PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KHÁNH SƠN
TRƯỜNG MẦM NON 1/6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
Hãy mang dân ca đến gần hơn với trẻ 5- 6 tuổi.
Giáo viên: Nguyễn Thị Bạch Út
Độ tuổi: 5- 6 tuổi.
Khánh Sơn, tháng 04 năm 2013.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1.CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Âm nhạc là một bộ phận không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
Đối với trẻ mầm non, âm nhạc có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục nhân
cách. Âm nhạc là nguồn cảm hứng nội tâm, là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới
xung quanh, phát triển ngôn ngữ, quan hệ giao tiếp, trao đổi tình cảm, âm nhạc của trẻ
là thế giới kỳ diệu đầy cảm xúc. Điều đáng nói là âm nhạc tạo nên những cung bậc tình
cảm rất tinh tế, thuần hóa tâm thức, đưa con người về với nhân cách vốn có của mình.
Chính vì âm nhạc tác động lên mặt xúc cảm và tư tưởng nên âm nhạc đóng vai trò
không kém phần quan trọng trong việc giáo dục con người, nhất là thế hệ trẻ. Có thể
thông qua âm nhạc để giáo dục tư tưởng, đạo đức cho trẻ. Âm nhạc giúp con người,
nhất là thời thơ ấu đang phát triển, lớn lên về mọi mặt: văn, thể, mỹ, đức, trí…
Đứng trước tình hình đổi mới của đất nước, cùng với sự phát triển không ngừng
của nền giáo dục nước nhà, đất nước đang trên đường mở cửa những ảnh hưởng không
nhỏ của nhiều nền văn hóa khác nhau thì việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa
vốn có của ông cha ta từ ngàn xưa là nhiệm vụ cần và cập nhật nhất…. Đặc biệt là
những điệu nhảy “Hip hop”; “Rock”… đã ảnh hưởng không nhỏ đến thế hệ trẻ . Chính
vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị của dân ca là đưa dân ca đến mọi tầng lớp,
nhất là các em học sinh ở các bậc học, để dân ca dần trở thành một nhân tố âm nhạc
không thể thiếu của cuộc sống hiện đại.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Như chúng ta đã biết, Việt Nam có 54 dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc lại
có âm điệu, lời ca riêng. Đây là những giá trị văn hóa phi vật thể vô cùng quý giá của
dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, ngay từ thuở lọt lòng, dân ca đã giành cho trẻ những bài hát
đơn sơ, mộc mạc nhưng du dương, ngọt ngào để đưa trẻ vào giấc ngủ êm đềm. Như vậy
dân ca đến với trẻ từ rất sớm.
Để hun đúc cho trẻ có tâm hồn dân tộc, lòng tự hào dân tộc về truyền thống quý
báu của cha ông ta. Lấy nguồn cảm hứng từ thực tế cuộc sống, dân ca được sáng tạo
nên, đó là lời ăn, tiếng nói của ông cha ta tích lũy từ ngàn đời. Đó là những câu hát được
truyền tải bằng âm thanh giọng điệu ngôn ngữ với nội dung nghệ thuật phong phú, đa
dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Những cái hay, cái đẹp, những nét đặc sắc của dân tộc từ
đời này qua đời khác đã theo các làn điệu dân ca tác động đến nhiều thế hệ. Những làn
điệu dân ca, những sáng tác mang sắc thái dân tộc phải thực sự được trẻ cảm nhận từ lời
ca đến cả tâm hồn của trẻ.
Trải qua hơn bốn ngàn năm thăng trầm, người Việt đã đúc kết một kho tàng dân
ca thấm đậm tình yêu quê hương đất nước. Nghệ thuật gìn giữ và phát triển dân ca từ
ngàn xưa đã trở thành nét văn hoá đặc biệt của người Việt Nam. Vì vậy thế hệ trẻ của
chúng ta đã làm gì? và làm như thế nào? để gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống đó.
Đây là một câu hỏi khó mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều phải suy nghĩ….
