Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.46 KB, 142 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





AN ĐẮC HÙNG






XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




AN ĐẮC HÙNG





XỬ PHẠM VI PHẠT HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái





HÀ NỘI - 2012



4
MỤC LỤC


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT

VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI
QUAN
7
1
.1.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
7
1
.1.1.
Khái niệm vi phạm hành chính
7
1
.1.2.
Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
9
1.1.3.
Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
13
1.2.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
14
1.2.1.
Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
14
1
.2.2.
Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan
16
1.2.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan
19
1
.3.
Cơ sở pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan
22
1
.3.1.
Các loại vi phạm hành chính về hải quan
22

5
1.3.2.
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính và nguyên tắc áp
dụng văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan
24
1
.3.3.
Thời hiệu xử phạt và hình thức xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan
32
1
.3.4.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan
38
1.3.5.

Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan
44
1.3.6.
Pháp luật hải quan một số nước về xử phạt vi phạm hành chính
52

Chương 2: THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN
57
2
.1.
Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực Hải quan
57
2.1.1.
Về các quy định mang tính nguyên tắc
57
2.1.2.
Về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và
mức xử phạt
58
2.2.
Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan
74
2.2.1.
Tình hình vi phạm những năm gần đây
74
2.2.2.
Các hình thức vi phạm chính

78
2.3.
Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan
81
2.3.1.
Những kết quả đạt được
81
2.3.2.
Những tồn tại, vướng mắc trong công tác xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực Hải quan
84

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN VÀ NÂNG CAO HIỆU
91

6
QUẢ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC HẢI QUAN
3
.1.
Hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
về hải quan
91
3
.1.1.
Thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng, phù
hợp Hiến pháp và pháp luật
92

3
.1.2.
Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, hiện đại hoá hải
quan
94
3
.1.3.
Phù hợp điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực hải
quan mà Việt Nam ký kết, gia nhập
95
3
.1.4.
Khắc phục những tồn tại thiếu sót đối với các qui định
của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan
97
3
.2.
Một số giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan ở nƣớc ta hiện nay
99
3
.2.1.
Hoàn thiện pháp luật
99
3.2.2.
Tổ chức thực hiện các qui định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
116

3.2.3.
Bồi dưỡng ý thức pháp luật
124
3.2.4.
Một số giải pháp khác
129

KẾT LUẬN
130

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
133

7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp tiết của đề tài
Hoạt động hải quan là một hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước
nhằm đảm bảo quản lý nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước.
Trong xu thế đất nước đang trong quá trình đẩy nhanh hội nhập kinh
tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta quyết tâm tiếp tục thực hiện chủ trương,
chính sách chủ động cải cách, mở cửa nền kinh tế, gắn kết nền kinh tế nước ta
với nền kinh tế thế giới. Đặc biệt là Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), cũng như đảm bảo các cam kết quốc tế mà Việt Nam
tham gia ký kết. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay, tập trung xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân thì một trong những yêu cầu bức thiết đặt ra là
mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, triệt để.

Trước yêu cầu đó, ngành Hải quan đang từng bước hiện đại hóa
ngành, thực hiện cải cách sâu rộng về thủ tục hành chính hải quan, từng bước
áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm đơn giản hóa, hài hòa thủ tục hải
quan, xây dựng một cơ quan hải quan hiện đại với hệ thống quy trình thủ tục
đơn giản, hiệu quả đáp ứng được yêu cầu tạo thuận lợi hơn nữa cho thương
mại và quản lý hiệu quả hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện xuất nhập
cảnh, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, không ngừng kiểm
soát chặt chẽ các hoạt động xuất nhập khẩu, kiểm soát thương mại, xử lý
nghiêm minh các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hải quan.
Cơ quan hải quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan,
một lĩnh vực luôn gắn chặt với hoạt động đối ngoại, kinh tế đối ngoại, an ninh
quốc gia và an ninh cộng đồng trên lãnh thổ hải quan. Do tính chất đặc thù

