Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.37 KB, 95 trang )


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ MINH TRÂM






VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG VIỆC BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY
VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2013



2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ THỊ MINH TRÂM





VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG VIỆC BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY
VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trương Thị Hồng Hà


HÀ NỘI - 2013


3





Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo
độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của
luận văn cha từng đợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.


Tác giả luận văn


Lê Thị Minh Trâm




4

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU
1

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG VIỆC ĐẢM BẢO VÀ THÚC ĐẨY VIỆC THỰC
HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI


9
1.1. Khái quát về quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
9

1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền con người trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

9
1.1.2.

Vị trí pháp lý của Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa

15
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung vai trò của Chính phủ trong
việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người
19
1.2.1.

Khái niệm vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người
19
1.2.2.

Đặc điểm vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người
24
1.2.3.

Nội dung vai trò của Chính phủ trong việc đảm bảo và thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người
31

1.3. Điều kiện đảm bảo việc phát huy vai trò của Chính phủ trong
việc đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người
36
Chương 2:
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
TRONG VIỆC BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY VIỆC THỰC
HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI

40
2.1. Thực trạng hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong giai
đoạn 2007 - 2012 liên quan đến việc bảo đảm và thúc đẩy
việc thực hiện quyền con người
40

5

2.1.1.

Thực trạng hoạt động lập quy của Chính phủ Việt Nam liên quan
đến việc đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người

40
2.1.2.

Thực trạng hoạt động ban hành chính sách của Chính phủ
Việt Nam liên quan đến việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực
hiện quyền con người
44
2.1.3.


Thực trạng hoạt động tổ chức điều hành chính sách nhà nước
của Chính phủ Việt Nam liên quan đến việc đảm bảo và thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người
47
2.1.4.

Thực trạng hoạt động thanh tra của Chính phủ liên quan đến
việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người
50
2.2. Ưu điểm và hạn chế về phát huy vai trò của Chính phủ Việt
Nam trong đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện quyền con
người giai đoạn 2007 - 2012
52
2.2.1.

Ưu điểm về việc phát huy vai trò của Chính phủ Việt Nam trong
đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam

52
2.2.2.

Những hạn chế về việc phát huy vai trò của Chính phủ trong
việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người
56
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy vai trò
của Chính phủ bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con
người ở Việt Nam
61
2.3.1.


Nguyên nhân khách quan 61
2.3.2.

Nguyên nhân chủ quan 63
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
CHÍNH PHỦ TRONG VIỆC BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY
QUYỀN CON NGƯỜI

65
3.1. Quan điểm phát huy vai trò của Chính phủ trong việc bảo
đảm quyền và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người
65
3.1.1.

Phát huy vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc đẩy
quyền con người đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân
65
3.1.2.

Phát huy vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc
đẩy quyền con người phải gắn việc phát triển nền kinh tế thị
67

6

trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1.3.


Phát huy vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc
đẩy quyền con người bảo đảm phù hợp với xu hướng hội
nhập quốc tế và toàn cầu hóa
68
3.2. Giải pháp phát huy vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm
và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người
71
3.2.1.

Đổi mới nhận thức về vai trò của Chính phủ trong việc bảo
đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người
71
3.2.2.

Tăng cường các biện pháp thiết thực trong cải cách hành
chính, xây dựng nền hành chính của dân, do dân và vì dân
72
3.2.3.

Tăng cường hoạt động giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
pháp lý, nhận thức về quyền con người và trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người

75
3.2.4.

Tăng cường các biện pháp quản lý xã hội của Chính phủ
hướng đến xây dựng Chính phủ cam kết quản lý rủi ro trong
xã hội
76

3.2.5.

Tăng cường hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động
của Chính phủ
77
3.2.6.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ trong
việc thực hiện các hoạt động quản lý xã hội, bảo đảm và thúc
đẩy quyền con người
78
3.2.7.