Đứng trước tình hình thực tế đó, với những khó khăn, thử thách là một giáo viên
mầm non, tôi cũng không thể không suy nghĩ và cần phải làm một điều gì đó để đưa dân
ca ngày càng đến gần với trẻ hơn. Đặc biệt, trẻ lứa tuổi này đã có khả năng tri giác toàn
vẹn hình tượng âm nhạc. Những động tác của trẻ có vẻ như thuần thục, uyển chuyển
hơn so với các lứa tuổi khác. Khả năng nghe nhạc và phối hợp các động tác nhịp nhàng
hơn và thể hiện được sắc thái trên nét mặc khi biểu diễn. Đồng thời khi nghe và xem
băng hình thì khả năng ghi nhớ và khả năng bắt chước tốt hơn. Chính vì vậy, tôi đã lựa
chọn đề tài “ Hãy mang dân ca đến gần hơn với trẻ 5- 6 tuổi” với mong muốn góp một
phần nhỏ bé vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ đồng thời gìn giữ truyền
thống quý báu của ông cha ta từ ngàn xưa để lại.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A.TÌNH HÌNH CHUNG:
Đầu năm, tôi được phân công dạy ở lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi, qua khảo sát thực tế ở
độ tuổi này cho thấy:
Trẻ mạnh dạn, tự tin: 43/67 cháu-
đạt 64,17%.
Khả năng cảm thụ âm nhạc: 35/67
cháu- đạt 52,23%.
Thẩm mỹ: 45/67 cháu- đạt 67,16%.
Ngôn ngữ: 40/67 cháu- đạt 59,7%.
Vốn từ: 42/67 cháu- đạt 62,68%.
Tình cảm, tình yêu quê hương, đất
nước, con người: 46/67 cháu- đạt
68,65%.
1.THUẬN LỢI:
Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường cùng các bạn đồng
nghiệp.
Cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ: có phòng đa năng, máy tính, ti vi, đầu đĩa…
và một số trang phục, đạo cụ để thuận tiện cho việc tổ chức các hoạt động âm nhạc.
Trang phục, đạo cụ phục vụ cho hoạt động âm nhạc
Trong lớp được bố trí đủ 2 giáo viên/ lớp. Giáo viên luôn nhiệt tình trong công
tác, luôn có tinh thần trách nhiệm, yêu nghề, mếm trẻ, tâm huyết với nghề.
Được sự quan tâm giúp đỡ của phụ huynh về mọi mặt.
2.KHÓ KHĂN:
Một số trẻ chưa mạnh dạn, tự tin, chưa nhanh nhẹn, còn thụ động.
Giáo viên chưa linh hoạt, mềm dẻo trong các động tác múa, vận động minh họa.
B.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Dân ca là những bài hát do nhân dân sáng tác ra, không rõ tác giả. Đầu tiên có thể
do một người nghĩ ra rồi truyềng miệng qua nhiều người, từ đời này qua đời khác và
được phổ biến từng vùng, từng dân tộc… Các bài hát được gọt giũa, sàng lộc qua nhiều
năm tháng nên có sức sống bền vững với thời gian.
Dân ca của mỗi nước, mỗi dân tộc hay mỗi vùng miền đều có âm điệu, phong
cách riêng biệt. Sự khác nhau này tuỳ thuộc vào môi trường sống , hoàn cảnh địa lí và
đặc biệt là ngôn ngữ. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với một nền văn hoá lâu đời ,
do đó ca nhạc Việt Nam phong phú, đa dạng. Kho tàng dân ca Việt Nam gồm nhiều
vùng miền, nhiều thể loại : Dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca đồng bằng Bắc Bộ, dân ca
Nam Bộ, dân ca của dân tộc miền núi phía bắc (đồng bào Thái; H’mông; Mường ), dân
ca của dân tộc Tây Nguyên(Gia-Rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ Đăng…) đều có bản sắc riêng. Từ
bao đời nay, dân ca gắn bó với đời sống văn hóa và tinh thần cộng đồng các dân tộc trên
khắp dải đất Việt Nam.