8
của lĩnh vực hải quan trên địa bàn là các cửa khẩu biên giới, những khu
thương mại, khu kinh tế cửa khẩu, hoạt động kinh tế sôi động, mặt khác tình
hình tội phạm buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
diễn ra ở đâu cũng phức tạp. Để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng,
chống vi phạm xảy ra trong lĩnh vực hải quan, ngay từ khi thành lập, Hải quan
Việt Nam đã trở thành lực lượng quan trọng trong công tác đấu tranh phát
hiện, ngăn chặn và xử lý đối với các vi phạm (buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới).
Quá trình thực hiện nhiệm vụ của ngành hải quan luôn gắn liền với việc
thực hiện các quy định của pháp luật hải quan, trong đó có vấn đề xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Thực tiễn công tác cho thấy, tình hình
vi phạm hành chính của các tổ chức, cá nhân liên quan đến lĩnh vực hải quan
ngày một nhiều, số vụ vi phạm ngày càng tăng, thủ đoạn ngày một tinh vi. Để
kiểm soát chặt chẽ cũng như xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, đòi hỏi
phải nắm chắc các cơ sở pháp lý, trình tự thủ tục luật định trong xử phạt vi phạm
hành chính, góp phần vào việc ngăn chặn và xử lý kịp thời mọi hành vi vi phạm.

Vì vậy, vấn đề bức xúc, cấp bách hiện nay được đề tài quan tâm đặt ra
là phải nghiên cứu đánh giá, xác định một cách khái quát, cũng như cụ thể về
thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan góp phần ngăn
chặn và xử lý mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực hải quan.
2. Mục tiêu của đề tài
- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận của pháp luật xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan;
- Nghiên cứu thực trạng của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan và thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan;
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện pháp luật xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải ở nước ta hiện nay và trong thời
gian tới;

9
- Kết quả nghiên cứu có thể được dùng như tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng vấn đề này với ngành Hải quan và
với mỗi cán bộ, công chức Hải quan.
3. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về pháp
luật hải quan và xử lý vi phạm hành chính, có những bài viết theo quan niệm
khoa học pháp lý có đề cập đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính nhưng
cũng chỉ ở mức độ khái lược. Tiêu biểu là:
"Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính", của tác giả Phạm Dũng -
Hoàng Sao, nêu khái quát chung và phân tích những khái niệm cơ bản về xử
phạt vi phạm hành chính, chưa đi sâu vào vấn đề xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan;
Luận án tiến sĩ khoa học luật mã số 5.05.01, Hà Nội - 1996, đề tài
"Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan ở nước ta hiện nay", của tác giả
Vũ Ngọc Anh, cũng đã nêu một số vấn đề tồn tại của pháp luật về hải quan ở
nước ta và có những phương hướng để đổi mới cũng như hoàn thiện pháp luật

về hải quan của nước ta, tuy nhiên, có nói về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan nhưng chỉ ở mức độ chung, chưa đi sâu vào thực trạng
pháp luật và thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan;
Đề tài khoa học "Nghiên cứu một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật xử lý vi phạm hành chính về hải quan theo yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế", của thạc sĩ Phùng Thị Bích Hường, tương tự đề tài của tác giả Vũ
Ngọc Anh, đề tài này cũng chỉ đưa ra những tồn tại chung và phương hướng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính về hải quan nhưng chưa
đi sâu vào thực trạng pháp luật và vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan;
Đề tài khoa học "Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với
các hành vi vi phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu",
của tác giả Đào Thịnh Vinh, cũng đã nêu được những vấn đề lý luận và thực

10
trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật
về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam, nhưng lại chỉ nêu một vấn đề
nhỏ về hành vi vi phạm quy định về kiểm tra hải quan, thanh tra thuế thuộc
nhóm hành vi vi phạm quy định về kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan của
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan chứ chưa nêu các vấn đề khác
trong các qui định về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và
mức xử phạt;
Hay một số bài nghiên cứu trên Tạp chí Luật học, cũng như một số
chuyên đề giảng dạy môn Xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh chống tội phạm
trong lĩnh vực hải quan của Tổng cục hải quan có đề cập đến việc xử lý do vi
phạm pháp luật về hải quan nhưng ở mức độ sơ lược, chưa tập trung vào vấn
đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Trong các công trình nghiên cứu trên đây, trên cơ sở phân tích lý luận
và thực tiễn có liên quan, các tác giả mới giới thiệu, phân tích, đánh giá tổng
quan một số khía cạnh về vi phạm pháp luật hải quan chứ không đề cập cụ
thể, chi tiết cũng như định hướng riêng về thực trạng pháp luật vi phạm hành

chính hải quan, cũng như chưa đưa ra phương hướng chuyên biệt để hoàn
thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Chính vì vậy, luận văn này là công trình nghiên cứu đầu tiên tương
đối đầy đủ và toàn diện về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan, luận văn thực hiện các nội dung sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan để đưa ra các luận cứ khoa học và những lý giải
mang tính lý luận nhằm góp phần định hướng hoàn thiện về pháp luật vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan;
- Nêu những thực trạng về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan cũng như những qui định mang tính nguyên tắc, hành vi vi
phạm và mức xử phạt về vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan; đồng