Đảm bảo các điều kiện về tổ chức và vật chất cần thiết cho
Chính phủ trong việc thúc đẩy và thực hiện quyền con người
80

KẾT LUẬN
82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85


7

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây hơn 50 năm, các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã

thông qua Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền nhằm khẳng định những giá trị
nhân văn, vốn có, bất di, bất dịch của mỗi cá nhân trong toàn thể cộng đồng
nhân loại. Quyền con người (nhân quyền) là sự kết tinh những giá trị nhân
văn cao quý của nền văn minh nhân loại, là thành quả đấu tranh chung của
toàn nhân loại chống lại áp bức, bạo lực và bất công. Quyền con người là một
phạm trù lịch sử có ảnh hưởng lớn đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
là vấn đề vô cùng nhạy cảm và phức tạp. Từ đó đến nay, bản Tuyên ngôn thế
giới về Nhân quyền đã và đang trở thành một chuẩn mực chung cho tất cả mọi
người, các dân tộc và quốc gia phấn đấu nhằm bảo đảm và thực hiện các
quyền và tự do cơ bản của con người, khuyến khích và tăng cường sự khoan
dung, tôn trọng nhân phẩn và giá trị của con người.
Bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh
trang trọng tuyên bố tại Quảng trường Ba Đình vào năm 1945 đã khẳng định
quyền con người là "những lẽ phải không ai chối cãi được":
Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776
của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

8

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng
Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được [42].
Hiện nay trên thế giới, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế,

vấn đề quyền con người được gắn với vấn đề phát triển bền vững, trở thành
một chủ đề lý luận cơ bản và hết sức bức thiết. Việc giải quyết vấn đề quyền
con người theo các loại lý thuyết khác nhau, không phải bao giờ cũng có sự
thống nhất, mặc dù mục đích đặt ra là vươn tới tìm kiếm một mô hình xã hội
phát triển tự giác - mô hình có sự quản lý, điều tiết, dựa trên tri thức khoa học
và chủ nghĩa nhân văn. Nghiên cứu quyền con người mang tính tổng hợp các
tri thức triết học, kinh tế học, luật học, xã hội học… nhằm phát hiện ra quy
luật đảm bảo thực hiện quyền con người một cách triệt để. Quá trình vận động
tất yếu lịch sử và xu thế giải quyết vấn đề quyền con người cho thấy: các giá
trị làm người, các quyền cơ bản của con người được bảo đảm và thực hiện
đến cùng trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội hiện thực và chế độ cộng sản
tương lai, khi mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người". Thêm vào đó, nhân quyền đang bị chính trị
hóa sâu sắc đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, một số thế lực
chính trị trên thế giới đang sử dụng nhân quyền như một con bài trên trường
quốc tế nhằm can thiệp vào chủ quyền quốc gia và công việc nội bộ của nước
khác. Nghiên cứu quyền con người gắn chặt với việc khẳng định tính tất yếu
thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội, con đường hợp lý, hợp quy luật đi lên chủ
nghĩa xã hội của các dân tộc.
Ở Việt Nam, mọi giai đoạn cách mạng trong lịch sử, con người bao
giờ cũng được đặt ở vị trí trung tâm. Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt
chú ý bảo đảm thực hiện các quyền con người trên tất cả các lĩnh vực một
cách thực tế và đây là một thành tựu nổi bật, khẳng định ưu thế của chế độ xã

9

hội mới. Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, các quyền con người
được mở rộng, có thêm những tiềm lực mới để bảo đảm và thực hiện. Quyền
con người không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực phát triển đất nước.
Chính vì vậy, việc Đảng và Chính phủ Việt Nam đặt con người vào vị trí

trung tâm trong chính sách phát triển, đã xác lập các tiền đề vững chắc thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện các quyền con người, bao gồm các
quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy còn một số khó khăn do
điều kiện khách quan chi phối, những thành tựu của Việt Nam trong việc giải
quyết vấn đề quyền con người là không thể phủ nhận.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, vấn đề bảo đảm
và thúc đẩy quyền con người vừa được xem là một nhân tố khẳng định tính
chất pháp quyền của Nhà nước, vừa là mục tiêu, là yêu cầu đòi hỏi các cơ quan
trong bộ máy nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng phải chú trọng thực
hiện trong thực tiễn hoạt động. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công
dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật [49].
Mặc dù vậy, trong thực tiễn, việc thực hiện các quyền con người còn
gặp nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do các cơ quan
nhà nước chưa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc bảo đảm và thúc
đẩy quyền con người.
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của các cơ
quan nhà nước trong việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con
người. Tuy nhiên, về mặt lý luận, có rất ít công trình tập trung nghiên cứu