Để gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, để dân ca đến gần hơn với trẻ.
Qua tìm tòi, nghiên cứu, tôi đã tìm ra một số biện pháp như sau:
1.Lựa chọn những bài hát dân ca giúp trẻ dễ thuộc, dễ nhớ:
Trong kho tàng dân ca Việt Nam có rất nhiều bài hát dân ca, tuy nhiên chúng ta
cần phải biết lựa chọn những bài hát dân ca phù hợp với trẻ để giúp trẻ dễ học, dễ nhớ.
Đó là những bài dân ca được phổ nhạc từ những bài ca dao, đồng dao vì những bài đồng
dao thường được gieo vần và rất gần gũi với trẻ nên trẻ dễ thuộc, dễ nhớ. Chính vì khả
năng dễ nhớ, dễ tiếp thu, dân ca đi vào đời sống của trẻ thơ một cách rất tự nhiên và
trong mọi hoàn cảnh.
VD: Bài hát “Rềnh rềnh ràng ràng”; “Bắc kim thang”….
Bên cạnh đó, năm nay là năm thứ tư trường thực hiện chương trình mầm non mới
theo diện đại trà nên các hoạt động thường thực hiện theo từng chủ đề. Chính vì vậy,
việc lựa chọn một số bài dân ca phù hợp với chủ đề để đưa vào chương trình là điều cần
thiết, điều này sẽ giúp trẻ dễ nhớ hơn đồng thời gây sự hứng thú của trẻ vào trong hoạt
động và phần nào khắc sâu thêm những kiến thức về chủ điểm mà trẻ đã được học.
VD:
Với chủ điểm Quê hương tôi chọn bài: Cò lả; Inh lả ơi qua bài hát này tôi giới
thiệu cho trẻ biết thêm về cảnh đẹp của đất nước Việt Nam ta có đồng lúa cò bay thẳng
cánh, và một vùng núi Tây Bắc với ngàn hoa khoe sắc….
Chủ điểm nghề nghiệp tôi chọn bài: “Lý chiều chiều” dân ca Nam Bộ , để giới
thiệu cho trẻ biết thêm về nghề nông và đây chính là một nền nông nghiệp lâu đời của
đất nước Việt Nam ta. Sự chịu thương chịu khó, tảo tần, vất vả của những người dân lao
động tay lấm chân bùn qua điệu lý “Lý chiều chiều”. Từ đó trẻ càng yêu quý và kính
trọng những người dân lao động….
Chủ điểm nước và hiện tượng thiên nhiên tôi giới thiệu cho trẻ biết thêm “Mưa”
cũng là một trong những hiện tượng thiên nhiên thông qua bài hát “ Mưa rơi” dân ca
Xá.
Chủ điểm động vật tôi trò chuyện với trẻ về những động vật sống trong gia đình,
sau đó dẫn dắt giới thiệu với trẻ bài hát "Gà gáy le te" dân ca Cống khao.
Trẻ hát múa các bài hát mang đậm bản sắc Tây Nguyên
2. Giảng giải nội dung giúp trẻ hiểu nội dung bài dân ca nhằm phát triển ngôn
ngữ, phát triển tình cảm, giáo dục nhân cách cho trẻ:
Khi dạy cho trẻ hát dân ca không chỉ là để trẻ thuộc là đủ, mà qua đó trẻ còn hiểu
thêm về nội dung của từng bài hát, từng làn điệu dân ca; biết được thể loại của làn điệu
dân ca đó.
VD: Bài “Lý chiều chiều” cô giới thiệu và giảng giải cho trẻ biết đây là bài dân ca
Nam Bộ. Bài hát ca ngợi tình yêu lao động, trân trọng những giá trị của sự lao động, sự
cần cù chịu thương chịu khó của người phụ nữ Nam Bộ nói riêng và người phụ nữ Việt
Nam nói chung.
Với bài “Inh lả ơi” cô nói với trẻ đây là dân ca Thái, bài hát ca ngợi cảnh núi rừng
Tây Bắc thật xinh đẹp với muôn ngàn hoa nở. Qua bài hát trẻ càng thêm yêu và gắn bó
với quê hương đất nước Việt Nam.