11
thời nêu được thực trạng vi phạm hành chính và thực trạng xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan;
- Đưa ra một số đề xuất, phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và nâng cao
hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan;
- Kết quả nghiên cứu có thể được dùng như tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng vấn đề này với ngành Hải quan và
với mỗi cán bộ công chức hải quan.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là những vấn đề có tính lý luận và
thực tiễn đối với các quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan thời gian qua, những phương hướng và những giải pháp chủ
yếu để từng bước hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp và với
tất cả khả năng cho phép, người viết luận văn cố gắng nghiên cứu một cách

tổng quát về những vấn đề cơ bản thuộc nội dung của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan dưới góc độ lý luận và thực tiễn ban
hành, áp dụng và thi hành các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực Hải quan.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật: "Nhà nước của dân,
do dân và vì dân", quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và các quan điểm có tính lý luận của Đảng, những chủ
trương, chính sách chỉ đạo công cuộc đổi mới, mở cửa đất nước.
Luận văn sử dụng các phương pháp: kết hợp lý luận với thực tiễn,
phương pháp phân tích; tổng hợp; phương pháp hệ thống

12
6. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của luận văn
- Là luận văn triển khai nghiên cứu có hệ thống những vấn đề có tính
chất lý luận về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan; những
kinh nghiệm pháp luật hải quan thế giới và pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính về hải quan của một số nước;
- Luận văn phân tích và khái quát thực trạng chính sách của Đảng,
pháp luật nhà nước, thực trạng xây dựng, thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan ở giai đoạn hiện nay. Phân tích, lý giải cơ
sở khoa học những vấn đề có tính chất đặc trưng của pháp luật xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan suốt quá trình mở cửa, hội nhập, xây
dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta;
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế, chương trình hiện đại hóa hải quan, áp dụng phương pháp quản lý rủi
ro, áp dụng thủ tục hải quan điện tử, thông quan tự động,

7. Kêt cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan
Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan


13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN

1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Để xã hội có thể ổn định và phát triển được theo đúng định hướng đã
định, Nhà nước luôn phải tác động lên các quan hệ xã hội bằng một hệ thống
các quy tắc quản lý nhà nước được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật. Trên thực tế, trong đời sống xã hội luôn xảy ra tình trạng vi phạm các
quy tắc quản lý nhà nước. Các vi phạm đó diễn ra hàng ngày trong đời sống
xã hội, từ những hành vi vi phạm nhỏ nhặt như hút thuốc nơi công cộng v.v
đến những hành vi vi phạm có tính chất, mức độ lớn hơn như điều khiển
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đi vào đường ngược chiều, vượt đèn
đỏ hay thậm chí lạng lách đánh võng, gây tai nạn rồi bỏ chạy hoặc trốn
thuế… Những hành vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước vi phạm pháp
luật được nêu trên đây thể hiện rất đa dạng, phong phú và xẩy ra trong hầu hết
các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật, vi phạm pháp luật được

cấu thành bởi các mặt khách quan, chủ quan, chủ thể, khách thể của nó. Tổng
hợp các yếu tố đó ta có thể hiểu vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho
xã hội do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
Dựa theo các tiêu chuẩn khác nhau mà các vi phạm pháp luật được
phân thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào khách thể vi phạm,
mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi cho xã hội thì vi phạm pháp luật
được chia thành các loại sau:

14
- Vi phạm hình sự (tội phạm) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội,
có lỗi và được quy định trong Bộ luật hình sự.
- Vi phạm hành chính là những hành vi trái pháp luật, có lỗi nhưng
mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, xâm phạm các quan hệ xã hội
do các văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm pháp lý hành chính bảo vệ.
- Vi phạm dân sự là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới
các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân, quan hệ phi tài sản có liên quan tới tài
sản…được Bộ luật dân sự quy định.
- Vi phạm kỷ luật là hành vi có lỗi, trái với các quy tắc kỷ luật lao
động, học tập, công vụ nhà nước trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp,
trường học được luật lao động, hành chính và các văn bản nội quy của từng
cơ quan, doanh nghiệp quy định.
Theo qui định tại Điều 1 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) (sau đây xin được gọi là
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính): "Vi phạm hành chính là hành vi do cá
nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính" [60, tr. 1].
Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy được những đặc điểm cơ
bản của vi phạm hành chính như sau:

