuôn khổ pháp luật cho phép, vượt quá giới hạn đó là những hành
vi vi phạm pháp luật (hành vi làm trái luật). Giới hạn đó được xác định trên
cơ sở thẩm quyền mà pháp luật cho phép các chủ thể ban hành các loại văn
bản được xác định ở nhiều khía cạnh khác nhau như: cho phép, cấm đoán, bắt
buộc [38, tr. 69]. Chính các quy tắc này làm thay đổi hành vi xử sự của các
tổ chức, cá nhân dù là công dân hay là cơ quan thực thi pháp luật. Nó chỉ có thể

thay đổi bằng một quy phạm mới hoặc một quy phạm đã được sửa đổi bổ sung.
Đặc trưng thứ ba: VBQPPL được chủ thể đặc biệt ban hành, mang
tính quyền lực nhà nước, chính vì vậy VBQPPL mang tính bắt buộc rất lớn.
Bên cạnh việc được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp như tuyên truyền,


17
giáo dục, thuyết phục trong những trường hợp đặc biệt cần thiết nhà nước sẽ
áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc phải thi hành.
Về mặt thực tế hiện nay việc phân biệt VBQPPL với văn bản có tính
chất chủ đạo vẫn còn nhiều lẫn lộn. Văn bản mang tính chủ đạo là hình thức
thể hiện các quyết định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành nhằm đề ra các chủ trương đường lối chính sách, các nhiệm vụ có tính
chiến lược, quyết định đến vấn đề chung của cả quốc gia hoặc một địa
phương. Về mặt nguyên tắc việc đưa ra chủ trương chính sách quan trọng
không làm thay đổi được hành vi pháp luật, mà việc thay đổi được hành vi
của con người phụ thuộc vào việc các quy phạm pháp luật cụ thể. Điều đó để
phân biệt được VBQPPL với các loại văn bản pháp lý mang tính quản lý, điều
hành thì cần phải phân biệt giữa chính sách và pháp luật [14, tr. 321]. Từ sự
phân tích trên có thể quan niệm VBQPPL là loại văn bản được áp dụng
chung, mang tính cưỡng chế, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
hoặc phối hợp ban hành theo một hình thức và trình tự thủ tục do pháp luật
quy định.
Để đạt được mục tiêu xây dựng NNPQ là nhà nước trong đó yêu cầu
sự lệ thuộc của nhà nước vào pháp luật, nhà nước đặt mình dưới pháp luật,
tôn trọng pháp luật coi pháp luật là công lý, công bằng, là những giá trị xã hội
thể hiện ý chí cộng đồng mà nhà nước phải tuân theo. Nhà nước tuân theo
pháp luật chính là sự tuân theo của một thể chế xã hội vào ý chí chung của
nhân dân, quyền lực nhân dân và cộng đồng xã hội. Do đó tư tưởng xây dựng
NNPQ XHCN đã được thể hiện trong rất nhiều Văn kiện Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VI, VII, VIII của nước ta, như: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp
luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức " [16, tr. 129], từ những
chủ trương đường lối của Đảng đã đề ra, việc tiếp tục phải đổi mới nâng cao
chất lượng công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của


18
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là điều vô cùng quan trọng và cần thiết.
Bởi lẽ hệ thống pháp luật có hoàn thiện mới góp phần xây dựng thành công
NNPQ, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật không những hoàn thiện về mặt
nội dung mà còn hoàn thiện về mặt hình thức, hoàn thiện về mặt số lượng
cũng như chất lượng các văn bản quy phạm.
1.1.3 Yêu cầu của Nhà nước pháp quyền đối với chất lượng hoạt
động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cấp Bộ
NNPQ XHCN trong đó nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp
luật được đặt ở vị trí tối thượng, con người được đặt ở vị trí trung tâm, nhà
nước không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Chính vì vậy trong việc xây
dựng, ban hành các VBQPPLđược quy định về hình thức, thể thức, mẫu các
loại VBQPPL là rất cần thiết và được tiến hành thường xuyên, giúp cho các
cơ quan nhà nước có chuẩn mực trong việc xây dựng văn bản, có căn cứ pháp
lý để quản lý, ngành, lĩnh vực, theo đúng pháp luật, góp phần xây dựng nền
hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh, chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với vị trí tính chất pháp lý của mình Bộ cơ quan ngang Bộ là cơ quan
làm việc theo chế độ thủ trưởng, mọi VBQPPL đều do Bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ ban hành và chịu trách nhiệm về việc ban hành văn bản đó
Trong những năm gần đây các Bộ, ngành đã có rất nhiều cố gắng nỗ
lực lớn để đổi mới quy trình, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng xây
dựng pháp luật. Tuy nhiên hệ thống pháp luật của nước ta vẫn còn chưa đầy
đủ, chưa đồng bộ, việc ban hành các VBQPPL hướng dẫn thực hiện luật, pháp

lệnh và văn bản cơ quan quản lý ở cấp trên ở các Bộ, ngành, địa phương nhìn
chung còn yếu kém. Nhiều luật, pháp lệnh đã được ban hành và có hiệu lực
nhưng vẫn chưa được thực hiện còn phải chờ văn bản hướng dẫn mới đi vào
cuộc sống, trong khi đó các văn bản này được ban hành còn chậm.


19
Chính vì vậy yêu cầu đối với hoạt động xây dựng và ban hành văn bản
quy phạm pháp luật cấp Bộ trong NNPQ hiện nay được đặt ra là:
Thứ nhất: Hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL cấp Bộ là quá
trình sáng tạo ra các văn bản dưới luật hay là quá trình đổi mới các văn bản
quy phạm, chính vì vậy nó rất sống động và luôn phát triển ngày càng hoàn
thiện. Trên cơ sở phát triển đó đòi hỏi phù hợp với thực tiễn khách quan, tính
đến lợi ích của các dân tộc trên mọi miền đất nước, phù hợp với nguyên tắc
xây dựng nhà nước có nhiều dân tộc, bảo đảm lợi ích chung cho toàn quốc
cũng như lợi ích riêng của mỗi dân tộc. Những nội dung lạc hậu cần được
điều chỉnh và thay thế sao cho phù hợp với những thay đổi của cuộc sống.
Chính quá trình này làm cho hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL luôn
vận động, phát triển và hoàn thiện để đáp ứng sự phát triển kinh tế- xã hội của
đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Thứ hai: Hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL cấp Bộ phải bảo
đảm tuyệt đối các quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự và hình thức
ban hành. Các cơ quan sáng tạo pháp luật chỉ được xây dựng và ban hành
trong khuôn khổ phạm vi thẩm quyền của mình theo trình tự ban hành luật
định, đồng thời các văn bản đó phải chứa đựng những nội dung phù hợp với
hình thức văn bản, đảm bảo cho các VBQPPL tạo thành một hệ thống hoàn
chỉnh, phù hợp với Luật.
Thứ ba: Hoạt động xây dựng VBQPPL cấp Bộ phải dựa trên cơ sở
khoa học, kết hợp chặt chẽ kinh nghiệm thực tiễn, kỹ thuật thành thạo của các
chuyên gia trong khoa học lập pháp và lập quy ở giai đoạn như: Sáng kiến lập

quy, lập chương trình, biên soạn, thẩm tra và thông qua các dự án, dự thảo
VBQPPL, công bố các văn bản đó. Bản thân hoạt động lập quy có tính khoa
học rất cao, nó phản ánh thế giới quan biện chứng đối với các quy luật phát
triển xã hội, phản ánh những nhu cầu thực tế của xã hội, trong quá trình phát
triển chung của loài người nó là phương tiện thể chế hóa những dự báo khoa

×