Hoặc với bài “Trống cơm” cô giới thiệu với trẻ đây là bài hát vui nhộn, duyên
dáng … là một trong những làn điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Bài “Bà Còng”, đây là bài hát phổ nhạc từ ca dao cổ nói về một bà già lưng đã
còng, khi bà đi chợ, không may bà đã làm rơi tiền. Các bạn nhỏ khi nhìn thấy đã nhặt và
trả lại cho bà. Qua bài hát cô giáo dục trẻ kính trọng, giúp đỡ người mọi người nhất là
những người lớn tuổi như: ông bà, cha mẹ… giáo dục trẻ thái độ kính trọng người khác.
Qua giảng giải nội dung nhằm mở rộng vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung
quanh, trẻ biết thêm về các làn điệu dân ca của các vùng miền khác. Đồng thời ngôn
ngữ của trẻ phát triển, vốn từ ngày càng mở rộng, trẻ yêu thương quê hương, đất nước,
con người; có thái độ đúng đắn đối với con người và thế giới xung quanh.
3.Chuẩn bị cho trẻ một số đạo cụ, nhạc cụ, trang phục để phục vụ cho các bài hát
dân ca:
Mỗi bài hát dân ca đều có tính chất, âm hưởng riêng của từng vùng miền và nó
được thể hiện rõ nét nhất qua trang phục, đạo cụ. Chính vì vậy, khi dạy cho trẻ bài hát
dân ca vùng miền nào thì cần trang bị cho trẻ những trang phục phù hợp, qua đó không
chỉ làm đẹp cho trẻ, không chỉ là để thu hút trẻ tích cực tham gia vào hoạt động mà còn
nhắn nhủ với trẻ rằng đó là bản sắc văn hóa riêng của từng vùng miền. Và điều quan
trọng hơn là trẻ được hóa thân vào những nhân vật trong các bài dân ca, giúp trẻ hiểu
hơn về những con người của từng vùng miền trên mảnh đất Việt Nam.
Đây là bộ trang phục của dân ca Quan họ Bắc Ninh
Khi dạy trẻ múa cô chuẩn bị trang phục áo yếm, váy đụp, đầu quấn khăn… thì
trẻ nhận ra ngay đó là dân ca Bắc Bộ. Hoặc áo tứ thân, đầu đội nón quai thao thì trẻ biết
đó là dân ca Quan họ Bắc Ninh….
Trẻ hóa thân vào những cô gái vùng Bắc Bộ
Nếu so với trang phục truyền thống của các vùng miền khác thì có lẽ áo bà ba là
bộ trang phục giản dị nền nã nhất. Chiếc áo bà ba trở thánh nét biểu trưng đặc sắc cho
vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp văn hóa của người phụ nữ Nam Bộ nói riêng và người phụ nữ
Việt Nam nói chung.
Chính vì vậy, khi hát múa những bài hát dân ca Nam Bộ thì trang phục đặc trưng
cho trẻ để trẻ hóa thân vào và đưa chúng ta về với vùng đất Nam Bộ đó là: Bộ quần áo
bà ba, khăn rằng, nón lá.…
Trẻ hát múa các bài dân ca Nam Bộ
Ngoài ra thì tùy từng bài hát cụ thể mà có những nhạc cụ đi kèm như: Bài “Trống
cơm”; “Cò lả” ngoài trang phục ra thì có đạo cụ đi kèm để làm cho bài hát múa thêm
sinh động, gây cho trẻ sự thích thú. Chính vì điều đó là một phần nhỏ góp phần đưa dân
ca đến gần với trẻ hơn.
Đạo cụ đi kèm khi trẻ biểu diễn các bài hát dân ca.
Hay là bài “Xòe hoa” dân ca Thái thì đạo cụ đi kèm có thể là dù….; Bài “Hoa
trong vườn” dân ca Thanh Hóa có thể sử dụng quạt múa….