- Những hành vi này đều là những hành vi xâm hại đến trật tự quản lý
nhà nước, phá vỡ trật tự nhà nước đang được duy trì và bảo vệ, làm ảnh
hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Tuy vậy,
do tính chất và mức độ xâm hại của hành vi dù đã nguy hiểm cho xã hội
nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Chủ thể thực hiện hành vi này là tổ chức, cá nhân. Với tổ chức, thì
hành vi này được thực hiện bởi cá nhân cụ thể nhưng dưới danh nghĩa là do tổ
chức giao, phân công, nhân danh tổ chức;

15
- Hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện có lỗi cố ý hoặc vô ý;
- Hành vi vi phạm này được quy định trong một văn bản quy phạm
pháp luật xác định là hành vi đó bị xử lý vi phạm hành chính. Đây là dấu hiệu
có tính hình thức, thực chất là nói về tính trái pháp luật của hành vi.
1.1.2. Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Hoạt động Hải quan là một loại hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà
nước nhằm đảm bảo quản lý nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,
quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của cá nhân, tổ
chức trong nước và nước ngoài. Theo quy định của Luật Hải quan của Quốc
hội khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2011 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2005): "Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phải được làm thủ tục hải quan, chịu sự kiểm
tra, giám sát hải quan, vận chuyển đúng tuyến đường, qua của khẩu theo quy
định của pháp luật" [42, tr. 46]. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động luôn có
những hành vi cố ý hay vô ý vi phạm các quy định của Nhà nước đối với các
chế độ quản lý, các khâu nghiệp vụ của quá trình kiểm tra, giám sát Hải quan.
Các hành vi vi phạm pháp luật này tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải bị
xử phạt.
Trên cơ sở các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy
định, cơ quan Hải quan là cơ quan trực tiếp thực hiện quyền kiểm tra, giám

sát đảm bảo duy trì sự quản lý của Nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập
khẩu, phương tiện vận tải và hành khách xuất, nhập cảnh; điều tra chống buôn
lậu, chống gian lận thương mại nhằm bảo hộ và thúc đẩy phát triển sản xuất
trong nước, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu; thu thuế xuất nhập
khẩu bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng; bảo vệ môi trường; góp phần bảo vệ lợi ích chủ quyền kinh
tế và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Cơ quan hải quan thực hiện các
quyền thông qua một hệ thống các quy trình thủ tục hành chính đặc biệt gọi là

16
thủ tục hải quan nhằm hợp thức hóa cho hàng hóa, hành lý, phương tiện vận
tải khi qua lại biên giới, đồng thời thực hiện các quyền kiểm tra, giám sát
nhằm đảm bảo các chế độ quản lý của nhà nước đối với các đối tượng nói trên
cũng như các quy trình thủ tục được đảm bảo tuân thủ.
Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám
sát hàng hóa, phương tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp
luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu… [42, tr. 43].
Tất cả các quan hệ như vậy trong lĩnh vực hải quan được điều chỉnh
bởi các quy phạm pháp luật quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau lập nên tổng thể các quy
phạm pháp luật đặc biệt điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý
nhà nước về hải quan, tức là điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình thực hiện các biện pháp quản lý nhà nước đối với các hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu và xuất cảnh, nhập cảnh. Tổng thể các quy phạm pháp luật
đã có thể coi là các quy phạm pháp luật về hải quan. Do các quy phạm pháp
luật về hải quan là các quy tắc chung bảo vệ chế độ kiểm tra, giám sát hải
quan, là một trong những chế độ quản lý nhà nước nên có tính chất bắt buộc
thực hiện đối với mọi đối tượng cá nhân, tổ chức liên quan. Như vậy, có thể

nói đặc điểm chung nhất của các quy phạm pháp luật về hải quan là tính chất
bắt buộc thực hiện đối với các quy định, các chế độ về hải quan do Nhà nước
ban hành, do đã chúng mang tính chất mệnh lệnh của luật hành chính.
Một đặc điểm nữa của các quy phạm pháp luật về hải quan là tính chất
tích cực của các quy phạm này trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
qua biên giới. Một mặt đảm bảo cho việc tuân thủ trật tự kỷ cương trong hoạt
động xuất nhập khẩu và xuất nhập cảnh, mặt khác các quy phạm pháp luật về
hải quan quy định các biện pháp nhằm đấu tranh chống lại các hành vi vi