10
thấu đáo về khái niệm, vai trò cũng như nội dung của Chính phủ trong việc
bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Trên thực tế, vẫn còn tình trạng vi
phạm từ phía Chính phủ đối với việc thực thi quyền con người.
Chính vì lẽ đó, tôi lựa chọn đề tài "Vai trò của Chính phủ trong việc

bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người" trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn hoạt động của Chính phủ Việt Nam, luận văn tập trung nghiên cứu
về vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người,
trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị phù hợp với thực tiễn bảo đảm quyền con
người đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, trên thế giới, quyền con người là một vấn đề lý luận cơ bản
và hết sức cấp thiết. Đảng và Chính phủ Việt Nam cũng luôn đặt con người
vào vị trí trung tâm trong chính sách phát triển, đã xác lập các tiền đề vững
chắc thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Do đó, vấn đề về quyền
con người từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên
cứu về quyền con người trên các lĩnh vực:
- Đề tài Khoa học cấp bộ năm 2003: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
con người và vận dụng nó ở nước ta trong điều kiện hiện nay", Cơ quan chủ
trì: Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng thuộc Học viện chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Chủ nhiệm đề tài: TS Phạm Ngọc Anh;
- "Tính con người và những vấn đề của đạo đức, pháp luật", PGS,TS Hoàng
Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2-2004;
- "Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của Quốc hội Việt
Nam", Luận án Tiến sĩ Luật học, Tường Duy Kiên, 2004;
- Đề tài cấp cơ sở năm 2008: "Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm
quốc gia trong quá trình thực hiện quyền phát triển của con người", Cơ quan

11
chủ trì: Viện Nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh. Chủ nhiệm đề tài: TS Nguyễn Duy Sơn;
- "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam" (Sách chuyên khảo), PGS,TS Trần Ngọc Đường,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008;

- "Sự tham gia của "công dân" vào các hoạt động quản lý nhà nước,
quản lý xã hội dưới phương diện bảo đảm quyền con người", Hội thảo quốc tế
"Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành", Viện Khoa học xã hội
Việt Nam;
- Chương trình cấp Bộ: "Một số vấn đề cơ bản về phát triển con người
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020", Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu con
người, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Chủ nhiệm đề tài: PGS,TS Mai
Quỳnh Nam;
- Đề tài cấp Bộ: "Một số vấn đề cơ bản thực hiện quyền con người vì
mục tiêu phát triển con người ở Việt Nam", Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu
con người, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Chủ nhiệm đề tài: TS. Vũ Thị
Minh Chi;
- Hội thảo "Cơ quan nhân quyền quốc gia", do Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội phối hợp với Ban quản lý dự án Trung tâm quyền con người
và Đại sứ Quán Đan Mạch, tổ chức vào ngày 19-12-2009. Tại hội thảo có 11
tham luận của các nhà nghiên cứu khoa học;
- Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và quyền công dân thuộc
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (được thành lập tháng 4-2007) triển
khai 9 đề tài nghiên cứu về quyền con người trong thời gian 2008 - 2009, cụ
thể như sau: Nhóm 1: Các vấn đề quốc tế: 1. Nhận thức và lịch sử phát triển
về quyền con người trên thế giới. 2. Phương pháp nghiên cứu, giáo dục quyền
con người. 3. Những vấn đề và nội dung cơ bản của luật nhân quyền quốc tế.
4. Luật quốc tế về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương; Nhóm 2: Quyền con

12
người ở Việt Nam: 5. Nhận thức và lịch sử phát triển về quyền con người ở
Việt Nam. 6. Quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam. 7. Bảo đảm quyền
dân sự và chính trị trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam. 8. Bảo đảm quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam. 9. Hoàn
thiện pháp luật bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương ở Việt Nam.

Ngoài ra, còn có rất nhiều các đề tài nghiên cứu khoa học, các luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và một số các bài viết chuyên sâu trên các báo, tạp
chí… về quyền con người. Tuy nhiên, chưa có một công trình chính thức tập
trung nghiên cứu về đề tài: "Vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam" trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích của đề tài
Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của Chính phủ trong việc
bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người đáp ứng yêu cầu xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò của Chính phủ trong việc bảo
đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người: khái niệm, nội dung vai trò,
điều kiện đảm bảo.
- Đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của Chính phủ trong bảo
đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam: đánh giá thực
trạng ban hành pháp luật và thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật của Chính
phủ nhằm bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người: Xác định nguyên
nhân của những tồn tại (nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan).
- Yêu cầu phát huy vai trò của Chính phủ trong việc bảo vệ và thúc
đẩy việc thực hiện quyền con người, quan điểm và giải pháp hoàn thiện, nhằm
phát huy vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện
quyền con người ở nước ta đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.