Điều đặc biệt hơn nữa là khi dạy trẻ hát múa thì không thể thiếu nhạc cụ, vì đây là
yếu tố để tạo cho bản nhạc thêm sinh động, thêm phần lôi cuốn, hấp dẫn. Và khi trẻ hát
hoặc múa trẻ phải chú ý nghe nhạc để vào nhịp cho đúng… điều này đã giúp trẻ rèn
luyện tai nghe và khả năng cảm thụ âm nhạc. Vì vậy khi dạy trẻ hát múa dân ca tôi
không chỉ chuẩn bị trang phục, đạo cụ mà ngay cả nhạc cụ tôi đều chuẩn bị rất chu đáo.
Khi nhìn trẻ say sưa thể hiện các làn điệu dân ca, sự kết hợp nhịp nhàng các động
tác và khả năng phối hợp nhuần nhuyễn, thuần thục các bài dân ca đã đưa chúng ta về
với những vùng đất có những làn điệu dân ca mượt mà, thiết tha đến thế. Từ đó, khơi
gợi ở trẻ lòng khát khao tìm về cội nguồn dân tộc….
4.Công tác phối hợp với các bậc phụ huynh:
Trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ việc phối hợp với phụ huynh là vấn đề cần
thiết, vì trẻ ở lứa tuổi này dễ nhớ nhưng chóng quên do đó những gì trẻ được học ở trên
lớp thì khi về nhà trẻ cũng cần được ôn lại để trẻ nhớ và khắc sâu hơn. Chính vì vậy, cô
giáo cần tuyên truyền với phụ huynh về tầm quan trọng của việc mang dân ca đến gần
hơn với trẻ để khi về nhà bố mẹ có thể hướng dẫn trẻ hát hoặc có thể mở những bài hát
dân ca cho trẻ nghe. Như vậy, những bài hát mà ở trường trẻ đã được học thì giúp trẻ
cũng cố, khắc sâu hơn đồng thời mở rộng thêm cho trẻ về những làn điệu dân ca khác
mà trẻ chưa biết.
Đặc biệt khi tổ chức các ngày lễ, hội ở trường thì đây là cơ hội để trẻ thể hiện tài
năng của mình, do đó tôi đã cố gắng lựa chọn những bài hát dân ca để cho trẻ được múa
hát, được thể hiện mình. Đây chính là cơ hội để phụ huynh thể hiện sự quan tâm của
mình đối với trẻ và thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa cô giáo với phụ huynh. Đó là cô
giáo và phụ huynh cùng nhau chuẩn bị trang phục và đạo cụ cho trẻ, cùng hướng cho trẻ
trong việc lựa chọn các làn điệu dân ca hay và phù hợp với lứa tuổi của mình.
Trẻ tham gia vào các hoạt động lễ hội ở
trường
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1.KẾT LUẬN:
Như chúng ta đã biết, dân ca là
một mảnh đất trù phú, một kho tàng âm
điệu vô tận, là nhân tố thể hiện tính cách
dân tộc của một địa phương hay một dân
tộc nào đó. Chính vì vậy, qua từng làn
điệu dân ca mà trẻ được học trẻ càng hiểu
thêm về bản sắc văn hóa riêng của từng
vùng miền. Và nền âm nhạc chuyên
nghiệp với tất cả những hình thức phong
phú muôn màu muôn vẻ của nó cũng đều
bắt nguồn từ di sản dân tộc, từ vốn cổ
truyền của thế hệ trước để lại. Do đó,
việc mang dân ca đến gần với trẻ hơn là
một vấn đề cần thiết và không kém phần quan trọng.
Qua thời gian nhiên cứu, tìm ra những biện pháp để mang dân ca đến gần hơn với
trẻ, tôi thấy trẻ đã có những chuyển biến rõ rệt, cụ thể:
Trẻ mạnh dạn, tự tin: 56/67 cháu- đạt 83,58%, tăng 19,41%.
Khả năng cảm thụ âm nhạc: 46/67 cháu- đạt 68,65%, tăng 16,42%.