17
phạm pháp luật trong lĩnh vực: vi phạm các chế độ về xuất nhập khẩu, trốn,
lậu thuế, buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối qua biên giới.
Hiện nay, các quy phạm pháp luật về hải quan quy định quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật về hải quan. Các chế
độ quản lý hải quan cụ thể đã được ban hành trong Luật hải quan và được hệ
thống hóa trong các văn bản pháp quy do Chính phủ ban hành dưới nhiều
hình thức: Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của các Bộ, ngành
Trong thực tế hoạt động luôn có những hành vi cố ý hay vô ý vi phạm
các quy định của Nhà nước đối với các chế độ quản lý, các quy trình thủ tục
hay việc kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan. Các hành vi vi phạm pháp
luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm đều phải bị xử phạt, có hành vi bị
xử lý vi phạm hình sự như các hành vi buôn lậu hay vận chuyển trái phép
hàng hóa, hành lý qua biên giới (theo quy định tại các Điều 153 và 154 Bộ
Luật Hình sự), nhưng đa số bị xử phạt theo các quy định của Pháp lệnh về xử
lý vi phạm hành chính.
Tóm lại, xuất phát từ khái niệm, đặc điểm của vi phạm hành chính nói
chung, tính đặc thù của hoạt động quản lý nhà nước về hải quan nói riêng, và
từ các phân tích trên, theo quy định tại Điều 1, Nghị định số 97/2007/NĐ-CP
ngày 07/6/2007 của Chính phủ quy định việc xử lý vi phạm hành chính và
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan và Nghị

định số 18/2009/NĐ-CP ngày 18/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 6 năm 2007 của
Chính phủ quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan và Điều 1, Mục 1, Chương I,
Thông tư số 193/2009/TT-BTC ngày 01/10/2009 của Bộ Tài chính quy định
chi tiết thi hành Nghị định số 97/2007/NĐ-CP và Nghị định số 18/2009/NĐ-CP:
"Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là hành vi do cá nhân, tổ chức
thực hiện một cách cố ý, hay vô ý xâm phạm tới các quan hệ xã hội được các

18
quy định quản lý nhà nước về hải quan điều chỉnh, bảo vệ, chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt" [8].
Vi phạm hành chính về hải quan luôn luôn là hành vi (hành động hoặc
không hành động). Khi xác định một hành vi vi phạm pháp luật có phải là vi
phạm hành chính về hải quan hay không cần xét tới các dấu hiệu pháp lý cơ
bản sau:
- Hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý; Chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Các
cá nhân, tổ chức này khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính về hải quan
với lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý đều bị xử phạt theo qui định của pháp luật.
- Hành vi đó xâm phạm các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan điều chỉnh và bảo vệ mà
không phải là tội phạm.
- Mức độ của hành vi thấp hơn tội phạm hay nói cách khác tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm hành chính thấp hơn của tội phạm.
- Pháp luật qui định hành vi đó phải bị xử phạt vi phạm hành chính về
hải quan.
Về nguyên tắc, một hành vi chỉ bị coi là vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan khi nó được qui định trong các văn bản pháp luật. Pháp luật qui
định hành vi nào đó là vi phạm hành chính về hải quan và qui định chế tài xử

phạt tương ứng với hành vi đó là nhằm phân biệt rõ ranh giới giữa hành vi vi
phạm hành chính và hành vi hợp pháp, tạo điều kiện cho chủ thể xử sự theo
đúng qui định của pháp luật.
Như vậy, vi phạm hành chính về Hải quan là một dạng cụ thể của vi
phạm hành chính xâm hại các hoạt động quản lý của Nhà nước về Hải quan.
Các nhóm hành vi vi phạm cụ thể được quy định tại Nghị định số
97/2007/NĐ-CP và Nghị định số 18/2009/NĐ-CP và các quy định khác của
Chính phủ quy định việc xử phạt vi phạm hành chính.