13
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: luận văn được triển khai nghiên cứu trên cơ sở
thực tiễn hoạt động của Chính phủ Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: nghiên cứu đánh giá hoạt động Chính phủ Việt
Nam từ giai đoạn năm 2007 đến nay (5 năm)

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Các phương pháp khác: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh,
phương pháp logic, phương pháp chứng minh…
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ và có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy vai
trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con
người ở Việt Nam. Thông qua đánh giá thực tiễn, luận văn chỉ ra những ưu
điểm, hạn chế và kiến nghị, các giải pháp tăng cường vai trò của Chính phủ
trong việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn là một trong số ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu về
vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền
con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Hoàn thành luận văn này, tôi hi vọng những kiến thức khoa học
trong luận văn sẽ là tài liệu phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu

14
khoa học tại các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam, đặc biệt đối với việc nghiên
cứu về quyền con người.
- Nội dung luận văn sẽ có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết cho mọi
cá nhân khi tìm hiểu vấn đề bảo vệ và thực hiện quyền con người ở Việt Nam,
đặc biệt là vai trò của Chính phủ trong lĩnh vực này.
- Tôi mong rằng, những kiến nghị, giải pháp trong luận văn sẽ đóng
góp có ý nghĩa thiết thực cho việc hoàn thiện vai trò của Chính phủ trong việc

bảo đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người đáp ứng nhu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Chính phủ trong việc đảm bảo
và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo
đảm và thúc đẩy việc thực hiện quyền con người.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của Chính phủ trong
việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người.

15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG VIỆC ĐẢM BẢO VÀ THÚC ĐẨY
VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI

1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền con người trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có
nhiều định nghĩa khác nhau (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần
50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố) [64]. Mỗi định nghĩa tiếp
cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng
không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, định nghĩa về quyền con
người được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu:
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal

legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions)
mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements)
và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người [65].
Bên cạnh đó, một số định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn,
theo đó, quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả
thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn
giáo, địa vị xã hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con
người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên
(natural rights).

16
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền còn người do một số chuyên
gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét
chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, nhìn từ góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân
loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn
mực này mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm
và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là
một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một
điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và
bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
Ở nước ta, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), công
cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam đã làm thay đổi nhận thức về vấn
đề bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 1992 được ban hành, sửa đổi, bổ
sung một số điều đã khẳng định cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm

quyền con người trong mọi lĩnh vực với sự giám sát chặt chẽ của lực lượng
đông đảo là quần chúng nhân dân. Sự nghiệp bảo vệ quyền con người đã trở
thành ý chí thống nhất của toàn Đảng, toàn dân.
Thành tựu của công cuộc đổi mới đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời
sống kinh tế - xã hội Việt Nam. Hàng loạt vấn đề mới xuất hiện, hàng loạt vấn
đề của cơ chế cũ đang được xem xét, nhìn nhận lại trong điều kiện mới với sự
hội nhập quốc tế và khu vực. Bằng sự đánh giá khách quan, khoa học ở Việt
Nam và trên thế giới chúng ta càng nhận thức rõ hơn về những quyền con người.
Bảo vệ quyền con người là một quá trình thường xuyên, liên tục và do
nhiều chủ thể thực hiện. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau

17
(kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa…) trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và
tầm quan trọng hàng đầu. Bởi vì, pháp luật có các đặc điểm mà các điều kiện
khác không có như:
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá trị xã hội
của quyền con người; các quyền đó được pháp luật hóa và mang tính bắt
buộc, được xã hội thừa nhận, bảo vệ. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội
thông qua pháp luật thì quyền tự nhiên vốn có của con người chưa trở thành
quyền thực sự. Ngược lại, quyền con người khi đã được quy định trong pháp
luật thì nó sẽ trở thành quyền pháp định, là ý chí chung của toàn xã hội, được
xã hội thừa nhận phục tùng, được quyền lực nhà nước tôn trọng bảo vệ. Khi
quyền con người được quy định trong Hiến pháp và pháp luật thì nó sẽ trở
thành "tối thượng" có giá trị bắt buộc đối với toàn xã hội, ngay cả với cơ quan
cao nhất của Nhà nước là Quốc hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực
hiện bảo vệ quyền con người, pháp luật là cơ sở để phát hiện và trừng trị các
hành vi vi phạm quyền con người. Tính sắc bén của pháp luật trong việc thực
hiện bảo vệ quyền con người được thể hiện ở các quy định về quyền con
người trong pháp luật được đảm bảo bằng bộ máy, cách thức tác động quyền

lực của Nhà nước, khi cần thiết thì Nhà nước sử dụng các biện pháp cưỡng chế
trên cơ sở tiến hành các biện pháp giáo dục, thuyết phục bảo đảm cho nội dung
quyền con người, quyền công dân được thực hiện và bảo vệ. Bên cạnh đó, nhờ
hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật mà mọi hành vi vi phạm quyền con người,
quyền công dân đều có khả năng bị phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp thời.
Thứ ba, pháp luật là tiền đề, nền tảng tạo cơ sở pháp lý để công dân
đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ở đây pháp luật được
xem xét không chỉ với tư cách là công cụ, phương tiện của Nhà nước mà còn
là công cụ, vũ khí của mọi người trong xã hội để thực hiện, bảo vệ quyền con
người. Bởi vì pháp luật là đại lượng mang giá trị phổ biến, là chuẩn mực của

18
sự công bằng, do đó có thể đo được hành vi của mọi người, kể cả các cơ quan,
tổ chức, công chức nhà nước. Nó là cơ sở, là căn cứ để công dân đánh giá,
kiểm tra, đối chiếu các hành vi từ phía Nhà nước và các thành viên trong xã
hội, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền con
người, quyền công dân có thể bị xâm phạm từ phía các cơ quan, tổ chức, công
chức nhà nước trong khi thi hành công vụ, cũng như từ phía các thành viên
khác trong xã hội, bởi vì trong quan hệ với Nhà nước, công dân vừa là người
chủ Nhà nước, vừa là đối tượng bị quản lý cho nên quyền và lợi ích hợp pháp
của họ có nguy cơ xâm hại cao. Trong hoạt động của bộ máy nhà nước thì
hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan bảo vệ
pháp luật có nguy cơ làm phương hại đến các quyền con người, quyền công
dân rất cao. Bởi vì, các quyết định quản lý của cơ quan hành chính nhà nước,
các phán quyết của cơ quan bảo vệ pháp luật đều trực tiếp tác động đến các
quyền và lợi ích của công dân
Trong mối quan hệ với các cơ quan này, công dân là người bị quản lý
và chịu sự phán quyết nên họ luôn luôn ở vị thế bất lợi. Trong điều kiện đó,
người công dân không có vũ khí, phương tiện nào khác hữu hiệu hơn là sử
dụng pháp luật để đấu tranh tự bảo vệ lấy các quyền và lợi ích của mình. Chỉ

có pháp luật, bằng các quy phạm pháp luật quy định chặt chẽ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, các
quyền và nghĩa vụ của công dân, mới tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để mọi
người đấu tranh chống lại các hành vi xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Vai trò của pháp luật trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người
còn thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác
(chính trị, kinh tế, văn hóa…) các điều kiện trên đều phải thông qua pháp luật,
thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được
thực hiện hóa trên qui mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới
phát huy được vai trò của mình trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người.