Thẩm mỹ: 60/67 cháu- đạt 89,55%, tăng 22,39%.
Ngôn ngữ: 50/67 cháu- đạt 74,62%, tăng 14,92%.
Vốn từ: 54/67 cháu- đạt 80,59%, tăng 17,91%.
Tình cảm, tình yêu quê hương, đất nước, con người: 58/67 cháu- đạt 86,56%,
tăng 17,91%.
Đặc biệt, tính nghệ thuật ở trẻ phát triển mạnh. Điều đó đã giúp tôi càng có nghị lực hơn
trong công tác, làm cho tôi càng thêm phấn khởi, yêu nghề mến trẻ.
Công tác phối hợp với phụ huynh ngày càng được mở rộng, các bậc phụ huynh
ngày càng quan tân hơn với trẻ về mọi mặt.
Về bản thân tôi, tôi thấy mình phần nào cũng linh hoạt hơn, chủ động hơn trong
mọi hoạt động, phần nào tôi thấy mình mạnh dạn, tự tin hơn khi đứng trước trẻ dạy trẻ
múa hát những bài hát dân ca mà trước đây tôi còn rụt rè và nghĩ rằng mình không có
năng khiếu trong lĩnh vực này….
2.BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện với sự nổ lực, cố gắng và tính kiên trì
của bản thân, tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm như sau:
Trước hết, là một giáo viên mầm non bản thân mình phải làm tốt vai trò của
mình: luôn sáng tạo, linh hoạt, không ngừng tìm tòi, học hỏi, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ… để góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ và trang bị
những gì tốt đẹp nhất cho thế hệ trẻ mai sau, đó là giữ gìn câu hát dân ca và phát huy
truyền thống quý báu của dân tộc.
Vì dân ca có sức ảnh hưởng lớn như thế, cho nên các bậc phụ huynh, những
người làm công tác giáo dục cần phải lưu tâm nhiều hơn nữa về vấn đề này. Trong nhà
trường, trong các sinh hoạt tập thể nên lựa chọn những loại âm nhạc có nội dung lành
mạnh, phù hợp với lứa tuổi của trẻ để dạy trẻ, để cho trẻ nghe. Trong gia đình, các bậc
phụ huynh nên khuyên nhủ và định hướng cho con em mình lựa chọn âm nhạc để nghe,
hướng dẫn cho các em biết cách cảm thụ âm nhạc, đặc biệt là các làn điệu dân ca.
Bản thân tôi không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức để nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Nghiên cứu, sưu tầm những bài hát dân ca phù hợp với trẻ và mang tính
giáo dục cao để đưa vào chương trình. Đồng thời trao đổi với đồng nghiệp để mọi người
thấy được tầm quan trọng của việc mang dân ca đến với trẻ để đưa vào áp dụng phù hợp
với từng nhóm lớp.
Trên đây là một số biện pháp “ Hãy mang dân ca đến gần hơn với trẻ 5- 6 tuổi”.