19
1.1.3. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan mang đầy đủ các đặc
điểm chung của vi phạm hành chính nói chung, do vậy, cấu thành vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan cũng là tổng hợp những dấu hiệu đặc
trưng thể hiện đầy đủ tính xâm hại cho trật tự quản lý nhà nước của một loại
vi phạm hành chính và cần thiết cho việc xác định ranh giới của các loại vi
phạm hành chính khác nhau. Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động hải quan,
các vi phạm hành chính hải quan cũng có một số đặc điểm riêng có tác động
nhất định đến việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm này.
Vi phạm hành chính hải quan chỉ xảy ra trong hoạt động hành chính
có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, và do
đã có liên quan, chịu nhiều tác động của các yếu tố nước ngoài: đối tượng áp
dụng của pháp luật hải quan, ngoài các tổ chức, cá nhân trong nước thực hiện
xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện
vận tải, còn có các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
- Hoạt động hải quan mang tính tổng hợp, liên quan đến quy định của
nhiều đạo luật điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau như: Bộ luật Hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Thương mại, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu,… Do vậy, vi phạm hành chính về hải quan có thể do nhiều cơ quan
phát hiện và vi phạm hành chính hải quan có thể do nhiều cơ quan cùng tham

gia xử lý. Tuy nhiên, để tránh sự chồng chéo trong việc xử lý vi phạm hành
chính về hải quan, theo quy định của Luật hải quan về địa bàn hoạt động hải
quan thì trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan hải quan chịu
trách nhiệm kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất
cảnh, nhập cảnh để chủ động phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới, chống gian lận thương mại. Nghị định quy định việc
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cũng quy định thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính cho các cơ quan khác như: Chủ tịch UBND các
tỉnh, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển…

20
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan xâm phạm tới nhiều
quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh, bảo vệ. Vi phạm hành chính bao gồm
cả các vi phạm về chế độ quản lý xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa,
hành lý, ngoại hối, vàng, tiền Việt Nam, kim khí quý, đá quý, cổ vật, văn hóa
phẩm, bưu phẩm, vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh và các tài sản khác (gọi chung là hàng hóa); các quy định về xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải, nên có liên quan đến nhiều luật hoặc
các quy định chuyên ngành. Trong một số trường hợp, việc phân biệt rõ ràng
giữa vi phạm hành chính hải quan và vi phạm hành chính trong các lĩnh vực
khác là tương đối khó khăn. Chẳng hạn, phân biệt hành vi khai sai mã số, khai
sai trị giá tính thuế của hàng hóa vừa có thể xử phạt theo hành vi vi phạm
hành chính hải quan, vừa có thể xử phạt theo hành vi vi phạm luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu tùy theo cách xác định xem đã thuần túy là vi phạm
hành chính hải quan hay có mục đích trốn thuế mà việc xác định này không
phải khi nào cũng dễ dàng.
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Xử lý vi phạm hành chính là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước
áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy định của pháp

luật về quản lý nhà nước. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
(đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008), xử lý vi phạm hành chính bao
gồm: xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Xử
phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có
hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt vi phạm hành chính. Hiện nay, Chính phủ đã quy định trong các Nghị
định hàng nghìn hành vi phạm hành chính trong hầu hết các lĩnh vực đời sống
xã hội. Đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, để giữ vững trật

21
tự, kỷ cương trong lĩnh vực quản lý hải quan, giữ vững trật tự pháp luật và
đấu tranh có hiệu quả với những hành vi vi phạm hành chính nói chung và về
hải quan nói riêng, các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
cũng bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực hải quan, công tác xử phạt vi phạm hành chính thể
hiện quyền lực Nhà nước, thực hiện sự cưỡng chế đối với các chủ thể vi phạm
pháp luật hải quan. Công tác này mang tính nghiệp vụ tổng hợp, nhằm thực
hiện đúng các nguyên tắc trình tự luật định. Trong xử lý - tố tụng hành chính
phải hiểu đầy đủ các quy định pháp luật xuyên suốt trong quá trình hoạt động
nghiệp vụ, đồng thời qua hoạt động này cũng tác động tích cực lại các khâu
nghiệp vụ khác. Nhà nước áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối
với cá nhân, tổ chức có vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp xử lý
hành chính riêng biệt đối với từng loại đối tượng là cá nhân có quá trình vi
phạm pháp luật nhiều lần trong lĩnh vực hải quan nhưng chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
qui định các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính nói chung; theo đó, cá
nhân, tổ chức Việt Nam và nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật hải quan
đều phải chịu trách nhiệm hành chính về hải quan theo qui định.
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là một bộ phận

trong pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về hải quan. Xử phạt vi phạm
hành chính chỉ ra hình thức xử phạt, hành vi phải bị xử phạt, mức phạt tiền
cũng như những nội dung khác như các quy định về các hình thức xử phạt bổ
sung… và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan không bao
gồm các biện pháp xử lý hành chính khác. Các quy định của pháp luật xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là tổng thể các quy định tại các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác xử phạt vi phạm hành
chính của cơ quan hải quan bao gồm các quy định mang tính nguyên tắc tại
Pháp lệnh, Nghị định 97/2007/NĐ-CP và Nghị định 18/2009/NĐ-CP; ngoài ra
còn có nhiều quy định tại các văn bản pháp luật khác có liên quan trực tiếp