19
Ta thấy rằng pháp luật hiện diện ở tất cả các điều kiện khác, tạo cơ sở
pháp lý cho các điều kiện ấy phát huy được vai trò và hiệu quả của chúng
trong việc thực hiện quyền con người trên qui mô toàn xã hội.
Thứ tư, pháp luật còn là phương tiện để thực hiện sự cam kết và hòa
nhập giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo đảm việc bảo vệ quyền
con người ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Trong điều kiện hiện nay,
nhiều nội dung cụ thể của quyền con người cũng như việc bảo vệ quyền con
người đòi hỏi phải có sự đấu tranh, hợp tác giải quyết, phối hợp của nhiều
quốc gia hoặc cộng đồng quốc tế (đấu tranh chống tội phạm, giải trừ vũ khí
hạt nhân, đói nghèo và các vấn đề xã hội khác…). Những nội dung này đều là
những vấn đề đòi hỏi cần có sự hợp tác, phối hợp của các quốc gia với nhau
trong cộng đồng thế giới.
Trách nhiệm của các quốc gia khi tham gia ký kết, hay phê chuẩn các
công ước, tuyên ngôn về quyền con người là phải thực hiện các cam kết đó,
mỗi nước phải cụ thể hóa những quy định của pháp luật quốc tế sao cho phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của đất nước mình, hòa nhập pháp luật
quốc gia với pháp luật quốc tế. Hơn nữa trong bối cảnh giao lưu, hòa nhập

quốc tế giữa các nước ngày nay càng rộng mở ở tất cả các lĩnh vực (lao động,
học tập, kinh tế, ngoại giao, du lịch, hôn nhân…) vấn đề bảo vệ quyền con
người của công dân ở nước ngoài cũng như công dân nước ngoài đang là vấn
đề phức tạp cần quan tâm. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp, hợp tác giải quyết
các vấn đề liên quan, mà phương pháp giải quyết đó là bằng con đường cụ thể
hóa các quyền trong các văn bản pháp luật. Việc ký kết các hiệp định tương
trợ tư pháp sẽ tạo cơ sở pháp luật giải quyết vấn đề quyền con người trong
điều kiện có xung đột pháp luật.
Từ các điều kiện của pháp luật, chúng ta thấy pháp luật có vai trò quan
trọng hàng đầu trong việc bảo vệ quyền con người. Để phát huy đầy đủ vai trò
quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế

20
hóa quyền con người thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải
có cơ chế đảm bảo cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo
thành đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo
pháp ý bảo vệ quyền con người chính là đảm bảo thực hiện quyền con người
bằng pháp luật.
Thể chế hóa quyền con người trong hệ thống pháp luật, không chỉ là
cụ thể hóa quyền con người thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân
và những người không phải là công dân hoặc bị tước đi quyền công dân. Nó
bao hàm cả việc quy định các hình thức, biện pháp xử lý những hành vi vi
phạm quyền con người, quyền công dân, quy định về tổ chức hoạt động của
bộ máy nhà nước, chức năng nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức và công chức nhà nước, xây dựng hệ thống các thủ tục trong tố
tụng trong đó có tố tụng hình sự, cụ thể hóa các công ước quốc tế về quyền
con người mà các quốc gia đã tham gia ký kết hay phê chuẩn nhằm đảm bảo
thực hiện bảo vệ quyền con người. Quyền con người được thể chế hóa trong
hệ thống pháp luật thành hệ thống các quy định nêu trên, nhưng nếu không có
cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó thì không thể nói đã có đảm bảo

pháp lý bảo vệ quyền con người. Vì vậy, phải triển khai các hoạt động phổ
biến, tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật, hướng dẫn thực hiện pháp
luật… nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các thành viên xã hội, hình thành
văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội.
Đồng thời huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc tổ
chức thực hiện pháp luật, nhất là nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực
hiện pháp luật của bộ máy nhà nước, phải bảo đảm cho các quy định nhằm
thực hiện bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hệ thống pháp luật
được thực thi nghiêm chỉnh, còn có hiện tượng vi phạm thì càng phải được
phát hiện, xử lý kịp thời.
Tóm lại, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy
định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ

21
quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn
đời sống.
Quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế bảo
đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây dựng
đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người. Quyền con người được thể chế hóa
trong hệ thống pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa nếu việc tổ chức thực hiện không
được thường xuyên. Khả năng bảo đảm bảo vệ quyền con người trong quá
trình tổ chức thực hiện trước hết phụ thuộc vào chất lượng của việc thể chế
hóa quyền con người tự nhiên thành quyền công dân, cùng với các thiết chế
bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật như: bảo đảm tính cụ thể, đồng
bộ thuận tiện khả thi của các quy định pháp luật về quyền công dân; xây dựng
thiết chế tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước hướng đến mục tiêu thực
hiện bảo vệ quyền con người; xây dựng hệ thống các thủ tục tố tụng ngăn
ngừa sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và những người tiến hành tố
tụng, hòa nhập pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
1.1.2. Vị trí pháp lý của Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa
Quyền lực nhà nước của nước ta bao gồm quyền lập pháp (đặt ra luật),
quyền hành pháp (tổ chức thực hiện luật) và quyền tư pháp (quyền xét xử các
vi phạm pháp luật và tội phạm). Chính phủ là cơ quan thực thi quyền hành
pháp và đứng đầu hệ thống các cơ quan thực thi quyền hành pháp.
Ở các nước khác kiểu (khác về bản chất giai cấp), việc tổ chức ba
quyền nói trên có sự khác nhau. Đối với các nhà nước cũng một kiểu (có cùng
bản chất giai cấp), ở mỗi nước cũng có cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
phù hợp với đặc thù của nước mình. Mặc dù vậy, quyền hành pháp luôn luôn
được tổ chức và thực hiện bởi Chính phủ - chủ thể cao nhất thực thi quyền lực
nhà nước về hành pháp. Vì thế, quyền hành pháp và Chính phủ có mối quan
hệ mật thiết, không tách rời nhau. Điều đó thể hiện ở các điểm cơ bản sau:

22
Một là, nếu quyền lực nhà nước về lập pháp được nhân dân thực hiện
trực tiếp qua phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín thành lập nên, thì
Chính phủ - chủ thể cao nhất thực thi quyền hành pháp, hoặc là người đứng
đầu chính phủ do nhân dân trực tiếp bầu ra (đối với chính thể cộng hòa tổng
thống) hoặc là do Quốc hội thành lập (đối với cộng hòa đại nghị).
Hai là, quyền hành pháp là quyền lực nhà nước về tổ chức thực thi
pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống xã hội. Vì thế, quyền hành pháp luôn
luôn trực tiếp đụng chạm đến các lợi ích thiết thân nhất của con người. Do đó,
quyền lực hành pháp là thứ quyền thể hiện trực tiếp sức mạnh của quyền lực
nhà nước trong thực tế. Hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước về mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội đều gắn liền với việc tổ chức thực thi quyền hành
pháp mà đứng đầu là Chính phủ. Bởi vậy, tổ chức và thực thi quyền hành
pháp trong đó Chính phủ - chủ thể cao nhất của quyền hành pháp, luôn luôn
trong trạng thái vận động và hoàn thiện không ngừng cùng với sự vận động và
phát triển của đời sống xã hội.
Ba là, quyền hành pháp là quyền quản lý nhà nước diễn ra trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội cả về đối nội lẫn đối ngoại. Vì thế, quyền
hành pháp mà đứng đầu là Chính phủ có vị trí cực kỳ quan trọng trong tổ
chức quyền lực nhà nước. Nếu nói Nhà nước là bộ máy "cai trị", để duy trì sự
thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác thì trước hết vai trò đó thuộc
về hệ thống các cơ quan hành pháp mà đứng đầu là Chính phủ.
Tóm lại, trong tổ chức quyền lực nhà nước của các nhà nước hiện đại
ngày nay, hành pháp là một nhánh quyền lực nhà nước có vị trí quan trọng
luôn luôn gắn liền với Chính phủ - cơ quan đứng đầu hệ thống các cơ quan
thực thi quyền hành pháp.
Chính phủ theo tiếng Anh là "Government" có nghĩa là "cao nhất",
tiếng Đức là "Regierung" có nghĩa là cơ quan hành chính cao nhất, đứng đầu
hành pháp [63]. Về tiếng Việt theo một khái niệm được Hội học giả đưa ra là

23
"cơ quan hành pháp, cơ quan quyền lực cao nhất quản lý công việc ở Trung
ương" [44]. Trong một số ngôn ngữ khác người ta đồng nhất Chính phủ với
"quyền hành pháp". Theo nghĩa pháp lý "Chính phủ là tập thể các bộ trưởng
thực hiện công quyền của một nước (Ph. lespouvoivs publics)" [41].
Ở nước ta, theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy
định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (điều 109). Như
vậy, ở Việt Nam, Chính phủ có hai vị trí pháp lý: vị trí thứ nhất trong mối quan
hệ với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Chính phủ có vị trí chấp hành; vị trí
thứ hai, trong mối quan hệ với các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương
và địa phương, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vị trí pháp lý đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Điều đó có nghĩa là Chính phủ phải chấp hành luật, nghị quyết
do Quốc hội ban hành mà không có quyền phủ quyết hoặc không chấp hành
như Hiến pháp một số nước quy định. Đồng thời, Chính phủ phải báo cáo