Trong quá trình nghiên cứu chắc chắn cũng không sao tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, các Thầy Cô để đề tài
ngày càng được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Khánh Sơn, ngày 18 tháng 04 năm 2013
Xác nhận của nhà trường Người viết
Nguyễn Thị Bạch Út
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ(Lý do chọn đề tài) 1
1. Cơ sở lý luận 1
2. Cơ sở thực tiễn 1
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3
A. Tình hình chung 3
1. Thuận lợi 3
2. Khó khăn 4
B. Nội dung nghiên cứu(Các biện pháp) 4
1. Lựa chọn những bài hát dân ca giúp trẻ dễ thuộc, dễ nhớ 4
2. Giảng giải nội dung giúp trẻ hiểu nội dung bài dân ca nhằm phát triển 5
ngôn ngữ, phát triển tình cảm, giáo dục nhân cách cho trẻ
3. Chuẩn bị cho trẻ một số đạo cụ, nhạc cụ, trng phục để phục vụ cho các 6
bài hát dân ca
4. Công tác phối hợp với các bậc phụ huynh 9
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 10
1. Kết luận 10
2. Bài học kinh nghiệm 10
PHỤ LỤC
*Một số bài hát dân ca của các vùng miền:
Rềnh rềnh ràng ràng- Dân ca Nam Bộ
Bắc kim thang- Dân ca Nam Bộ
Ru con- Dân ca Nam Bộ
Lý chiều chiều- Dân ca Nam Bộ
Bà còng- Dân ca Nam Bộ
Cò lả- Dân ca đồng bằng Bắc Bộ
Inh lả ơi- Dân ca Thái
Mưa rơi- Dân ca Xá
Trống cơm- Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Xòe hoa- Dân ca Thái
Hoa trong vườn- Dân ca Thanh Hóa
Lý Kéo chài- Dân ca Nam Bộ
Hò ba lý- Dân ca Quảng Nam
Lý hoài nam- Dân ca Quảng Trị- Thừa Thiên
Gà gáy le te- Dân ca Cống Khao
Hoa thơm bướm lượn- Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Ru em- Dân ca Xê Đăng
PHỤ LỤC
1. Một số bài hát ru của người Raglay:
RU EM
Du du du bẽn. Pìq pìq veq bẽn, pìq pìq veq bẽn, pìq pìq veq bẽn.
Pìq veq bẽn, peq voh tuwùq, du adơi bẽn. Bẽn pìq, pìq veq bẽn, pìq veq bẽn, pìq
veq bẽn.
Peq voh ruvai, dai adơi maluh du pìq.Pìq veq bẽn, pìq veq bẽn, pìq veq bẽn.
(Ngủ ngủ đi em. ngủ đi em, ngủ đi em, ngủ đi em.
Ngủ đi em, hái quả bí rừng, ru em, em ngủ. Ngủ đi em, ngủ đi em, ngủ đi em.
Hái trái đậu cúc, đưa võng cho em ngủ. Ngủ đi em, ngủ đi em, ngủ đi em).
RU CON
Pìq pìq veq nai, Awơi ngãq vu.
Ama nãu ga djuh, suơi di wơq.
Awơi nãu ga ia, suơi di va.
(Ngủ ngủ đi em, mẹ nấu cơm.
Bố đi gùi củi, lâu mới về.
Mẹ đi lấy nước, lâu mới về).
RU CON
Du du nai. Pìq pìq veq nai. Pìq veq nai, pìq veq nai, pìq veq nai.
Pìq veq nai, peq voh tuwùq, du nai, nai pìq. Pìq veq nai, pìq veq nai, pìq veq nai.
Peq voh ruvai, dai nai maluh, du pìq. Pìq veq nai, pìq veq nai, pìq veq nai.
(Ngủ ngủ đi con. ngủ đi con, ngủ đi con, ngủ đi con.
Ngủ đi con, hái quả bí rừng, ru con, con ngủ, ngủ đi con, ngủ đi con, ngủ đi con.
Hái trái đậu cúc, đưa võng cho con ngủ, ru ngủ, ngủ đi con, ngủ đi con, ngủ đi con).
2. Một số bài dân ca các vùng miền khác:
Rềnh rềnh ràng ràng- Dân ca Nam Bộ
Bắc kim thang- Dân ca Nam Bộ
Ru con- Dân ca Nam Bộ
Lý chiều chiều- Dân ca Nam Bộ
Bà còng- Dân ca Nam Bộ
Cò lả- Dân ca đồng bằng Bắc Bộ
Inh lả ơi- Dân ca Thái
Mưa rơi- Dân ca Xá
Trống cơm- Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Xòe hoa- Dân ca Thái
Hoa trong vườn- Dân ca Thanh Hóa
Lý Kéo chài- Dân ca Nam Bộ
Hò ba lý- Dân ca Quảng Nam
Lý hoài nam- Dân ca Quảng Trị- Thừa Thiên
Gà gáy le te- Dân ca Cống Khao
Hoa thơm bướm lượn- Dân ca Quan họ Bắc Ninh