22
hoặc gián tiếp đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
như: Luật Hải quan; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Việc xác định đối tượng áp dụng theo từng biện pháp xử lý hành chính
khác nhau tương ứng tùy thuộc loại đối tượng vi phạm được căn cứ vào các
Điều 23, 24, 25, 26 và 27 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành, Nghị định
97/2007/NĐ-CP và Nghị định 18/2009/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng đối
với từng biện pháp nêu trên. Theo nghị định 97/2007/NĐ-CP thì xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là việc áp dụng hình thức xử phạt
chính (cảnh cáo; phạt tiền), hình thức xử phạt bổ sung (tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng
để vi hành chính), các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm
hành chính. Việc áp dụng các hình thức xử phạt, mức phạt, các biện pháp
khắc phục hậu quả khi xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào các văn
bản quy phạm pháp luật cụ thể quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Nghiên cứu những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan là vấn đề có ý nghĩa rất lớn, góp phần quan

trọng trong việc ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm hành
chính, tăng cường trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước về hải quan, khắc
phục hậu quả do vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan gây ra.
1.2.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Xuất phát từ bản chất của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan là áp dụng các chế tài hành chính đối với cá nhân, tổ chức
vi phạm trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định nên xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan có một số đặc điểm riêng, thể hiện:

23
Thứ nhất, việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan ban hành:
- Quốc hội: nhiều quy định về xử phạt hành chính hoặc áp dụng các
biện pháp hành chính khác được quy định trong các luật. Ví dụ, một số luật
thuế quy định về thẩm quyền và hành vi vi phạm hành chính về thuế cùng
khung, mức phạt cụ thể như Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật thuế
giá trị gia tăng
- Chính phủ: nhiều nghị định do Chính phủ ban hành quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, các nghị định
quy định chi tiết thi hành pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, các nghị định
quy định về chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành các thông tư hướng dẫn thi
hành các Nghị định về xử phạt hành chính, nhiều thông tư của các bộ, cơ quan
ngang bộ, thông tư liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ được ban hành để
hướng dẫn thi hành các nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
Các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan hoặc có liên quan đến lĩnh vực hải quan thường được sửa
đổi, bổ sung do sự biến động của thực tế quản lý hải quan và sự thay đổi

thường xuyên, nhanh chóng của thực tế quản lý nhà nước về kinh tế đối
ngoại, chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa… Điều này dễ dẫn đến tình trạng
mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Trong lĩnh vực xử lý vi phạm
hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
nói riêng thì việc xác định và quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
về các hành vi vi phạm hành chính sao cho đồng bộ thống nhất là một vấn đề
nổi cộm đang được đặt ra vì các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành
chính do nhiều cơ quan soạn thảo và thường ban hành chậm, nhiều trường
hợp hành vi vi phạm còn có sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.

24
Thứ hai, hoạt động áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
do nhiều cơ quan, nhiều người có thẩm quyền thực hiện. Xuất phát từ việc
quy phạm xử phạt hành chính trong lĩnh vực hải quan được quy định ở nhiều
văn bản do nhiều cơ quan khác nhau ban hành về những lĩnh vực khác nhau,
nên thẩm quyền áp dụng cũng do nhiều cơ quan áp dụng, nhiều cấp áp dụng.
Ví dụ như lực lượng Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, Quản lý thị trường,
một số thanh tra chuyên ngành Trong khi đó, vi phạm hành chính diễn ra
phổ biến, hàng ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội dưới nhiều hình thức
phong phú, đa dạng. Việc áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính được
tiến hành trực tiếp với người dân, với các tổ chức và cũng trực tiếp động chạm
đến các quyền tự do dân chủ của công dân, do vậy công tác giám sát, kiểm tra
rất khó thực hiện sâu sát và có hiệu quả. Điều này đòi hỏi tinh thần trách
nhiệm và tính tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật cao của nhân viên, công chức,
người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong khi thực thi công vụ.
Hoạt động của cơ quan hải quan, người có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính phải bảo đảm phù hợp với cá quy định của Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính, Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về tổ chức hoạt động, về