công tác của mình trước Quốc hội và chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội.
Thứ hai, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Điều
này có nghĩa Chính phủ là cơ quan đứng đầu hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước - Hệ thống cơ quan thực thi quyền hành pháp, mà không phải là cơ
quan hành pháp độc lập và duy nhất như ở một số nước.
Vị trí pháp lý của Chính phủ trong tổ chức quyền lực nhà nước ta
được xác định bởi nhiều mối quan hệ, trong đó mối quan hệ giữa Chính phủ
với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, là mối quan hệ quan trọng và cơ
bản nhất. Bởi vì, mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội là một nội dung
quan trọng trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta.
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng dựa trên nguyên tắc tất cả quyền

24
lực nhà nước thuộc về nhân dân, nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất
nhưng có sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp và nguyên tắc tập trung dân chủ - Những nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước của nước ta. Chính vì xây
dựng trên các nguyên tắc này mà mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội ở
nước ta có những điểm khác biệt so với các nước khác. Mối quan hệ đó thể
hiện ở các điểm cơ bản sau:
Một là, Quốc hội thành lập Chính phủ: Ngoài chức năng lập hiến, lập
pháp, Quốc hội nước ta còn thực hiện chức năng quyết định những vấn đề
trọng đại của đất nước, mà một trong những vấn đề đó là Quốc hội thành lập
Chính phủ bằng việc bầu Thủ tướng và phê chuẩn các thành viên của Chính
phủ theo đề nghị của Thủ tướng.
Hai là, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Ở nước ta, ngay
từ bản Hiến pháp năm 1946 đã xác định Quốc hội có chức năng giám sát hoạt
động của Chính phủ (Ban Thường vụ có quyền kiểm soát và phê bình Chính
phủ - điểm c Điều thứ 36), các Hiến pháp tiếp theo cũng đều quy định chế độ

trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ cũng chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về ngành và lĩnh vực mình phụ trách. Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó có Chính
phủ. Các văn bản của Chính phủ ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội và bị đình chỉ, bãi bỏ nếu trái với các quy định của
Hiến pháp và luật. Các thành viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội bãi nhiệm.
Chế độ trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội còn thể hiện mối
quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội. Theo quy định của
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Chính phủ phải báo cáo
công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chịu sự giám sát của Ủy ban

25
Thường vụ Quốc hội. Các văn bản của Chính phủ ban hành còn phải phù hợp
với pháp lệnh và nghị quyết do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành. Chính
phủ với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất có quyền ban hành
một số nghị định để điều chỉnh những quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh
bằng luật hay pháp lệnh nhưng phải được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Như vậy, Chính phủ nhận được sự ủy quyền lập pháp không phải từ
Quốc hội mà từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tóm lại, mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ ở nước ta là mối
quan hệ thống nhất, phối hợp, không có sự biệt lập giữa các quyền lập pháp
và hành pháp nhưng có sự phân công, phân nhiệm để bảo đảm cho quyền lực
nhà nước về lập pháp cũng như hành pháp đều mạnh và đều thuộc về nhân dân.
Từ mối quan hệ nói trên, vị trí của Chính phủ trong tổ chức quyền lực
nhà nước của nước ta là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mô hình tổ
chức Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải
được xây dựng, củng cố và hoàn thiện theo vị trí đó. Việc ghi nhận, bảo vệ và

thúc đẩy quyền con người được Hiến pháp khẳng định cũng chính là mục
đích, nhiệm vụ mà Chính phủ phải thực hiện xuất phát từ vị trí pháp lý đó.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG VIỆC BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI
1.2.1. Khái niệm vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm và
thúc đẩy việc thực hiện quyền con người
Quyền con người được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước
thông qua bộ máy, các cơ quan do nhà nước lập ra và đội ngũ cán bộ, công
chức thực hiện công vụ mang quyền lực nhà nước. Theo quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật: "Nhà nước xét về bản chất trước
hết là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là

×