chức năng nhiệm vụ của cơ quan hải quan và người có thẩm quyền. Khi tiến
hành các hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm quyền phải
thực hiện mục đích, nội dung và yêu cầu của văn bản pháp luật cụ thể quy
định xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ ba, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thường
gắn với yếu tố nước ngoài. Căn cứ Điều 6 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính thì cá nhân, tổ chức Việt Nam và nước ngoài có hành vi vi phạm pháp
luật hải quan đều phải chịu trách nhiệm hành chính về hải quan theo quy định.
Theo đó, mọi đối tượng tham gia quan hệ pháp luật hải quan, nếu có hành vi
vi phạm pháp luật hải quan đều bị xử phạt. Tuy nhiên, trong thực tế hải quan
thường gặp vướng mắc với đối tượng vi phạm là người nước ngoài đặc biệt là

25
hành khách xuất nhập cảnh và hàng hóa của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì
vậy trong quá trình xử phạt gặp rất nhiều khó khăn trong việc ra quyết định
xử phạt và thực hiện quyết định xử phạt.
Thứ tư, trong lĩnh vực hải quan, người có thẩm quyền xử phạt vi vi
phạm hành chính chỉ được thực hiện quyền xử phạt vi phạm hành chính của
mình trong phạm vi thẩm quyền đã được xác định. Những trường hợp quyết
định xử phạt hoặc quyết định áp dụng biện pháp hành chính khác vượt thẩm
quyền được pháp luật quy định cho phép là vi phạm pháp luật và phải bị xử
lý. Ví dụ, đối với nhân viên hải quan khi thi hành nhiệm vụ chỉ được phép
phạt cảnh cáo và phạt tiền đến 200.000 đồng.
Thứ năm, trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, Bộ Tài chính có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống vi
phạm pháp luật hành chính. Ngoài Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành theo thẩm quyền, thì Chính
phủ có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định hành vi vi phạm
hành chính, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng

hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan bản chất cũng
giống như xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khác, nên cũng chịu
ảnh hưởng của các yếu tố sau:
1.2.3.1. Chất lượng của pháp luật
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan với các nguyên tắc của nó đã thể hiện vị trí và vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội, nhất là trong bối cảnh đất nước ta đang
trong quá trình đổi mới toàn diện mọi mặt đời sống xã hội, công nghiệp hóa,

26
hiện đại hóa đất nước, mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế, từng bước xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện việc củng cố, tăng cường pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan, cần phải có cơ sở pháp luật. Nhà nước phải có
một hệ thống pháp luật với đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và để thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình.
Không có một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ, ổn định và có tính khả thi
cao thì không thể có sự nghiêm minh của pháp luật. Nhưng nếu mặc dù đã có
hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ mà chất lượng không cao, có nhiều mâu
thuẫn chồng chéo hoặc đã lạc hậu, không còn phù hợp, thì pháp luật cũng
không thể duy trì và bảo đảm với chất lượng cao do việc thi hành và tổ chức
thi hành pháp luật sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp từ thực trạng hệ thống pháp luật
như vậy. Để cho hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện có chất
lượng cao thì vấn đề đặt ra là phải xây dựng một cơ chế xây dựng pháp luật
có hiệu quả cao.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật
Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng lớn đến pháp luật là vấn đề tổ chức

thực hiện pháp luật. Thực tế đã chứng tỏ rằng, có một hệ thống pháp luật toàn
diện, đầy đủ và chất lượng cao là vô cùng cần thiết nhưng yếu tố đó chưa đủ
để tạo nên một nền luật pháp có chất lượng, hiệu quả cao vì bản thân hệ thống
pháp luật đó chỉ nằm trên giấy nếu không được tổ chức thực hiện có hiệu quả
trong thực tiễn. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật có vai trò và ý nghĩa to
lớn, là khâu quan trọng bậc nhất để tăng cường và hoàn thiện pháp luật bởi đó
chính là khâu đưa pháp luật vào trong đời sống xã hội, là một khâu biến các
quy phạm pháp luật trở thành yếu tố vật chất tác động vào thực tế đời sống
nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
Để việc tổ chức thực hiện pháp luật đạt hiệu quả cao thì hoạt động
tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong

×